← Quay lại trang sách

- XIX -

Amber không muốn bị giam hãm trong một căn phòng toàn màu đen; cô sẽ trở nên sầu muộn. Dù sao thì cái tang cũng tránh cho cô một loạt những cuộc đến thăm mà vào thời kỳ khác không thể tha thứ được. Con cô, một bé gái đã được sinh ra mấy ngày sau cái chết của Samuel. Nếu không, cô đã phải tổ chức một cuộc liên hoan, một cuộc lễ giải cữ và một cuộc tiếp khách lớn sau lễ rửa tội.

Trong trường hợp hiện nay, cô chỉ tiếp những khách họ hàng thân thuộc với gia đình, mặc dù có rất nhiều quà tặng được gửi đến. Amber ngồi trong giường, tựa người lên những chiếc gối, nước da xanh tái, dáng mảnh mai trong toàn bộ màu đen ấy. Cô mỉm cười gượng gạo với các vị khách, lau một vài giọt lệ, thốt lên một tiếng thở dài và âu yếm nhìn đứa bé khi một người vú phấn khởi tuyên bố em là hình ảnh của Samuel. Cô vẫn lễ độ, vẫn kiên nhẫn, vẫn giữ đầy đủ nghi thức như thường lệ, cô tự nhủ thầm là phải biết ơn Samuel, ông đã để lại cho cô một gia tài kếch xù.

Cô hầu như không gặp những người trong gia đình Dangerfield. Mỗi người chỉ đến một lần thăm cô để tưởng nhớ đến người cha của họ. Amber hiểu như thế lắm. Cô biết rằng lúc này ông đã chết, người ta tính đến chuyện ra đi của cô ngay sau khi cô hết kiêng cữ. Cô cũng không có ý định ở lại lâu.

Nhưng một mình Jemima dám nói lên ý nghĩ của những người khác:

- Bây giờ bà đã có tiền của cha tôi rồi, tôi nghĩ rằng bà nên mua một chức tước để trở thành một bà lớn!

Amber mỉm cười khinh bỉ và nhạo báng:

- Rất có thể!

- Bà có thể mua một chức tước - Jemima nói, - nhưng bà không thể mua nổi đạo đức.

Đối với Amber, đây chỉ là tiếng vọng mà cô đã nghe của những người khác, nhưng câu nói sau đây đúng là của Jemima.

“… Còn có vấn đề khác nữa, với tất cả số vàng hiện có bà không thể nào mua được ngài Carlton”.

Lòng ghen của Amber đối với Jemima đã hết sau khi cô ta biết mình đã mắc bẫy, là phải lấy Joseph. Do đó Amber không phải lo sợ gì nữa, mà chỉ còn là khinh bỉ. Amber nhìn Jemima một cách ngạo nghễ, đáp:

- Rất cảm động về những lời khuyên của cô. Nhưng tôi biết tự điều khiển mình. Nếu chỉ vì thế mà cô đến đây thì cô có thể về được rồi!

Sự thờ ơ và đểu cáng của Amber kích động Jemima:

- Vâng tôi đi, hi vọng là chừng nào tôi còn sống sẽ không bao giờ còn phải gặp mặt bà nữa. Nhưng tôi nói cho bà biết, một ngày kia bà sẽ phải ân hận. Chúa sẽ không cho phép sự đồi bại của bà cứ đạt từ thắng lợi này đến thắng lợi khác…

- Đúng thế, - Amber cười đáp - cô rồi cũng sẽ trở nên cuồng tín như những kẻ khác. Nếu thông minh hơn chút nữa, cô sẽ biết rằng không gì thành công hơn sự đồi bại. Và bây giờ cút ra khỏi đây, đồ mất dạy! Đừng có vác mặt đến đây làm phiền tao nữa!

Jemima không đến nữa, các thành viên khác trong gia đình cũng không hơn gì. Amber bị cô lập như không hề có mặt trong nhà.

