Chương 7 -Những Người Lẩn Tránh Rắc Rối, Thì Rắc Rối Sẽ Tự Tìm Đến
Thời tiết trở nên ngột ngạt và ẩm ướt, sàn nhà bỗng dính nhớp nháp những mảng nước không rõ nguồn gốc. Con cá vàng bị bỏ đói đã nổi lềnh phềnh trong bể. Những viên đá cảnh còn lại trong bể trông như mảnh thiên thạch hàng triệu năm tuổi, trơ trọi và buồn bã. Lũ chim thường đậu ngoài khung cửa tôi mỗi sáng biến mất như chưa từng tồn tại, có lẽ đã kiếm được một chỗ ẩn náu an toàn hơn. Khí hậu vùng nhiệt đới đầy những sinh vật sống cùng nó phải tự thích nghi với sự khắc nghiệt, nếu không muốn trở thành một miếng mồi ngon.
Khi vớt con cá ra khỏi bể và chôn dưới gốc cây ngoài lan can tôi nhớ lại đoạn lyric trong bài hát của Laurie Berkner, thi thoảng được phát trên đài F.M hàng sáng. Giai điệu của nó từng ngân vang nhiều lần trong tiềm thức của tôi, chẳng hiểu vì sao.
“Thery decided to take a shower
So they washed their hair
And they washed their ears
And they washed their tummies
And they washed their beards
And they washed their nose
And they washed their toes
And then they said
‘Wait a minute, we’re fish!
We don’t take showers!’
Let’s go swimming let’s go swimming...
Then the little fish got so very very tired...”
Sau khi phát hiện ra bàn tay của Đăng, tôi bọc lại trong một túi nilon, dọn sạch tủ lạnh nhỏ chứa đồ uống và đặt nó vào đó. Gin nhận được tin khi cô vừa hạ cánh sau chuyến bay sáng sớm, cô là người duy nhất ngoài tôi biết về bàn tay bị chặt đứt của Đăng. Nếu thông tin đến tai cảnh sát, tất cả những gì tôi nhận được sẽ chỉ là sự phiền phức, họ sẽ lục tung căn hộ của tôi lên, phá hỏng mọi nỗ lực tìm kiếm, đặt một mớ những câu hỏi chẳng biết nên trả lời sao cho phải. Và không chừng tôi sẽ là nghi phạm lớn nhất bởi tất cả những mối quan hệ với các nạn nhân đều chỉ dẫn đến một điểm duy nhất, chưa kể bằng chứng duy nhất về cái chết của Đăng lại ở chính căn hộ của tôi. Gin im lặng một lúc lâu khi nghe tôi báo tin, rồi nói:
“Thực ra, tôi biết Đăng không ổn rồi. Chuyện này dự đoán được trước. Từ giờ cần hành động cẩn trọng hơn nữa.” Cô ta ngừng lại một chút, tôi nghe giống như có tiếng nấc cụt ở phía bên kia đầu dây.
“Tôi hiểu...” Tôi ậm ừ qua điện thoại. “Đăng ở một mình đúng không? Cô cho tôi địa chỉ nhà cậu ta được chứ? Tôi cần đến đó xem xét vài thứ.”
“Có mạo hiểm quá không? Không kiếm được từ công ti của anh sao?”
“Tôi nghỉ việc ở đó rồi.”
Một quãng im lặng qua điện thoại trước khi Gin cất tiếng.
“Anh muốn tìm gì ở căn nhà ấy?”
“Thật khó để tin rằng một người cẩn trọng trong sinh hoạt và giỏi võ như Đăng lại có thể gặp nguy hiểm. Chắc hẳn phải có một điểm khuất ở đâu đó. Có thể là cậu ta bị đầu độc hay gì đó tương tự. Tôi nghĩ nên thử xem sao.”
“Vậy để tôi nhắn địa chỉ. Cậu ta thường giấu một chiếc chìa khóa dự phòng trong hộp đựng đồ cứu hỏa ngoài hành lang. Anh có thể dùng nó để vào nhà.” Rồi chợt nhớ ra, cô nói thêm, “Nhân tiện nhắc đến nhà cửa, tôi nghĩ anh nên chuyển nơi ở. Căn hộ của anh chẳng an toàn chút nào.”
Thực ra, tôi biết mình không phải kẻ gặp nguy hiểm. Nếu hung thủ thật sự muốn tôi phải chết, có lẽ tôi đã không ngồi đây mà thở dài thế này được. Tiếp tục đối mặt với hắn là điều tôi muốn. Nếu thời điểm Bảo mất tích, tôi còn do dự về việc liệu có nên tìm kiếm cô hay không, thì việc xảy ra với Trang và Đăng đã khiến tôi không còn có lựa chọn. Hắn đã đặt một dấu hỏi chấm rất lớn xuống bàn tay tôi, tôi buộc phải tìm câu trả lời cho nó, nếu không muốn sống quãng đời còn lại trong hối hận.
