Chương 5 Quân Bài Tarot
Tôi bước vào một con ngõ vắng, tất cả những căn nhà trong đó đều đã đóng cửa im lìm. Tôi bước theo thứ ánh sáng duy nhất dẫn lối lên một cầu thang hẹp. Khi đã bước hết những bậc thang nhớp nháp nước, tôi nhận ra mình không phải đang ở tầng hai, mà lại trong một căn hầm tối có những sợi xích dài chăng khắp nơi. Một mỏm đá có hình thù kì dị phía trước, nó lõm như thể đã có ai đó tựa lưng suốt một thời gian dài. Tôi đưa tay chạm vào, hơi ấm vẫn còn quanh quẩn đâu đó. Tôi nhìn kĩ vào tảng đá thì nhận ra nó có hình dáng như một khuôn mặt. Một người đàn ông với bộ hàm lớn đang há ra và lệch sang một bên đau đớn, từ cổ của ông ta chảy ra một dòng máu nhỏ. Tôi chạm tay vào nó, thấy ươn ướt và dính nhớp nháp.
Tôi tỉnh dậy, nhận ra mình đã gục xuống sofa ngủ sau khi Đăng về đêm hôm trước. Những cơn ác mộng không ngừng theo đuổi, cả ngày lẫn đêm. Tập tài liệu vứt vương vãi trên bàn nhắc tôi rằng chuyện cậu ta đã có mặt ở đây là hoàn toàn có thật. Tôi cần chúng để phân biệt giữa giấc mơ và thực tại, nếu không, tôi sẽ lẫn lộn tất cả với nhau và sớm phát hiện ra là mình cần nhiều hơn số thuốc vẫn uống.
Tôi đưa cho Đăng chìa khóa phụ vào nhà. Dù sao, ngoài A.K thì căn hộ của tôi cũng chẳng có gì đáng giá. Tôi xem lại những giấy tờ một lần nữa, đánh dấu những chỗ cần ghi nhớ rồi xếp gọn lại. Khi vào toilet xả nước ấm rồi úp mặt xuống một lúc lâu, tôi nhìn thấy bộ râu cả tuần không cạo đã nham nhở trên khuôn mặt gầy guộc, mái tóc cũng đã dài chạm mắt từ khi nào. Tôi đánh răng một cách chậm rãi, để hương bạc hà xộc lên não. Dù lơ mơ giữa thực và ảo, tôi nhận ra mình đang mắc kẹt với một chiếc đồng hồ vô hình, chạy đua với thực tại để tìm lại quá khứ.
Tôi bước ra phòng khách, bê chiếc sofa lùi vào một góc, hạ tất cả khung tranh xuống và gỡ chiếc tủ sách sang một phía khác. Toàn bộ mảng tường trước mặt đã trống trơn. Con cú mèo trong bức tranh lại nhìn tôi chờ đợi, nó không chắc tôi sẽ làm gì, hoặc chính tôi đang tưởng tượng ra rằng nó nghĩ vậy. Dù sao thì nó cũng không có phản ứng nào thái quá khi tôi hạ bức tranh xuống, tôi đã mường tượng nó sẽ nhảy xổ ra khỏi bức tranh, kêu lên một tiếng hãi hùng, mổ thủng đầu tôi rồi bay vù qua cửa sổ khuất dạng. Có thể điều đó sẽ xảy ra trong một giấc mơ nào đó của tôi, nhưng giờ khi đang đứng đây, trước mặt là bức tường trống, tôi biết mình còn chênh vênh hơn thế, không có sự vùng vẫy nào có thể khiến cơn ác mộng này dừng lại.
Tôi hít một hơi thật sâu, bắt đầu sắp xếp những bức ảnh và tài liệu theo những ghi nhớ khi nãy. Tôi ghim chúng lên tường, dán những bức ảnh và vẽ những cây phả hệ giả tưởng cho các suy nghĩ bất chợt. Một khung thời gian nhỏ được ghi lại ở phía bên phải, tôi điền vào đó các quãng thời gian mọi sự kiện có liên quan tới Bảo xảy ra từ khi tôi bắt đầu biết cô. Mọi thứ nhanh chóng tạo thành những đường nối chằng chịt, phủ kín bức tường trước mặt. Những vạch xanh đỏ cắt nhau thành những dấu hỏi chấm lớn. A.K nằm phủ phục dưới chân tôi quan sát một cách tập trung, chiếc đuôi nó đưa qua đưa lại theo một nhịp độ không đổi, biểu hiện sự cảnh giác nhất định với mớ hỗn độn trước mặt. Tôi lùi lại, nhìn vào những bức ảnh và bài báo ngập trên tường, tự cảm thấy mình như một kẻ mất trí nhớ đang cố xâu chuỗi lại những mảnh ghép cuộc sống đã đánh rơi.
Tôi ngồi xuống chiếc sofa giờ đã được kê lại ở đầu kia của căn phòng, nhìn ngắm tổng thể tác phẩm mà mình vừa tạo ra. Tôi cảm giác như đồng tử giãn dần, kéo từng phần của bức tranh lớn lại xem xét một cách chăm chú, rồi lại đẩy chúng ra như những ngăn kéo của một ngăn tủ không chìa khóa. Tôi nhanh chóng chăm chú vào sợi tơ mỏng nhất trên chiếc mạng nhện khổng lồ: Lâm Việt Hải.
Sau khi nói với Trang rằng tôi đang ngập trong đống giấy tờ đã quá hạn cần giải quyết và sẽ đóng cửa trong vài ngày, cô có vẻ không mấy ngạc nhiên. Từ chối gặp Trang thực ra không phải quá khó, bởi cô cũng đã quen với việc tôi cắm mặt xuống mấy cuốn sách cả tuần.