Cô sai Nan ra thành phố tìm một chỗ ở, không xa trung tâm, trong một ngoại ô lịch sự phía tây giữa Temple Bar và Charing Cross. Ba tuần lễ sau khi sinh, cô đích thân đi thăm mấy nơi mà Nan đã phát hiện được.

Đó là một ngôi nhà mới xây, đẹp trên đường St. Martin, giữa Holborn, Drury Lane và Lincoln’s Inn Fields, trong một khu phố sang trọng. Ngôi nhà có bốn tầng, một phòng cầu thang, và một tầng thứ năm cho đầy tớ. Căn hộ của Amber ở tầng thứ hai; tầng trên là của một cô gái trẻ ở nông thôn ra tỉnh kiếm chồng, ở cùng với một bà cô; tầng thứ tư là một bà góa giàu có đã đứng tuổi. Chủ nhân ngôi nhà là bà Lacy ở tầng một, bên dưới Amber. Bà là một người mảnh khảnh luôn mồm thở dài và kêu nhức đầu, luôn nói về gia tài và hoàn cảnh của bà trong quá khứ đã bị mất mát trong cuộc nội chiến cùng với người chồng mà bà không hề thay thế.

Đối với Amber, căn hộ này là đẹp nhất, gồm một phòng ngoài treo sa tanh vạch đỏ và vàng, đồ đạc gồm hai ba cái ghế tựa mạ vàng và một tấm gương Venice; cuối phòng đó là một phòng khách lớn dài, rất nhiều cửa sổ lắp kính hình quả trám, một mặt nhìn xuống đường, còn mặt kia xuống sân. Lò sưởi xây bằng đá hoa, bên trên có một tấm panô giả cẩm thạch đi đến tận cuối phòng và trang trí những hoa và những con chim, những hình đối xứng và những phụ nữ trần truồng. Chính cái lò sưởi cũng được trang trí những cái hình lớn của Tàu và Ba Tư. Còn có một cây đèn trăm ngọn và các đồ đạc đều hoặc mạ vàng hoặc khảm bạc, ngà hoặc xà cừ. Bà Lacy hãnh diện tuyên bố là không có gì của nước Anh cả. Các bức tường đều bằng satanh màu hổ phách hoặc vàng, dệt bên Pháp, các tấm gương từ Florence gửi đến, đá hoa lò sưởi từ Genoa, các bàn từ Naples, gỗ hồng đào của hai cái bàn từ Tân Guinea.

Buồng ngủ còn sang trọng hơn nhiều. Cái màn trướng được phủ một tấm da bạc và viền bằng một thứ vải mỏng màu xanh lá cây. Những chiếc ghế bành cũng được trải dạ bạc. Có nhiều tủ lẩn vào trong tường và một cái giường nhỏ xinh để nằm nghỉ với một tấm da và một cái gối dài, đó là vật lịch sự nhất mà Amber chưa từng thấy. Ngoài ra, căn hộ còn có ba cái phòng nhỏ làm buồng trẻ, buồng ăn và nhà bếp mà cô định không dùng đến.

Giá thuê quá đắt, một trăm năm mươi livrơ một năm, nhưng Amber không quan tâm nên thỏa thuận ngay không mà cả, mặc dù cô định ở đó không quá nửa năm, vì chẳng bao lâu nữa Bruce sẽ trở về, chàng ra đi đã trên tám tháng, và bến cảng đã đầy những tàu buôn bị bắt.

Cô tiến hành dọn khỏi nhà Dangerfield, mặc dù mất ba bốn ngày đi đi về về, chẳng có ai bén mảng tới xem cô đem gì đi và để lại những gì. Cô mướn một vú nuôi cho con bú và một vú bế em, còn mướn thêm ba người hầu gái nữa cho đủ bộ một ngôi nhà của một bà danh giá, sống độc thân. Ngày cô đến nhà mới, ngôi nhà ở cũ hoàn toàn yên lặng, không thấy một người đầy tớ nào hoặc một trẻ nhỏ nào xuất hiện ở hành lang. Không gì cho cô biết rõ hơn cô bị khinh bỉ biết chừng nào.