Tôi lần theo địa chỉ của Đăng mà Gin nhắn tin sau đó đến một khu chung cư ngoài rìa thành phố. Nhà của cậu ta nằm phía cuối của tầng trên cùng, nơi chẳng có ai qua lại. Đó là một căn hộ kiểu mới với cửa nhôm kính cao cấp phía ngoài, có thể quan sát được tủ để giày và một phần hành lang bên trong. Tôi mở hộp cứu hỏa cạnh đó. Đúng như lời Gin nói, một chiếc chìa khóa nhỏ màu bạc kẹp vào đệm cao su của bình xịt. Tôi nhìn quanh để chắc chắn rằng không ai quan sát, rồi cẩn thận mở cửa bước vào trong. Dù không bật đèn, căn hộ vẫn tràn ngập ánh sáng hắt vào từ dãy cửa kính cường lực. Phòng khách gọn gàng và ngăn nắp, đồ đạc không có vẻ gì là bị xáo trộn. Bộ võ phục đặt chỉn chu trên mặt tủ gần chiếc tivi LCD. Một chiếc bàn gỗ nhỏ giữa căn phòng, bên trên là một chiếc gạt tàn và vài tạp chí đủ loại. Chăn đệm gấp phẳng phiu trên giường phía trong phòng ngủ. Chiếc đồng hồ báo thức chạy tích tắc trên chiếc tủ sách trống không cạnh đó. Dường như tất cả vẫn nguyên vẹn.
Tôi bước vào trong bếp, mọi thứ sạch sẽ tới mức đáng kinh ngạc. Đúng như Đăng từng nói, cậu ta là người sống rất chỉn chu. Nhìn những bộ quần áo phẳng lì mà Đăng thường mặc, tôi không nghi ngờ gì việc căn hộ nhỏ nhắn và sạch lau li này do một tay cậu ta dọn dẹp. Những bộ quần áo xếp gọn gàng trong tủ, phía trên cả chục đôi giày đặt thẳng hàng. Tiếng tủ lạnh vẫn chạy ro ro, cho thấy Đăng hoàn toàn không có kế hoạch cho một chuyến đi xa hay điều gì tương tự. Tấm cửa kính lớn hướng tầm nhìn thoáng đãng ra không gian bên ngoài. Chợt tôi giật mình khi nghe tiếng lạch cạch phía sau, vội giật lấy con dao từ giá để đồ phía trước và quay người lại, tay nắm chặt lấy nó, thận trọng bước thật chậm trong bóng tối.
Toàn bộ căn phòng im ắng. Tôi có thể nghe rõ tiếng tim đập của chính mình. Đột nhiên từ góc nhà, một con mèo trắng bước ra, kêu “meo” một tiếng cụt ngủn. Nó tiến tới, dụi lưng và quấn đuôi vào chân tôi. Tôi thở phào, đặt con dao sang cạnh tủ ngồi xuống vuốt ve phần lông mượt mà trên lưng con mèo.
“Mày đói phải không? Đã bao lâu chủ mày vắng nhà rồi?”
Con mèo kêu lên một tiếng nhỏ nữa, tiếp tục dụi lông vào tay tôi. Tôi không biết tiếng kêu đó là đồng tình với câu hỏi thứ nhất hay trả lời cho câu hỏi thứ hai. Chắc hẳn nó đã bị bỏ đói từ hôm Đăng mất tích. Loài vật có khả năng nhịn đói rất lâu khi cần thiết. Những con cá sấu có thể nhịn ăn đến một năm giữa hai lần săn mồi, chính khả năng đáng khâm phục đó khiến cho chúng trở nên nguy hiểm. Khi ở cuối chu kì của sự nhịn đói, chúng có thể tấn công bất cứ thứ gì để sinh tồn. Những kẻ đi săn đúng nghĩa dường như đều như vậy.
Tôi mở tủ lạnh kiếm đồ ăn cho con mèo. Cũng như phần còn lại của căn nhà, phía trong tủ lạnh cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Những thực phẩm được dự trữ và phân loại cẩn thận trong những túi nilon riêng. Tôi với lấy túi thức ăn khô cho mèo, trút ra chiếc bát của nó ở cạnh đó, rồi ngồi xuống. Tôi nhìn vào tủ lạnh, chăm chú quan sát từng thứ. Vài miếng thịt nguội để trong một chiếc hộp nhựa, dăm ba loại đồ hộp khác nhau, một block bia còn nguyên. Chai mật ong màu nâu vàng đựng trong lọ thủy tinh nằm cạnh cánh tủ. Tôi nhớ đến thói quen mà Đăng từng nói với tôi, cậu ta luôn uống nước pha với thứ này mỗi sáng.