“Nhưng ngày mai là Giáng sinh.” Trang lầu bầu.
“Năm nào chẳng có Giáng sinh. Mặt trời không đột nhiên hết năng lượng đâu, em yên tâm.” Tôi cười. “Nếu không làm việc bây giờ, chắc anh sẽ mất cả Tết luôn.”
“Tính sau. Đi với em đi, sẽ vui lắm. Em đang nhớ anh quá đây.”
“Thôi nào, nhà đang hết khăn giấy. Đừng làm anh cảm động quá.”
“Được thôi vậy em sẽ đi xem phim với đứa bạn. Anh nhớ đừng bỏ bữa, và hãy ăn đầy đủ rau xanh. Em không muốn đến năm ba mươi tuổi anh sẽ chiếm dụng nhà vệ sinh ba tiếng một ngày.”
Tôi ậm ừ cho qua chuyện rồi dập máy. Thực chất đến năm ba mươi tuổi tôi có sản xuất ra cầu vồng mỗi khi vào toilet thì cũng chẳng phải chuyện gì lớn lao cho lắm, điều quan trọng hơn tất thảy vào thời điểm này đang ở trước mắt tôi trên bức tường lớn. Tôi di chuyển tới lui liên tục trong nhà, suy nghĩ về những giả thiết hợp lí cho câu chuyện và lời giải mà mình sẽ phải tìm ra. Những cánh cửa đóng kín khiến cảm giác về thời gian tuyệt nhiên hoàn toàn biến mất. Tôi có ba giả thuyết chính cho vụ mất tích của Bảo: cô đã bỏ đi - như cô đã từng bỏ đi, cô đã chết vì một lí do nào đó, và cuối cùng là cô đã bị bắt cóc. Giả thuyết thứ nhất dễ dàng xảy ra nhất, giả thuyết thứ hai là thứ khiến tôi sợ hãi nhất, và giả thuyết thứ ba là điều tôi tin rằng là sự thật nhất. Nhưng vì sao và như thế nào thì tôi lại chẳng thể lí giải nổi. Tin vào những lập luận của Đăng, tôi cho rằng mình tạm thời có thể gạt dòng mật mã sang một bên điều tra từ những gì trước mắt, dù sao nó cũng là một tờ giấy được viết cách đây năm năm, điều gì đảm bảo rằng nó sẽ có giá trị trong thời điểm hiện tại.
Trời bỗng mưa rả rích, tôi mặc kệ, tự làm cho mình một chiếc hamburger kẹp dăm bông và phô mai, ngồi nhấm nháp với con Budweiser. Tôi cảm giác như đang nhai một đống lá khô lao xao trong miệng, những tế bào máu di chuyển một cách lườu biếng. A.K lượn lờ ở dưới chân tôi nhặt những miếng bánh vụn, một miếng nhỏ rơi vào khe của tấm thảm sát chân bàn khiến đôi chân to của nó không thể với tới. Tôi quan sát con chó kiên nhẫn huých thân mình vào chiếc bàn lớn, hi vọng có thể dịch chuyển nó một chút để với lấy mẩu bánh nhỏ. A.K vòng ra phía bên kia bàn, nhưng khoảng cách tới mẩu thức ăn cũng không lấy gì làm gần lại. Một lúc, nó bỏ cuộc, quay lại đứng cạnh tôi, hướng ánh mắt cầu cứu.
Ngay lúc với tay lấy mẩu thức ăn đang tắc dưới tấm thảm cho A.K, tôi nhận ra không dễ dàng gì có thể làm tất cả một mình. Dù muốn hay không, đôi khi chúng ta vẫn phải cầu viện những sự giúp đỡ để có thể đạt được mục đích. Tôi bước ra lan can, nhấc máy gọi Đăng, những hồi chuông vang lên liên hồi nhưng không có tiếng trả lời. Tôi liếc nhìn đồng hồ, đã mười một giờ đêm. Bầu trời tối đen với những đám mây vần vũ che lấp ánh trăng, cơn mưa ngày một nặng hạt hơn. Một người đi đường vội vã đạp xe ngang qua khu nhà nơi tôi ở, đèn pha phía trước xe tạo thành một vệt sáng dài trên phố. Ánh sáng tối dần về phía cuối đường, nhanh chóng bị cơn mưa xóa sạch dấu vết. Hàng cây khẳng khiu không một chiếc lá phía trước dường như là những sinh vật duy nhất đang tận hưởng cơn mưa. Thay vì cam chịu, chúng như vươn mình lên, đón những giọt nước trong trẻo đang rơi xuống đều đặn. Bỗng, dưới chiếc cây lớn phía bên kia đường, tôi thấy có một người đang đứng dựa vào nó, nhìn thẳng về phía tôi. Dưới ánh sáng yếu ớt của những ngọn đèn vàng vọt đang bị nước mưa che mờ và chiếc áo măng tô lớn kéo mũ, người lạ chủ còn là một bóng đen im lìm. Dù không hề cử động, tôi dường như có thể cảm nhận được ánh mắt của kẻ đó đang chĩa thẳng vào tôi không e dè, như con thú chờ vồ mồi. Những giọt nước mưa bị gió hắt vào khiến tay áo tôi ướt sũng từ khi nào, cảm giác lạnh lẽo xâm chiếm khiến tôi bất chợt rùng mình. Tôi đi vào lấy chiếc khăn tắm lau khô người và thay một chiếc áo khác. Một chút sau khi ngó xuống đường, tôi nhận ra bóng đen dưới gốc cây lớn đã biến mất.