Nhưng Amber chẳng hề quan tâm. Đối với cô họ chẳng là gì cả, những kẻ cầu kỳ, chính xác, nguyên tắc ấy, chúng sống trong một thế giới mà cô khinh ghét.

Gieo mình xuống tấm nệm xe, cô thở phào nhẹ nhõm.

- Nào ta lên đường (và quay lại phía Nan)! Thế là xong! Đội ơn chúa!

- Vâng! - Nan nhẹ nhàng nói nhưng còn nghĩ đâu đâu. - Đội ơn chúa!

Hai người lặng nhìn ra ngoài cửa xe, vui thích với tất cả những gì họ trông thấy. Hôm đó là một ngày xấu, sương mù và độ ẩm làm tăng thêm mùi thường là khó ngửi của Luân Đôn. Từ một bên phố, một thanh niên đang huênh hoang, cánh tay đeo băng vừa ra khỏi một trận đấu kiếm gần đây. Phía bên kia, một nhóm người, có lẽ là người Pháp, đang bị một đám trẻ con bao vây và chửi bới om sòm.

Bỗng nhiên Nan kêu lên đưa tay lên che miệng còn tay kia chỉ trỏ:

- Bà xem, lại một cái nữa kìa?

- Cái gì?

- Một dấu hồng thập tự nữa!

Amber cúi đầu ra ngoài xe, trông thấy một dấu thập đỏ to sơn trên cánh cửa một ngôi nhà lúc xe đang đi ngang qua. Bên dưới với hàng chữ in đậm nét:

“Xin chúa hãy thương đến chúng con!”

Một người lính gác đứng trước ngôi nhà, cái giáo dài cắm bên cạnh.

Amber ngửa người ra phía sau vô tư.

- Chao ôi! Bệnh dịch là thứ bệnh của những người nghèo! Em cũng biết đấy!

Với số tiền sáu mươi sáu nghìn livrơ, Amber cảm thấy yên tâm trước mọi biến cố…

Những tuần lễ tiếp theo, Amber sống thanh nhàn trong nhà. Phần lớn thời gian cô ở nhà làm nhiệm vụ người mẹ. Con trai đầu lòng không phải nuôi và rất ít gặp nên đối với cô đứa con thứ hai này rất mới mẻ so với đứa thứ nhất. Cô giúp người vú tắm cho con, nhìn nó ăn ngủ, vừa ru vừa hát lúc ẵm nó và hoan hỉ với tất cả những thay đổi mà cô phát hiện thấy hàng ngày. Cô sung sướng vì đứa con đó, mặc dù thân hình cô có tạm thời dày lên một chút, như đó là cái gì của Bruce mà cô luôn luôn gìn giữ. Đứa bé đó có một cái tên họ, một của hồi môn đảm bảo, một vị trí đáng thèm thuồng của nhiều người khác.

Nan cũng phấn khởi như bà chủ:

- Đây là đứa bé đẹp nhất Luân Đôn!

Amber vẻ như bị xúc phạm:

- Em nói gì? Chỉ Luân Đôn thôi à? Toàn nước Anh thì đúng hơn!

Một hôm, Amber đang ở thị trường chứng khoán, làm vài chuyến đi có việc cần thì gặp Barbara Palmer. Vừa lúc cô đi ra thì cỗ xe vàng ánh đỗ xịch trước mặt. Barbara ở trong bước ra. Mụ Castlemaine chăm chú nhìn vào bộ quần áo của Amber, dù Amber vẫn mặc đồ tang, áo khoác của cô vẫn đính một tấm da báo mà Samuel đã mua của một người lái buôn nô lệ châu Phi, cô cầm một bao tay da báo. Khi Barbara nhìn thấy mặt Amber, mụ liền quay ngay mặt đi, vẻ đài các.