Tôi nhét đồ ăn vào từng túi nilon nhỏ riêng biệt một cách cẩn thận, đổ thêm một lượng thức ăn nhiều hơn mức cần thiết vào bát của con mèo, mở cửa sổ nhỏ hướng ra lan can để bảo đảm nó sẽ không chết mục ở đây nếu quá đói. Căn hộ quay về với vẻ im lìm khi cánh cửa nhôm kính được khép lại.
Tôi mang tất cả những thứ lấy từ nhà Đăng đến phòng thí nghiệm của Nam nhờ giám định lại thành phần bên trong. Nam là một thạc sĩ vi sinh vật học thường cộng tác với cảnh sát để hỗ trợ điều tra hiện trường và khám nghiệm độc tố trong cơ thể nạn nhân, tôi từng vài lần gặp cậu ta khi đi với Quang. Nam vui vẻ nhận lời giúp, hẹn tôi hai ngày sau đến lấy kết quả phân tích.
Gin trở về sau đó, khi độ ẩm trong thành phố vẫn là một trăm phần trăm. Chúng tôi gặp mặt ngay chiều hôm đó tại quán café vắng cạnh tòa soạn của Gin. Cô đẩy về phía tôi một phong bì cỡ lớn ngay khi ngồi xuống.
“Đây là giấy tờ giả mà anh cần. Hãy cẩn thận với nó.”
“Tôi biết.” Tôi cho chiếc phong bì vào cặp, uống một ngụm trà thảo mộc người phục vụ vừa mang ra. “Chuyến đi thế nào?”
“Hoàn toàn đúng như chúng ta nghĩ. Tôi đã gặp nữ y tá từng làm tại bệnh viện đó. Bà ta thừa nhận tất cả.” Gin đưa tôi một chiếc USB nhỏ. “Đoạn ghi âm có trong này. Tôi đã sao lại rồi, nên anh hãy giữ thứ này. Thực ra thông tin còn nhiều hơn chờ đợi. Bà ta thừa nhận rằng một người đàn ông đã có mặt ở đó khi bà Minh hạ sinh Bảo. Khi tôi đưa tấm ảnh của ông Long hồi trẻ, in ra từ niên giám của trường đại học K.T khóa đó, thì bà ta đã xác nhận dù chỉ vừa nhìn lướt qua.”
“Cô giỏi thật, không tính đến chuyện cẩn thận mang cả ảnh ông Long theo, thì làm sao để bà ta khai ra tồng tộc vậy?” Tôi đẩy chiếc kính trên mũi lên, không khỏi thán phục.
“Dăm câu hăm dọa. Vài lời ngọt ngào. Đã nói rồi, nghề của tôi mà. Mà nói chung, đừng hỏi tôi kiểu đó. Chúng ta chẳng có thời gian cho chuyện vặt vãnh ấy đâu.” Gin vuốt lại mái tóc đang lòa xòa vào mắt, giọng rất nghiêm túc.
“Không phải bàn cãi gì nữa, tôi chính thức hâm mộ cô rồi đấy.” Tôi gật gù.
“Khi nào anh định gặp đến gặp Hải?” Cô ta lảng sang chuyện khác, như chưa từng nghe thấy câu tôi nói.
“Sớm thôi.” Tôi liếc vào đồng hồ. “Chúng ta có một việc cần làm trước đã.”
Tôi đưa Gin cùng trở lại phòng thí nghiệm của Nam. Cậu ta đón tôi bằng một vẻ tư lự. Sau khi ra hiệu cho chúng tôi ngồi, Nam nheo nheo mắt đọc lại mấy giấy tờ xét nghiệm gì đó. Tôi quay sang Gin, thấy cô đang xoay xoay một lọ hóa chất màu đỏ cạnh đó.
“Đừng động vào nó. Cái đó có thể bỏng đấy.” Nam trợn mắt nhìn Gin, rồi tiến lại ngồi xuống phía đối diện.
“Trước khi đưa cậu kết quả, tôi có thể hỏi cậu một câu đã nhé. Tôi có đang dính dáng đến tang chứng của cảnh sát hay gì đó kiểu vậy không?”
“Có thể là có. Tôi cũng không biết. Còn tùy vào kết quả xét nghiệm.”
“Đừng để tôi gặp rắc rối gì đấy nhé.” Nam nheo mắt.
“Những người lẩn tránh rắc rối, thì rắc rối sẽ tự tìm đến.” Gin nói chen vào, mắt cô vẫn chăm chú nhìn những ống hóa chất đủ màu sắc.
Tôi quay sang Nam, nhận thấy vẻ ngạc nhiên trên khuôn mặt cậu ta, đành mỉm cười an ủi. Tôi cũng ngạc nhiên với cái kiểu nói chuyện đó những ngày đầu gặp Gin.
“Không vấn đề gì đâu. Tính cô ta kì dị thế đó. Cậu cứ nói tiếp đi.”
“Những thứ khác thì bình thường, nhưng chai mật ong mà cậu đã đưa tôi có chứa chất độc.” Rồi cảm thấy câu nói của mình vẫn chưa đủ trọng lượng, Nam thêm vào. “Một loại chất cực độc gần như chắc chắn gây chết người.”