Tôi không chắc những gì mình nhìn thấy có phải ảo giác không, nhưng bàn tay buốt lạnh do ngấm mưa và ánh nhìn chằm chằm đến lạnh gáy vẫn còn nguyên trong giác mạc. Tôi chốt khóa, cài các cửa sổ và ban công cẩn thận trước khi cầm một cốc whiskey hỗn hợp lên giường, định bụng sẽ uống hết nó trước khi ngủ. Ngay khi tôi vừa bước lên giường, tiếng chuông điện thoại bàn reo lên. Chỉ có vài người biết số điện thoại bàn của tôi: Mẹ tôi, Trang, Quang và Đăng. Mẹ tôi chắc chắn sẽ không gọi muộn thế này, đó là cách nói giảm của việc thực ra từ khi chuyển đến thành phố khác, bà không còn quan tâm xem tôi còn sống hay đã chết. Trang đang trong giờ làm việc. Quang thì chắc chắn đã ngáy khò khò, cậu ta thường ngủ rất sớm. Chỉ còn Đăng, nhưng cậu ta đã không bắt máy khi nãy. Tôi nhìn chiếc điện thoại vẫn đang kêu liên hồi một cách ngần ngại, rồi cũng nhấc máy lên.
“Alo.” Tôi ngập ngừng.
Đầu dây bên kia vang lên tiếng mưa lớn, nhưng không có âm thanh nào khác. Bàn tay còn lại của tôi nắm chặt lấy ly rượu đang sóng sánh. Một tiếng động nhẹ vang lên trong điện thoại, nửa giống như ai đó vừa thở hắt ra, lại vừa giống tiếng gió. Rồi bất ngờ, tiếng tít tít vang lên ráo hoảnh. Đầu dây bên đã dập máy. Tôi mở cửa ban công nhìn xuống dưới đường một cách cẩn trọng. Con phố vắng tanh không một bóng người. Tôi quay vào nhà, chiếc điện thoại cũ kĩ lại nằm im lìm, như chưa hề có cuộc gọi đến.
Điện thoại di động đã tắt, hoàn toàn không thấy mặt ở công ti, không có bất cứ một liên lạc hay nhắn gửi nào được để lại. Đó là những gì tôi nhận ra ngày hôm sau khi cố gắng kết nối với Đăng. Bảo vệ của tòa nhà nói ông ta đã không thấy Đăng hai ngày, cậu ta không đến công ti để làm việc như thường lệ. Việc một luật sư phải chạy loăng quăng ở ngoài vốn là chuyện rất bình thường, nên hầu như không ai trong văn phòng tôi để ý đến sự thiếu vắng của Đăng. Khi nhận ra mọi chuyện có vẻ đã đi xa hơn rất nhiều so với những gì dự kiến, tôi nhấc máy gọi của cô bạn nhà báo mà Đăng đã để lại số ở cuối tập hồ sơ hôm trước.
“Nghe.”
“Chào cô. Tôi là bạn của Đăng. Cậu ta có đưa cho tôi số điện thoại này...” Tôi nói chậm, không biết nên giới thiệu bản thân thế nào cho phải.
“Ồ, chào anh. Tôi có nhớ anh. Phong phải không?”
“Đúng rồi. Xin lỗi, Đăng không để lại tên của cô. Tôi có thể xưng hô với cô thế nào?”
“Gọi tôi là Gin. Có chuyện gì không ổn? Thông tin có vấn đề?” Cô ta nói bằng một giọng gọn gàng, kiểu của những người quen truyền đạt thông tin đơn giản. Cô ta thậm chí bỏ luôn phần chủ ngữ dù đây là lần đầu nói chuyện.
“Không, không phải vậy. Chỉ là, tôi không thể liên lạc được với Đăng từ hôm qua tới giờ. Tôi muốn hỏi liệu cô có gặp cậu ta không?”
“Có. Hmhm... Bọn tôi cafe hôm qua. Chừng chín giờ sáng.” Lại một câu nói đã được giản lược.
“Sau đó cô biết Đăng đi đâu không?”
“Anh qua đây được không? Chỗ này hơi ồn. Nghe không rõ lắm. Tiện thể nói chuyện luôn.”
“Được. Cô đang ở đâu?”
“Gần Nhà Thờ. Một quán cafe. Để tôi nhắn.”
Nói rồi Gin dập máy. Ý cô ta chắc là “để tôi nhắn tin địa chỉ”, tôi thầm nghĩ, cất những tài liệu xuống ngăn bàn và leo lên chiếc motor cafe racer đang dựng ở góc sân phóng lên phố.
Đó là một quán cafe nhỏ nằm khuất phía sau ánh đèn rực rỡ của dăm ba cửa hiệu quần áo công sở cho nữ giới. Tôi bước vào quán, nhận thấy một cô gái vẫy tay từ phía xa. Khi ngồi xuống trước mặt Gin và chờ người phục vụ mang menu tới, tôi liếc nhìn cô. Gin có khuôn mặt gầy, có lẽ do chiếc cằm nhọn hoắt y hệt mấy mụ phù thủy trong truyện cổ tích. Ánh mắt sắc sảo được vẽ liner cẩn thận rất hợp với mái tóc cắt ngang vai gọn gàng. Đôi lông mày kẻ ngang thẳng tắp như kiểu cho xong việc, chiếc mũi cũng nhỏ và thanh của cô ta hơi hếch lên. Viền mắt có bọng nhỏ, cho thấy Gin thường xuyên thức đêm, điều dễ gặp ở những nhà báo trẻ. Cô ta mặc quần vải thô có dây buộc và một chiếc áo cotton trắng dài tay, trông như đang đi nghỉ dưỡng tại một resort nào đó chứ không phải giữa quán cafe đông đúc trung tâm thành phố. Dù đang mùa Đông nhưng tôi cũng không thấy cô ta có áo khoác hay thứ gì tương tự, thay vào đó là chiếc túi khổng lồ, có lẽ chứa được laptop, dăm ba chiếc điện thoại, một quả bóng rổ, hai cái mũ bảo hiểm và chắc cả một đứa bé ba tuổi cũng nên.