Amber mỉm cười nghĩ thầm: “Kìa nó vẫn còn nhớ đến ta. Được lắm bà ơi! Một ngày kia chúng ta còn quan hệ với nhau chặt chẽ hơn!”

Nhiều tuần trôi đi, những dấu hồng thập tự càng tăng lên trên các cửa nhà. Bệnh dịch hạch hoành hành hàng năm ở Luân Đôn, đến tháng giêng và hai, vài trường hợp riêng lẻ xuất hiện, chẳng có ai lo lắng cả. Nhưng thời tiết càng dịu đi, bệnh dịch càng tăng và dần dần mối kinh hoàng lan khắp thành phố. Người ta rỉ tai nhau, đồn đại, từ hàng xóm láng giềng, từ người bán hàng sang người mua, từ lái buôn sang nội trợ… về dịch hạch, về chết chóc…

Những đám ma dài dằng dặc diễn ra dọc các đường phố, người ta bắt đầu để ý đến những người mang tang. Người ta nhớ lại những điềm trời xấu: tháng chạp xuất hiện một ngôi sao chổi, vạch một đường sáng trên nền trời ban đêm. Kẻ khác lại trông thấy những thanh kiếm lửa treo lủng lẳng trên thành phố, những cỗ xe tang, những chiếc quan tài với hàng đống xác chết trên mây. Đám đông người tập trung trên các bậc của St. Paul để nghe người già cởi trần, cầm bó đuốc trong tay miệng kêu la bài kinh sám hối. Tiếng chuông tang tóc ngân vang không ngừng, có một ý nghĩa mới đối với mỗi người:

Có thể ngày mai nó sẽ nguyện hồn ta hay của người mà ta yêu!

Mỗi ngày Nan lại trở về với một thứ thuốc phòng ngừa mới. Chị ta mua bột long diên hương để ngửi trước khi ra ngoài, những bùa cóc, một cái sừng tê giác, những chiếc lông nhúng vào nhân ngôn hoặc thủy ngân trong một cái vỏ dừa, những đồng tiền vàng dập từ thời hoàng hậu Elizabeth. Hễ ai nói đến một thứ thuốc mới lạ, là chị tìm đến mua ngay mang về cho những người trong nhà và năn nỉ để mọi người dùng, chị ta còn đeo cả một cái vòng lông nhúng nhân ngôn vào cổ ngựa.

Amber tỏ vẻ thích thú về tất cả những sự chuẩn bị kinh hãi đó. Một ông thầy tướng số đã báo trước cho cô biết là năm 1665 sẽ là một trong những thời kỳ hạnh phúc nhất của đời cô, lá số tử vi của cô không bảo cô phải đề phòng một bệnh dịch hoặc bệnh tật nào khác. Vả lại, nói chung, chỉ những người nghèo mới chết trong những ngôi nhà hang chuột của họ.

Một buổi sáng Nan nói trong lúc chải tóc cho Amber:

- Ngày mai bà Lacy sẽ rời bỏ thành phố này.

- Vậy, nếu bà Lacy là một con gà mái già bị ướt lông và gào lên khi chỉ mới trông thấy con chuột, ta làm gì được nào?

- Thưa bà, không phải chỉ có một mình bà ta, bà cũng biết đấy. Có rất nhiều người ra đi.

- Hoàng thượng không, phải không nào?

- Không, nhưng vua thì không thể mắc bệnh được, dù có muốn. Thưa bà, em nói thật đấy, ở lại nguy hiểm lắm. Cách đây năm phút, ở đầu phố Drury Lane, một ngôi nhà vừa mới phải đóng cửa. Em sợ lắm, thưa bà! Chúa ơi! Em không muốn chết, và bà cũng thế, em đoán vậy!