Tôi và Gin quay sang nhìn nhau, dường như để làm rõ những hoài nghi đã giữ trong lòng mấy ngày gần đây.
“Cậu chưa uống nó đấy chứ?” Nam hỏi, rồi tự trả lời. “À mà đây là một câu hỏi ngớ ngẩn, nếu cậu động vào nó, thì giờ cũng chẳng ngồi đây ung dung thế này rồi.”
“Cậu có thể nói rõ hơn được không?” Tôi vươn mình về phía trước, đặt hai tay lên bàn.
Nam nhướn mày tìm trong tập tài liệu trước mặt, rồi đẩy vài tờ giấy về phía tôi. Cậu ta liếm môi, nói:
“Trong đó có chứa Amatoxin - loại chất có độc tính cực cao xuất hiện trong một số loại nấm. Theo xét nghiệm đã làm thì tôi nghĩ là nấm Amanita Phalloides. Nó có hàm lượng độc cao và rất ổn định, cũng không bị ảnh hưởng bởi nhiệt hay bất cứ hình thức chế biến nào khác. Thời gian bán thải của Amatoxin ở người bị nhiễm chưa được xác định, nhưng độc tố có thể giảm nhanh trong huyết thanh sau khoảng ba mươi sáu tiếng...”
“Anh nói tiếng Việt được không? Tôi đếch hiểu gì.” Gin giơ tay lên ra hiệu.
Nam hơi nhếch môi lên, có lẽ cậu ta thường xuyên nghe thấy điều tương tự.
“Đơn giản thôi, đây là một chất độc được chiết xuất từ nấm. Dù cô có cho vào tủ lạnh, có đun ở nhiệt độ cao hay có chế biến thành bất cứ món ăn nào, cũng không thay đổi độc tính. Nói chung đã cho vào người là cô toi chắc.”
“Chết ngay?” Gin hỏi cộc lốc.
“Cũng còn tùy. Người nào yếu có thể chết trong vòng từ sáu đến hai mươi tư tiếng. Người nào khỏe thì nôn mửa, bục dạ dày, mất nước và điện giải. Có thể bị suy gan cấp hoặc sốc phản vệ. Nói chung không chết ngay thì cũng nguy kịch, khả năng cấp cứu là chín mươi chín phần trăm.”
Gin quay sang nhìn tôi, nhún vai như để xác nhận rằng một người khỏe như Đăng chắc chắn sẽ không chết ngay. Tôi gật đầu với cô, rồi quay sang Nam.
“Có cách nào biết được người chết từng sử dụng loại nấm này hay không? Ý tôi là làm sao chứng minh được một nạn nhân tử vong là do cái tên khoa học dài ngoằng mà anh vừa nói?” Khi hỏi câu này, tất nhiên tôi nghĩ đến bàn tay của Đăng đang được cất trong tủ lạnh.
“Có thể xét nghiệm nước tiểu hoặc huyết thanh bằng phương pháp sắc kí lỏng cao áp. Nhưng nói thật, loại máy để thực hiện được lại không phổ biến trong nước lắm, ở đây thì chắc chắn không có rồi. Thêm nữa, cần làm xét nghiệm này trong vòng bốn mươi tám tiếng sau khi nạn nhân nhiễm độc. Từ thời điểm cậu đưa tôi chai mật ong cũng khoảng đó rồi. Nên xem ra không có cách nào biết được đâu, trừ khi có những dấu hiệu rõ rệt từ phía nạn nhân sau khi theo dõi.” Nam ho một tràng dài, lấy giấy ăn lau miệng và ngẫm nghĩ một chút rồi nói thêm. “Mà nhé, nếu chỉ có một lượng nhỏ và được pha loãng như trong chai mật ong này, thì tôi không chắc, chứ nếu nạn nhân ăn nguyên một cái mũ nấm, thì chết ngay tại chỗ đấy.”
Tôi gật đầu, thực ra có lẽ cũng không cần thiết thử thêm. Thói quen của Đăng chắc chắn không thay đổi, cậu ta đã uống thứ này vào khoảng hai ngày trước khi mất tích. Gin ra hiệu muốn nói chuyện riêng. Tôi xin lỗi Nam rồi bước ra phía cửa cùng cô. Gin hỏi bằng một vẻ suy tư:
“Điều này hơi khó xảy ra, làm sao một kẻ lạ có thể biết được thói quen sinh hoạt của Đăng để đầu độc một cách chính xác như vậy?”
“Tôi đã ở trong căn hộ của Đăng. Đó là một kiểu chung cư mở với phần lớn là kính thay cho các bức tường. Chỉ với một chiếc ống nhòm, cô có thể quan sát nó từ các tòa nhà cạnh đó. Nếu những điều chúng ta đang nghĩ đã thật sự xảy ra, thì tôi cho rằng Đăng bị theo dõi trước khi kẻ giết người tìm ra thói quen của cậu ấy.”