“Cho tôi một cốc đen nóng không đường.” Tôi chọn thứ thức uống đơn giản nhất để người phục vụ rời đi trước khi cuộc nói chuyện bắt đầu.
“Tôi cứ tưởng”, cô ta xoay xoay chiếc bút bi đang cầm trên tay, cố ngắt một câu dài gãy ra theo nhịp quen thuộc, “anh với Đăng làm cùng?”
“Đúng, chúng tôi làm cùng nhau. Nhưng cậu ta đã không lên công ti hai ngày.”
“Chắc bận gì đó. Cậu ta rất hứng thú vụ kia.”
“Vụ nào?” Tôi ngạc nhiên.
“Vụ của anh đó.” Gin cười, thong thả uống cốc nước lọc trước mặt một hơi hết sạch. Anh ta rất thích. Chắc đang theo đuổi nó.”
Tôi ngẫm nghĩ một lát, chờ cho người phục vụ đặt ly đen nóng xuống và đi khuất, rồi nói:
“Anh ta kể những gì cho cô rồi?”
“Không có gì nhiều.” Gin nhún vai, lông mày cô rướn lên, trông nó đã bớt thẳng một chút. “Sau khi đào một lúc, tôi cũng thích vụ đó. Nhưng vì né anh ta, nên chả viết gì được. Tiếc thật.”
Gin chép miệng một cái, như thường nghĩ đến một món ăn ngon lành nào đó. Tôi nhận ra cái vẻ đói khát của những nhà báo săn tin khi đánh hơi thấy điều đáng viết, nên cũng không lấy gì làm khó chịu lắm.
“Sau khi gặp cô sáng hôm qua, Đăng có nói anh ta sẽ làm gì tiếp theo không?”
“Quay về trường thì phải.”
“Về trường?” Tôi bắt đầu thấy mệt vì cứ phải làm rõ những câu nói không rõ ràng của Gin.
“Về trường Bảo học. Tìm hiểu thêm thông tin. Điều tra bạn học cũ. Giáo viên. Rồi nhà Bản từng thuê.” Cô ta ngẫm nghĩ một lúc, rồi chêm vào. “Mấy việc kiểu đó chán òm. Nhưng Đăng thích. Anh ta thích hỏi han.”
Điều này thì tôi biết, chính tính tò mò là điểm khởi đầu dẫn Đăng vào chuyện này. Nhưng giờ thì cậu đang ở đâu? Nếu Đăng gặp vấn đề gì đó trong quá trình rà soát lại những chuyện cũ của Bảo, thì không lẽ sự mất tích của cô có liên quan tới quá khứ? Tôi cũng đã từng lục tung những nơi ấy mà không thấy dấu vết gì.
Nhận thấy sự băn khoăn trong khuôn mặt tôi, Gin lên tiếng:
“Chắc anh ta gặp chuyện.”
“Gặp chuyện?”
“Đúng. Chuyện gì đó không ổn. Tôi biết Đăng cũng một thời gian rồi. Chưa bao giờ thế này. Ý tôi là tắt máy.” Gin nói thản nhiên, như thể cái biến cố mà cô vừa thốt ra cũng chẳng có gì đáng kinh ngạc. Với một người có kiểu nói chuyện cứ tưng tửng như thế, bạn sẽ chẳng biết đường nào mà lần. Chẳng biết lúc nào là nghiêm trọng và lúc nào là cợt nhả. Cũng giống như một người luôn bất thường, thì khi họ gặp những chuyện không bình thường, sẽ chẳng ai có thể nhận ra. Quả là một vỏ bọc rất tốt để đương đầu với cuộc đời này.
“Tôi hỏi cái này. Nghe chắc không lọt tai. Có gì anh bỏ qua.” Cô ta tiếp.
“Cô cứ nói đi. Tôi đang nghe.” Không biết từ lúc nào, tôi cũng bắt đầu dùng kiểu câu đứt quãng của Gin.
“Chuyện là thế nào? Anh kể từ đầu đi. Đăng chẳng nói gì. Chỉ nhờ tìm thông tin. Tôi muốn nghe cả câu chuyện.”
“Cái này...” Tôi bối rối, không ngờ Gin hỏi thẳng như vậy.
“Quá cá nhân? Tôi thì vô hại. Anh yên tâm.” Cô ta nói và cười lớn, khiến một bàn phía sau quay lại nhìn. Nhận ra mình vừa hơi to giọng, Gin cúi xuống thì thầm, “anh cứ kể. Biết đâu tôi giúp được. Như tập tài liệu kia kìa. Tôi giỏi việc kiểu này. Yên tâm, tôi không viết gì lên báo đâu.”
“Không hẳn chỉ vì quá cá nhân.” Tôi thành thật “Mà cả bởi vì tôi không chắc mình đang vướng vào thứ gì nữa. Mọi chuyện có vẻ ngày càng phức tạp. Và nói thật, tôi không muốn một người nữa gặp nguy hiểm. Tôi không muốn nói điều gở, nhưng dường như sự biến mất của Đăng lành ít dữ nhiều.”