“Nhưng làm sao hắn có thể vào được nhà? Tôi là người duy nhất biết chìa khóa dự phòng của Đăng giấu ở đâu.”
“Tôi chưa nghĩ ra. Có lẽ hắn có một cách nào đấy. Nếu thật sự là theo dõi thì hắn có thể đã đi theo Đăng đủ lâu để nhìn thấy anh ta đặt chìa khóa dự phòng vào đó?” Tôi bóp đầu, bế tắc với đống suy nghĩ lộn xộn đang nhảy múa trong não. “Mà nhắc mới nhớ, cô quen Đăng lâu chưa?”
“Cũng không hơn anh là mấy đâu. Chừng một năm gì đó. Cũng không gặp nhau nhiều lắm. Có vấn đề gì với chuyện đó sao?”
“À, vì tôi thấy anh ta đưa chìa khóa nhà cho cô. Cứ nghĩ chắc hẳn hai người phải thân lắm.”
“Tôi quý anh ta. Anh ta cũng quý tôi. Thi thoảng ngồi ăn, café, mua đồ. Nói chung thân vừa đủ. Mới lại anh ta làm quái có người bạn nào khác đâu.”
“Thật ư? Thế mà tôi cứ tưởng cậu ta thuộc kiểu người ai cũng yêu mến.”
“Điều đó thì không sai. Có điều Đăng hay mất thời gian vào những chuyện không đâu, anh ta chẳng mấy khi để tâm những chuyện trước mắt. Nên là quý Đăng thì nhiều mà người anh ta chơi cùng thì lại chả mấy.”
“Nghe có vẻ giống tôi.”
Gin không để ý về điều tôi vừa lẩm bẩm, nhắm mắt ngẫm nghĩ một lúc, rồi cô giơ bàn tay lên không trung, giống như đang xem có hạt mưa nào không.
“Tôi thật sự thấy lạ về chuyện này. Trở lại về hai vấn đề quan trọng nhất trong các vụ giết người, đó là bằng chứng và động cơ. Bằng chứng ở đây rất lộn xộn và rối rắm, còn động cơ thì chả ra cái mẹ gì.” Gin đưa cổ tay áo lên lau mũi, một động tác tôi không thường thấy ở phụ nữ. “Nếu đặt lại vấn đề theo cách mà anh đã đưa ra, rằng tất cả đều liên quan tới Thụy Bảo, thì mối liên hệ của Đăng ở đây là gì? Tại sao hung thủ lại giết Đăng? Vì anh ấy đã biết quá nhiều ư? Như thế thì thật không hợp lí lắm, trừ khi Đăng đã tiến tới rất gần đích, như là... trực tiếp gặp mặt hắn chẳng hạn.”
Tôi nghĩ về những điều Gin nói một chút.
“Cô từng nói rằng ngày trước khi mất tích, Đăng quay về trường và ngôi nhà mà Bảo từng ở đúng không?”
“Đúng, anh ta nói vậy với tôi.”
“Để xác thực cô hãy qua ngôi nhà đó. Người thuê nhà hiện giờ là một gã khá trẻ. Tôi sẽ cho cô địa chỉ.”
“Còn anh?”
Tôi sẽ làm việc đã trì hoãn lâu nay: “Gặp mặt kẻ tôi chẳng ưa chút nào.”
“Chồng của người yêu cũ?”
“Tôi cũng muốn gọi Bảo là người yêu cũ lắm.” Tôi lẩm bẩm.
“Thì cứ gọi vậy đi, phong phú hơn cho ngôi thứ ba. Mà anh kì vọng điều gì khi đến gặp Hải?”
“Hắn rất có thể là kẻ đó. Tôi tìm được thông tin về việc Hải từng theo học ngành dược khi còn ở nước ngoài. Điều đó có làm cô liên tưởng đến điều gì không?”
“Có!” Gin vỗ tay lên trán. “Mà tôi quên béng luôn cái tên của loại nấm bỏ mẹ đó rồi, vừa dài vừa loằng ngoằng.”
Khi Gin đã bước ra ngoài, tôi quay lại cảm ơn Nam, nói cậu ta tạm thời giữ hộ chai mật ong, có thể sẽ cần dùng nó làm vật chứng. Trước khi rời khỏi phòng thí nghiệm, tôi ghé vào tai Nam:
“Tạm thời đừng nói với ai, kể cả Quang nhé. Có gì tôi sẽ gọi lại sau.”
Cậu ta tỏ vẻ ngạc nhiên, nhưng cũng gật đầu.
“À, thành thật chia buồn với cậu về chuyện của Trang.” Nam nói thêm.
“Cảm ơn cậu. Cậu cũng đọc báo ư? Tôi tưởng cậu vùi đầu trong cái phòng này cả ngày.”
“Đọc báo? Tôi là người hỗ trợ điều tra vụ án đó.”