Gin im lặng, cô nhìn tôi chăm chú một lúc. Rồi nhấc ngụm cốc trà đã nguội ngắt trước mặt lên uống một hơi hết sạch. Ánh nắng chiếu xiên qua cửa sổ chói vào mặt Gin, nhưng cô không có vẻ gì tránh né nó, vươn mình một cái kêu răng rắc ở lưng như một con mèo đã nằm ườn cả ngày trong bếp tro. Rồi Gin nói:
“Tôi bảo anh này. Anh nên nghĩ khác đi. Có khi nào, vì anh cứ chần chừ thế này, mà mọi sự càng ngày càng rối tung lên không?”
“Ý cô là sao, tôi thật sự không hiểu.” Tôi lúng túng, không biết vì Gin vừa nói một câu dài, hay vì cô nói đúng.
“Là anh không quyết đoán. Đăng gặp chuyện chắc rồi. Cũng không phải lỗi của anh. Nhưng nếu anh cư xử khác. Biết đâu mọi chuyện đã rẽ theo hướng tốt hơn.”
Tôi im lặng. Đó cũng từng là điều tôi luôn nghĩ, nếu từ những ngày còn đi với Bảo, tôi giữ cô lại và nói với cô rằng tôi không thể thiếu cô, tôi yêu cô và muốn cô đừng bao giờ biến mất, có lẽ sẽ không có tất cả những rắc rối bây giờ. Nhưng bất chấp tôi muốn thay đổi điều gì, những thứ đó đã xảy ra, tôi không có cách nào cứu vãn nó hay làm lại từ đầu.
Thấy tôi im lặng, xem chừng như đang suy nghĩ. Gin nói tiếp:
“Tôi hỏi anh cái này nữa.”
“Cô cứ nói.” Ngay cả trong câu hỏi, Gin cũng có kiểu nói không có vẻ gì giống như một câu hỏi, chỉ giống như một sự thông báo trước cho đối phương rằng hãy sẵn sàng để nghe.
“Anh có biết nhiên liệu của động cơ tên lửa gồm những thành phần nào không?”
“Tôi... không.” Thực tình càng nói chuyện với Gin, tôi càng bị bối rối. Mặc dù kết cấu các câu rất đơn giản, nhưng lại rất khó để lí giải rõ ràng những thứ mà cô muốn diễn đạt.
“Thực ra, rất bình thường. Nó là nguyên lí của thuốc súng. Khi tạo ra nhiên liệu tên lửa, người ta muốn cái gì đó cháy nhanh. Nhưng không nổ. Thế là...”
Gin hắng giọng một cái. “Ừm, thay vì công thức của thuốc súng... Bảy mươi lăm phần trăm nitrate, mười lăm phần trăm carbon và còn lại là sulfur... thì người ta thay quách thành bảy mươi hai phần trăm nitrate, hai mươi tư phần trăm carbon. Còn lại cũng là sulfur nốt. Và thế là ra động cơ tên lửa nhiên liệu lỏng.”
Tôi im lặng nghe Gin trình bày, tò mò trước việc nghe cô nói một câu hơi dài. Sự thật là từ đầu buổi gặp mặt, tôi thậm chí không tin cô có đủ nước bọt để nói một câu nhiều hơn năm từ.
“Nhưng về thực chất, nó vẫn giống thuốc súng. Thế nên hồi đầu, nó nổ suốt. Người chết suốt. Lúc thử nghiệm ý. Anh biết khoa học đó. Thất bại là chuyện bình thường. Nhưng người ta vẫn cứ làm.” Gin nói, khua khua diếc cốc không trước mặt, như thế hi vọng nó sẽ bỗng nhiên đầy ắp nước.
“Điều tôi muốn nói: Nếu không thực hiện, anh sẽ không bao giờ biết. Nếu không có những sự mạo hiểm đó, chúng ta đã không tè được trên vũ trụ. Không cắm cờ ở mặt trăng được. Không lắp đặt được các vệ tinh và phát miễn phí GPS. Khỏi bắt Bin Laden luôn. Không làm được một tỉ việc khác. Việc cải tiến một chút những phát minh ngu ngốc nhất, lại tạo ra phát minh tuyệt vời nhất. Bỗng dưng thành bước tiến vĩ đại của loài người. Lạ nhỉ?”
Tôi lúng túng thật sự. Chả biết cô ta đang nói cái quái gì Gin xoa xoa hai tay vào nhau, giống như một con muỗi đang chuẩn bị cho một kế hoạch lớn.
“Hãy để tôi giúp anh trong vụ này. Tôi chỉ có một điều kiện thôi.” Cô ta nói.
“Chỉ cần không phải là xăm tên cô lên ngực, nhất định tôi sẽ đồng ý.”
“Khi mọi thứ đã xong xuôi, tôi được quyền viết về nó.”
Tôi nhíu mày, nhìn Gin một cách chần chừ. Cô ta nghiêng nghiêng đầu.
“Anh quyết định nhanh lên, tôi còn phải đi kiếm một chai champagne về nhà uống nữa và chờ ông già Noel qua tặng quà nữa.”
Tôi thở hắt ra, gật đầu.
“Được tôi sẽ kể. Nhưng tôi cũng muốn hỏi cô một câu: Lúc nãy, tại sao cô lại nói về cái nhiên liệu động cơ tên lửa chết tiệt gì đó?”
Gin hít một hơi sâu, rời cô vươn người về phía trước, hạ thấp giọng xuống, gần như thì thầm:
“Tôi không quan tâm đến anh. Nhưng Đăng là bạn của tôi. Nếu Đăng thật sự đã lún xuống bùn, tôi cần kéo anh ta lên. Hoặc kế cả kéo một cái xác lên. Đào sâu đời tư người khác không phải việc tôi thích làm. Nhưng thay vì ngồi một chỗ đoán già đoán non, tôi nghĩ anh nên thử làm nhiên liệu động cơ tên lửa. Có thể anh sẽ thất bại. Và bị nổ banh xác. Nhưng anh biết đấy, đằng nào chúng ta chả chết hết, chỉ là theo cách này hoặc cách khác. Chết bây giờ hoặc chết ngày mai trong tai nạn giao thông. Chết năm bốn mươi tuổi vì ung thư vú hoặc chết già lúc một trăm. Cũng là chết cả, sao không làm gì đó vui vui?”
Tôi nhìn vào đáy cốc cafe đen của mình, im lặng. Hoàn toàn không nói nổi lời nào, và cũng chả thấy vui vui chút nào.
Tôi nói hết những gì có thể với Gin, đồng thời hi vọng những dự đoán chẳng lành của tôi và cô không phải là sự thật. Ngày thứ ba, Đăng vẫn biến mất một cách bí ẩn. Tôi và Gin quyết định nhảy lên chung một con thuyền với nhau, ít ra cũng cảm thấy an toàn hơn. Tôi chia sẻ toàn bộ tài liệu mà Đăng đã đưa cho tôi, phần lớn trong số đó Gin chính là người thu thập, nhưng cô vẫn muốn xem lại. Chúng tôi tạm chia tay nhau vào buổi chiều hôm đó khi cô ta phải đi kiếm một chai vang đủ ngon cho đêm Giáng sinh. Quá trễ để đến cơ quan, tôi hoàn thành nốt vài giấy tờ lặt vặt của công ti rồi thay đồ và ra Ishida, vừa đi vừa nghĩ đến việc lần trước Kim nói.
Thay vì những bông tuyết đặc trưng của đêm Giáng sinh, bầu trời u ám với những đám mây lớn xám xịt. Tôi chưa bao giờ thấy tuyết. Với tôi đêm Giáng sinh là như thế này: ảm đạm và nhợt nhạt. Phần thành phố rực rỡ ánh sáng dường như đã lùi vào một trăm năm trước. Tôi chợt nhớ có lần Bảo nói cô rất thích tuyết, và muốn một lần nào đó chúng tôi cùng được ngắm điều ấy. Ai mà chẳng thích tuyết, đặc biệt là những người chưa tận mắt thấy nó bao giờ. Tôi chỉ không hiểu nếu thấy rồi thì có chán không. Lòng người rất dễ đổi thay.
Tôi bước vào Ishida khi Kim đang cúi đầu xuống bàn, ghi chép gì đó một cách chăm chú.
“Chào.” Tôi vẫy tay.
“Merry Christmas!” Cô ngẩng lên, lẩm nhẩm gì đó trong mồm, rồi tiếp tục hí hoáy với quyển sổ trước mặt.
“Giáng sinh mà cô vẫn phải ở đây ư?”
“Tôi cũng chẳng có việc gì khác để làm.” Kim cười.
Tôi ngồi xuống trước mặt cô, nhấc menu lên mặc dù chẳng quan tâm trong đó có gì. Kim đi vào bếp, dáng điệu rất nhẹ nhàng, rồi trở lại sau đó khi tôi vẫn đang giả vờ chọn món.
Xin lỗi tôi vừa phải ghi số nhập hàng. Anh có chiếc áo đẹp đấy.”
“Cảm ơn.” Tôi nhìn xuống, nhận ra mình đang mặc chiếc áo có hình thần Ganesha mà Trang tặng. “Đồ được tặng. Tôi không mấy khi tự mua quần áo.”
“Anh nên mặc kiểu đồ này nhiều hơn là những bộ vest.” Kim dọn qua phần bếp trước mặt rồi ngước lên. Anh muốn dùng gì?”
“Tôi cũng không biết. Cô có gợi ý gì không?”
“Anh thử sushi cá trích nhé?”
“Được.” Tôi gập quyển menu vô dụng lại, gọi thêm một chai sake nhỏ, rồi quan sát Kim khía những lát phi-lê một cách cẩn thận. Cô uốn những lát cá lại trông giống như một bím tóc nhỏ, đặt khéo léo phía trên phần cơm quen thuộc.
Chiếc đĩa cách điệu hình lá phía dưới khiến cho những phần sushi như một tác phẩm nghệ thuật đang được trân trọng trưng bày trong một bảo tàng ẩm thực.
“Lần đầu tiên tôi thấy sushi cá sống mà để nguyên da đó.” Tôi ngạc nhiên.
“Ồ, da cá trích vừa ngon vừa bổ, nên không ai bỏ đi. Tuy thế phải phơi nắng trước cho bớt tanh và săn thịt.”
“Thật tiếc là chẳng mấy khi tôi có thời gian rảnh mà qua đây thưởng thức những món ngon thế này.”
“Tôi có phục vụ tại nhà đấy. Chuyên dành cho những vị khách lười biếng kiểu như anh.” Kim cười. “Những kẻ giàu sụ thích cảm giác mình là người đặc biệt. Tuần trước tôi cũng vừa phải lết xác mang một con cá ngừ năng cân cùng một đống dao thớt đến phục vụ cho một gã như vậy.”
“Nếu không thích, tại sao cô còn nhận những việc kiểu đó?” Tôi nhấp một ngụm sake, thấy nóng bừng cổ họng.
“Không phải lúc nào chúng ta cũng có khả năng tránh điều mình ghét. Mà thôi, đó lại là chuyện khác. Anh ăn đi, sushi cá trích để quá lâu sẽ bị tanh.”
Tôi gật gù, nhận đĩa sushi mà Kim đưa lên. Tôi vừa ăn vừa nói chuyện với cô, cảm thấy thư giãn đôi chút sau những ảo giác liên tục gần đây. Nếu mọi mối quan hệ trong cuộc đời này đều đơn giản như cách tôi và Kim giao tiếp, có lẽ sẽ bớt được rất nhiều mệt mỏi và phiền phức không đáng có.