“Thật ư? Tôi không nghe Quang nói chuyện này.” Tôi ngạc nhiên.
“Vụ đó có vẻ khó nhằn, cậu ta gọi tứ tung những người có thể tin cậy được.”
Nam đưa tay che miệng, như kìm lại một cơn ho. “Máu của cô ấy không có gì bất thường, không có độc tố. Lượng cồn cũng không cao, có thể nói là Trang hoàn toàn tỉnh táo khi đó.”
“Có gì nữa không?”
“Tôi có đến xét nghiệm các vết máu tại hiện trường, ý tôi là nhà của Trang. Có một điều này tôi để ý, và cũng đã nói với Quang, không biết cậu ta có nói lại với cậu chưa?”
“Cậu cứ nói đi.”
“Trước hết, tôi có xem qua xác của Trang. Một người bạn của tôi phụ trách trực tiếp khám nghiệm tử thi nói rằng cơ thể cô ấy khi đó là khoảng 35 độ C. Công thức cơ bản là mỗi giờ sau khi chết cơ thể người sẽ mất không 1,5 độ C. Như vậy là Trang đã chết chừng một cho đến hai tiếng trước khi cảnh sát khám nghiệm cơ thể cô ấy. Cũng có nghĩa là chắc chắn chết vào ngay đêm đó.”
“Điều này tôi có thể hình dung được.”
“Cửa ngõ của khu đó có khóa khá chắc chắn - loại khóa chống kìm cắt. Cánh cửa không có dấu hiệu bị phá. Các vết máu chỉ xuất hiện trên cầu thang dẫn lên phòng cô ấy. Hoàn toàn không có dấu máu trong hay ngoài ngõ, vỉa hè và mặt đường cũng sạch sẽ. Cậu có thấy lạ về điều đó không?”
“Ý cậu là sao?”
“Một vết cắt ở cổ như vậy sẽ làm túa ra rất nhiều máu, cứ cho rằng hắn dùng tay bịt miệng nạn nhân ngay lập tức để tránh tiếng kêu thì hung thủ cũng không thể nào thản nhiên ngồi đó mà kì cọ được, đó là một con phố mà bất cứ ai cũng có thể xuất hiện. Hắn sẽ phải hành động rất nhanh gọn.” Nam vừa nói vừa nhìn tôi chăm chú, như để quan sát phản ứng. “Nếu hắn giết Trang khi cô ấy đang mở cửa ngõ, hoặc giết ở ngoài đường rồi lôi xác cô ấy từ ngoài vào thì, cậu nghĩ xem, ở vỉa hè mặt đường sẽ không thể sạch như vậy được. Sẽ phải có vết máu từ ngoài dẫn cho đến cầu thang. Cũng tức là, cô ấy bị giết phía sau cánh cửa ngõ. Một nơi vắng vẻ và hợp lí hơn để có thể gây án và bỏ đi trong im lặng.”
“Tức là hung thủ là một kẻ sống ngay trong khu đó ư?” Tôi buột miệng kêu lên kinh ngạc.
“Cũng có thể, nhưng giả thiết như thế này thì hợp lí: hung thủ là người đủ tin tưởng để Trang có thể cho hắn vào ngõ cùng. Hắn là bạn, hoặc là ai đó mà cô ấy quen. Hoặc ít nhất cũng phải từng gặp mặt.”
Đó là một căn biệt thự Pháp nằm gần hồ, sơn trắng toát với hàng rào đá, vài cây dừa cao vút trồng phía trước tô điểm thêm vào sự khác biệt với phần còn lại của thành phố. Hai hệ cột đôi kiểu corinthian khiến cho tổng thể căn nhà càng thêm sự nặng nề vốn có, mặt trước mái đón gắn phù điêu lớn. Mái ngói hình tam giác xen kẽ cùng những ô cửa sổ tròn và chuồng chim câu gác mái.
Mặc dù thành phố này chẳng còn mấy chim bồ câu, đó vẫn là một thiết kế không thể thiếu trong những căn biệt thự Pháp cổ điển. Một người giúp việc tiến về phía cửa sau hồi chuông, vẻ mặt lo lắng khi nhìn vào tấm thẻ cảnh sát giả mà tôi giơ lên. Cô ta bước vào trong, nói rằng cần hỏi ý kiến của chủ nhà. Chừng năm phút sau, cánh cửa tự động mở sang hai bên.