“À, hôm trước cô có nó sẽ bói bài Tarot cho tôi đúng không?”
“Anh có hứng chứ?”
“Tôi phải có hứng sao?”
“Đúng, bói bài Tarot muốn đúng thì người xem bói phải thật sự cầu thị. Có nghĩa là phải thật sự quan tâm và suy nghĩ tới việc mà mình đang muốn hỏi.”
“Tôi chỉ nghĩ câu hỏi trong đầu mà không nói ra có được không?”
“Như vậy cũng được. Nhưng mức độ chính xác sẽ giảm đi. Anh sẽ phải tự tìm những liên kết.”
Nó rồi Kim đi vào trong, lấy ra một bộ bài. Tôi chăm chú nhìn cô bóc nó ra từ hộp, cẩn thận như người ta mở một gói quà sinh nhật. Kim đưa bộ bài cho tôi, nói:
“Anh tự tráo lên và bốc một quân bài. Tùy vào cái người ta muốn hỏi, thì số lá bốc lại khác nhau. Ví dụ như thường nhất thì người ta sẽ rút ba lá, một cho quá khứ, một cho hiện tại, cuối cùng là tương lai; nhưng thôi anh chọn một được rồi. Khi nào bốc thì nghĩ về điều anh đang muốn hỏi.”
“Rồi bộ bài sẽ cho tôi câu trả lời ư?” Tôi tráo bài, không khỏi có chút nghi hoặc.
“Đôi khi nó cũng không phải một câu trả lời, mà là cắt nghĩa cho những điều chính anh cũng không hiểu. Nhưng thường nó sẽ có những câu trả lời tương đối chính xác. Cũng còn tùy anh có hợp với bộ bài không nữa.”
Tôi nghĩ về sự mất tích của Bảo, tự hỏi mình sẽ phải làm gì sắp tới, rút một quân bài rồi đưa nó cho Kim. Cô chăm chú nhìn một chút, rồi nó đặt xuống bàn ở một khoảng cách hoàn hảo giữa tôi và cô.
“Anh vừa bốc lá The Tower, hay còn gọi là lá Tòa Tháp.”
“Trông có vẻ không được tốt cho lắm?” Tôi nhìn vào lá bài. Nó có hình một ngọn tháp trắng mọc trên từ đỉnh núi. Một ngọn sét lớn đánh vào đỉnh tháp khiến nó đổ sụp xuống, bay ra chiếc vương miện màu vàng. Cả tòa tháp rực cháy, hai người mặc trang phục xanh và đỏ phải nhảy từ trên xuống, gương mặt hoảng hốt. Trông nó chẳng có vẻ gì là dự báo một điềm lành.
“Tôi không biết. Tốt hay không thì là do anh. Lá The Tower mang ý nghĩa là sự hủy bỏ, sự rời bỏ, hay từ bỏ. Bất cứ anh đang định làm gì, nên dừng lại. Thần Mars, hay được gọi là Thần chiến tranh, làm chủ lá bài có nguyên tố lửa này. Nó có tính răn đe, rằng những gì anh định làm sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp.”
“Tôi không hiểu lắm.” Tôi bối rối. “Tại sao nó lại có ý nghĩa như thế”
“Lá bài này, cũng như nhiều lá bài Tarot khác, dựa trên chủ đề Thiên Chúa giáo. Trong kinh Cựu ước có kể rằng loài người từng quá tham vọng, cho rằng mình có thể ngự trị trên tất cả. Họ đã xây một toà tháp cao trên núi đặt tên là Babel, vươn lên tới tận trời xanh, để có thể ngang bằng với những vị thần. Thượng Đế giận dữ ban sấm sét xuống phá nát tòa tháp, khiến cho mọi người hoảng sợ chạy toán loạn, mỗi người nói một thứ hạng khác nhau không ai có thể hiểu ai. Từ đó mới có nhiều ngôn ngữ. Thượng Đế làm vậy để ngăn loài người tụ tập lại xây tháp lần nữa. Những ai quá tham vọng muốn với lấy điều ngoài tầm tay mình, thì sẽ nhận lấy kết cục tương tự.”
Tôi im lặng trong chốc lát, lấy đũa đẩy những miếng gừng trong đĩa thành một hình tròn, rồi hỏi:
“Làm sao để biết thứ này là quá tầm tay, và thứ nào không? Làm sao để biết điều gì là có thể và không thể?”
Kim cầm bình sake rót đầy chén của tôi, rồi bình thản trả lời.
“Thường thì khi anh trả lời được câu hỏi đó, cũng là lúc không thể quay đầu lại nữa rồi.”
Sau khi uống ngà ngà ở Ishida, tôi thong thả đi bộ trên vỉa hè đầy lá. Quán chỉ cách nhà tôi chừng hai trăm mét, nhưng tôi cảm thấy nó như dài đến cả cây số, có lẽ do lượng thức ăn đã hấp thụ khiến cơ thể trở nên ì ạch. Căn phòng im ắng như thường lệ khi tôi bước vào. Tôi bật đèn, nhìn lướt qua bước tường đang ghim đầy những ghi chép hỗn loạn. Tôi thở dài, nằm xuống chiếc sofa, nghĩ về những lí giải của Kim về lá bài tarot. Liệu đó có phải một ẩn ý rằng tôi không nên tiếp tục giải mã câu chuyện này không? Những ngày gần đây tôi đã bị xao nhãng, chưa thể hướng sự chú ý vào Lâm Việt Hải như đã định. Đó có phải sự ngẫu nhiên? Tôi vốn không tin những chuyện bói toán, theo bất cứ hình thức nào, nhưng tự tay mình rút lấy một lá bài như vậy không phải thứ khiến tôi an tâm.
Đèn trong phòng đã tắt hết, chỉ còn chút ánh sáng nhỏ nhoi của đèn đường hắt vào thành một màu nhàn nhạt trên nền nhà. Tôi bật nước nóng trong phòng tắm rồi cởi đồ. Khi nhìn chiếc áo vừa ném vào máy giặt, tôi mới nhận ra đã ba ngày không liên lạc với Trang. Chuyện về Đăng đã khiến tôi bị cuốn đi lúc nào không biết. Tôi nhấc máy gọi Trang, tiếng tít tít vang lên một cách khó chịu. Ngước mắt nhìn vào máy tính, tôi nhận ra hôm nay là thứ Bảy, có lẽ Trang đang đi xem phim. Một cách rất nghiêm túc, cô thường tắt máy khi vào rạp chiếu phim.
Dòng nước ấm từ vòi xả xuống khiến tôi thấy gân cốt trong cơ thể như giãn dần ra. Tôi ngâm mình trong bồn một lúc, các mạch máu di chuyển chầm chậm trong huyết quản gây cảm giác khoan khoái. Tôi nhắm mắt lại, thấy mình trôi hờ hững giữa dòng sông lười, để mặc nước cuốn tới nơi phải đến. Ánh trăng rọi qua cửa sổ nhà tắm thành một vệt ngay cạnh tấm gương lớn. Tôi đặc biệt không thích trăng, mỗi khi nhìn nó, tôi luôn cảm giác mình bị theo dõi. Như là nó chỉ dành cho riêng tôi, luôn ở đó và chăm chú quan sát một mình tôi trên thế gian này. Tôi biết điều đó không có thật, nhưng cảm giác đó khiến tôi không bao giờ thích ngắm trăng.
Tiếng chuông điện thoại đột nhiên vang lên ngoài phòng khách ngay khi đầu tôi vẫn còn đang đầy bọt. Là Trang. Tôi tự nhủ. Tôi chờ một lúc cho tiếng chuông tắt hẳn thì xả tóc và tắm tiếp. Khi cạo râu trong gương sau đó, tôi thấy vài sợi tóc của mình rụng xuống bồn rửa mặt, nằm cạnh vài vệt ố vàng kinh tởm. Tôi vặn vòi để đó, quấn khăn tắm quanh người, định chờ nước đầy bồn rồi sẽ lau sạch một thể. Chiếc điện thoại nằm im lìm trên bàn nước khi tôi bước ra.
Số gọi nhỡ đúng là của Trang thật, chắc cô đã xem phim xong.
Tôi mở máy tính, bật bản Last Christmas của Wham, đó là bản nhạc duy nhất mà tôi muốn nghe vào mỗi đêm Giáng sinh. Ngoài cửa sổ, những hạt mưa đã bắt đầu rơi xuống.
Tôi đưa tay định bấm gọi lại, đột nhiên chiếc điện thoại rung lên khiến tôi giật mình. Số máy của Quang hiện lên. Không phải giờ này cậu ta đã ngủ rồi sao? Tôi bắt máy, cầu nguyện sẽ không phải là một cuộc gọi rủ đi uống, tôi đã uống đủ cho hôm nay và có quá nhiều việc chưa hoàn thành.
“Tôi đây.”
“Cậu đang ở đâu?” Giọng Quang ngập ngừng, tôi nghe thấy trong điện thoại cả tiếng nói chuyện của những người xung quanh, nhưng không giống kiểu ồn ào ở một quán nhậu.
“Ở nhà thôi. Tôi vừa về một lúc. Có chuyện gì vậy?”
“Tôi nghĩ cậu nên đến đây...” Qua điện thoại, giọng cậu ta có vẻ lo âu. Tôi không thường thấy điều đó ở một người tưng tửng như Quang.
“Đến đâu? Cậu đang say ở đâu à? Ít ra cũng nói cho tôi là có chuyện gì.” Tôi nhăn mặt.
“Tôi không muốn nói chuyện này qua điện thoại lắm. Nhưng có lẽ cậu cũng cần chuẩn bị tinh thần. Tôi đang ở nhà Trang.”
“Nhà Trang?” Tôi giật mình.
“Phong, tôi rất xin lỗi... Khi tôi đến thì cô ấy đã chết.”
Tôi sững lại, nghe tiếng thở của chính mình trong điện thoại. Ánh trăng giờ đã chiếu xuống chân tôi, biến nó thành một thứ màu nửa trong nửa đục. Bàn chân tôi bất thần rụt lại tránh ánh sáng kỳ quái đó. Tôi nắm chặt lấy điện thoại:
“Không thể. Không thể như thế được. Cô ấy vừa gọi tôi cách đây năm phút.”
Tôi nghe thấy Quang hỏi gì đó người bên cạnh, trước khi nói rành mạch:
“Người đã gọi cậu chắc chắn không thể là Trang. Cô ấy đã tắt thở cách đây ít nhất một tiếng. Chúng tôi không tìm thấy điện thoại của cô ấy quanh người.”
Chiếc máy tuột khỏi tay tôi, rơi xuống sàn thành một âm thanh khô khốc. Tiếng róc rách vẫn vang lên trong buồng tắm. Nước đã đầy tràn bồn rửa mặt, lênh láng dưới sàn thành những hình thù vô nghĩa. Từ chiếc laptop trên bàn, những giai điệu Giáng sinh quen thuộc lấp đầy không gian vỡ vụn.
“Last Christmas, I gave you my heart. But the very next day, you gave it away...
This year, to save me from tears, I’ll give it to someone special...”