Phòng khách rộng với bộ bàn ghế phủ da nâu sang trọng. Vài chiếc tủ gỗ khảm ngọc bầy quanh tường, lấp lánh những chai rượu đắt tiền cùng đám ly cốc sáng choang. Tôi ngồi xuống, gật đầu nhận cốc nước mà người giúp việc mang ra, trong đầu vẫn quẩn quanh những suy nghĩ về điều mà Nam đã nói. Việt Hải bước từ trên cầu thang xuống không lâu sau đó. Đúng như miêu tả của Quang, cậu ta ăn mặc tương đối cẩu thả với quần đùi hoa lá cành như đang dạo chơi ở bờ biển cùng một chiếc áo phông tối màu, khoác thêm pijama không buộc dây - đúng kiểu trang phục của loại người cả ngày không bước chân khỏi nhà. Dáng người rắn chắc và phong độ đối lập với gương mặt mệt mỏi, đôi mắc hốc hác và gò má gờ lên phía trên bộ râu quai nón lởm chởm. Hải quan sát tôi một chút trước khi ngồi xuống phía đối diện, vắt chân lên trịnh thượng:
“Lúc nãy anh bảo với người làm của tôi rằng tên anh là gì?”
“Tôi là Phong, điều tra viên đặc biệt của phòng tổ trọng án thành phố.” Tôi giơ tấm thẻ giả lên lần nữa, dù sao cũng phải nâng lên đặt xuống nó vài lần cho bõ công Gin.
Hải nhíu mày nhìn vào tấm thẻ một chút rồi vẫy người giúp việc lại gọi một ly whiskey, trước khi quay lại phía tôi chỉ vào cốc nước lọc:
“Anh muốn dùng gì khác không?”
“Cảm ơn. Thế này được rồi.”.
“Tôi cũng đoán thế.” Hải buông một lời vô nghĩa. “Mà tôi đã trả lời hầu hết các câu hỏi với cảnh sát hình sự rồi. Nhân tiện, tổ trọng án thì làm công việc gì?”
“Chúng tôi chuyên điều tra án mạng.”
“Vậy thì liên quan gì đến vụ mất tích của vợ tôi?”
“Chúng tôi cho rằng cô Bảo không đơn thuần là mất tích. Có thể việc này liên quan tôi một cái chết khác.” Khi nói đến đây, hình ảnh của Trang lại hiện lên trong đầu, khiến tôi phải bấm chặt những ngón tay lên đùi, cố không để cảm xúc tuột ra ngoài. “Dù sao, tôi cũng chỉ làm phiền anh một lúc. Tôi muốn hỏi vài câu, trước khi khép lại hồ sơ vụ án.”
“Tôi tưởng hồ sơ đã khép lại. Anh không phiền chứ?” Hải hỏi khi đưa một điếu thuốc lăn miệng. Tôi lắc đầu. Anh ta châm điếu thuốc, rít một hơi, nhả khói thành vài vòng tròn khoe mẽ, rồi lại ngả xuống chiếc ghế. “Thôi dù gì anh cũng ở đây rồi, cần hỏi gì cứ hỏi đi.”
“Anh có thể cho tôi biết, vào ngày mà cô ấy mất tích anh đang ở đâu?”
“Tôi ở đây. Tôi dành phần lớn thời gian ở nhà, không như cô ấy.” Hải nhếch mép.
“Có nghĩa là?” Tôi nhíu mày.
“Có nghĩa là gì cơ? Tôi không hiểu câu hỏi.”
“Vợ anh không thường ở nhà?” Tôi ghét phải dùng thứ chủ ngữ này.
“Bảo thường ra ngoài. Từ sáng đến tối. Đôi khi đi qua đêm. Tôi cũng đã nói điều này với cảnh sát từ lần trước.”
“Anh có biết cô ấy ngủ lại ở đâu khi qua đêm không?”
“Tôi không quan tâm tới chuyện riêng của cô ấy.” Cơ mặt Hải hơi giật lên, tuy nhiên ánh mắt vẫn giữ vẻ đờ đẫn ban đầu.
“Anh có biết bạn bè hay người nào mà cô ấy có thể ngủ lại không?”
Hải hơi nheo mắt lại, rồi lắc đầu:
“Không, Bảo không có nhiều bạn bè. Cô ấy chỉ thường kiếm một chỗ nào đó yên tĩnh. Bảo thích ở một mình. Sự thật, tôi nghĩ rằng có lẽ cũng không quá ngạc nhiên nếu vài ngày nữa Bảo về và nói rằng cô ta đột nhiên muốn dành thời gian ở đâu đó một mình. Như là nằm lì trong một cái khách sạn chết giẫm nào đó và đọc sách chẳng hạn.”
Trong thâm tâm, tôi cũng hi vọng điều đó là thật. Nhưng với những gì xảy ra trong thời gian gần đây, tôi biết khả năng đó là quá thấp. Hải với tay kéo chiếc gạt tàn pha lê phía trước gần lại, gảy tàn thuốc, rồi nói tiếp:
“Khi nãy anh nói rằng có thể việc mất tích của cô ấy liên quan tới cái chết của một người khác, như thế có nghĩa là sao?”
“Hiện giờ chúng tôi chưa có kết luận gì. Một cô gái trẻ bị giết tuần trước, cổ bị cứa đứt.” Tôi đẩy về phía Hải bức ảnh của Trang. “Anh có biết cô gái này không?”
“Không. Tôi không biết. Mối liên hệ với sự mất tích của Bảo là ở đâu?” Hải nhìn chăm chú vào bức ảnh, rồi buông nó xuống bàn.
“Vì một số lí do đặc biệt, chúng tôi cho rằng có sự liên quan giữa hai vụ việc. Phần còn lại của thông tin vẫn nằm trong điều tra và tôi không được phép tiết lộ.”
“Tôi hiểu.” Hải gật đầu, mặc dù điều hòa trong nhà lạnh ngắt, tôi thấy mồ hôi rịn ra trên trán của anh ta. Anh ta đưa điếu thuốc lên, rít một hơi dài nữa trước khi dập nó xuống. Bàn tay anh ta quả thật không đeo nhẫn cưới, thậm chí bất cứ đồ trang sức nào khác.
“Anh có biết trước khi mất tích, vợ anh mặc trang phục gì không?”
“Tôi chẳng quan tâm đến chuyện người khác mặc thứ gì lắm.” Nhìn lướt qua thứ thời trang ngu ngốc của Hải, tôi cũng có thể biết đó không phải câu nói đùa.
“Cô ấy có biểu hiện gì bất thường những ngày trước đó không? Như là lo lắng bồn chồn, bỏ ăn, hay thức khuya chẳng hạn?”
“Sự thật là tôi không rõ. Cô ấy có vẻ bình thường, hoặc tôi thấy thế.” Hải nhăn mặt, gân cổ anh ta hằn lên thành những đường rõ rệt, trông như chiếc cây khô lâu ngày không được tưới. “Mà, hôm trước tôi cũng vừa được hỏi câu này xong. Cảnh sát các anh có vẻ thích hỏi chuyện này.”
“Hôm trước?”
“Đúng. Một người cũng tự xưng là thuộc đội điều tra gì đó, tôi quên rồi. Anh ta qua vài hôm trước, hỏi tôi vô số thứ.”
“Anh có nhớ tên của anh ta không?” Tôi ngạc nhiên, theo tôi nhớ thì Quang đã không còn qua đây từ sau khi hồ sơ vụ án khép lại theo yêu cầu của bà Minh.
“Anh ta tự giới thiệu là... Là gì nhỉ. À, Đăng. Có vấn đề gì với anh ta sau?” Hải nhíu mày.
“Không...” Tôi trợn tròn mắt. “Anh ta có hỏi gì đặc biệt không?”
“Cũng không có gì. Mà sao anh lại hỏi tôi? Đó không phải người của bên anh sao? Hãy về mà hỏi cậu ta.” Hải có vẻ đã ngán ngẩm với chủ đề này.
Tôi hỏi anh ta tiếp và câu cho loãng chủ đề, trước khi bước ra khỏi phòng khách. Tôi liếc mắt về phía phần sân sau mà Quang đã miêu tả. Bể bơi ngập nước trong vắt, một hàng cây leo được trồng cẩn thận. Con chó Doberman to đứng cạnh chiếc chuồng khổng lồ của nó, gầm gừ cảnh giác. Ánh mắt nó long sòng sọc và đôi chân liên tục chồm về phía trước như muốn cắt nát bất cứ ai bén mảng.
Hải tiễn tôi ra cửa, ngần ngừ một chút trước khi nói:
“Tôi biết điều này nghe có vẻ không được hay ho lắm. Nhưng mặc dù mối quan hệ của tôi và vợ không-được-tốt-cho-lắm, tôi chưa từng đánh đập hay nặng lời gì với cô ấy. Bảo thuộc dạng người... rất kì lạ. Tôi hoàn toàn không biết cô ấy định làm gì hay đi đâu.”
“Tôi hiểu.” Hơn ai hết, tôi biết Bảo là người thế nào. “Chúng tôi sẽ cố gắng hết sức.”
“Và mong các anh sớm tìm ra hung thủ đã giết cô gái kia. Nếu một kẻ sát nhân chặt tay man rợ như vậy còn lởn vởn trong thành phố này, thì quả thật cũng không phải một tin an toàn gì cho lắm.”
Tôi gật đầu và bước ra. Khi cánh cửa sắt to đã đóng lại, tôi vẫn nghe tiếng con chó sủa inh ỏi phía sau. Tôi bấm điện thoại gọi cho Gin. Cô ta nhấc máy chỉ vài giây sau đó, khác hẳn với thường lệ.
“Gin, tôi đã biết Đăng đi đâu trước ngày mất tích rồi. Không phải căn nhà Bảo từng sống đâu. Sau khi đến đó anh ấy đã...”
“Từ từ. Có chuyện này anh cần biết trước.” Gin ngắt lời tôi. “Tôi nghĩ anh sẽ ngạc nhiên.”
“Tôi ghét sự ngạc nhiên.”
“Gã sống ở đó”, Gin nói nhanh, “Cũng lên bảng vàng nốt rồi.”