- Nếu vậy, - Amber cười nói - Nếu tình hình nghiêm trọng chúng ta sẽ đi. Nhưng không cần phải biến những chiếc khăn mặt tắm của tôi thành những dây thừng.

Amber không có một ý định nào ra đi trước khi Bruce trở về.

Ngày 3 tháng sáu, hạm đội Anh và Hòa Lan giao chiến, hai mươi bốn tàu Hòa Lan bị bắt và bị đánh chìm, gần mười nghìn người Hòa Lan bị giết và bị bắt làm tù binh, đổi lấy gần bảy trăm thủy binh Anh mất tích. Niềm vui sướng thật là cuồng nhiệt. Ngày mồng tám những chùm pháo hoa được đốt lên sáng rực khắp các phố, đám đông đã đập vỡ cửa kính của tòa đại sứ Pháp vì trong đó không được chăng đèn. Vua Charles là vị hoàng đế vĩ đại nhất, quận công York là vị đô đốc lừng danh nhất, ai nấy đều muốn tiếp tục chiến tranh, quét sạch thủy quân Hòa Lan và ban hành chế độ độc tài trên các đại dương.

Những dấu chữ thập đỏ đã phá các cửa của đô thành!

Mấy ngày sau, Nan bước vào với một bản danh sách người chết trong tay. Chị ta kêu lên:

- Thưa bà, đã có một ngàn hai trăm người chết trong tuần qua.

Amber đang tiếp ngài Buckhurst và ngài Sedley cùng với nhiều quý tộc khác, những người anh hùng của mặt biển trở về. Nan đứng dừng trên ngưỡng cửa rất kinh ngạc:

- Thưa các quý ngài, xin lỗi các quý ngài!

- Không hề gì đâu, thưa bà Nan. Này Sedley, trông chị ta vẫn xinh đấy chứ. Nhưng các bà không sợ bệnh dịch hay sao?

- Ồ thưa các ngài, có chứ ạ! Tôi đang chết khiếp đây! Và tất cả những gì đã ghi bên cạnh. Tôi cho ít ra là một nửa đã chết vì bệnh dịch hạch.

Nan liền đọc tờ giấy vừa in xong, còn chưa ráo mực rồi nói tiếp:

- Làm sao mà biết được những ai đã chết vì bệnh dịch hạch vì người ta đã đút lót cho các nhân viên để che giấu nguyên nhân chết!

Amber và hai người đàn ông phì cười, nhưng Nan bối rối đến nỗi suýt chết nghẹn vì nuốt phải đồng tiền vàng ngậm trong mồm, rồi bỏ chạy.

Tuy nhiên chưa đầy chín ngày sau, hoàng hậu và các bà thị nữ bỏ đi Hampton Court, các triều thần tỏ ý muốn đi theo. Buckhurst và một số những người khác tìm cách thuyết phục Amber cũng nên tản cư, nhưng cô từ chối.

Tuy thế, Nan hả dạ thấy bà chủ bắt đầu chuẩn bị cho chuyến đi. Amber ra lệnh cho các người hầu đóng gói quần áo và đem hầu hết các đồ nữ trang đến gửi ở tiệm Shadrac Newbold, vì cô không muốn phải tự đảm nhiệm. Cô thấy ngoài phố đầy những xe cộ, căn nhà xáo lộn lung tung. Thấy cô đến, ông Shadrac bảo cô:

- Bà đến hôm nay thật là may mắn quá! Ngày mai tôi cũng sẽ tản cư khỏi thành phố. Tôi cứ tưởng bà ở nông thôn cùng với gia đình, thưa bà Dangerfield. Họ đã ra đi cách đây mười lăm ngày rồi.

Gia đình Dangerfield có một đồn điền trong vùng Dorsetshire.

- Tôi không còn ở trong nhà Dangerfield nữa. Tôi cho là tôi chỉ cần lấy một trăm livrơ cũng đủ dùng. Ý kiến ông thế nào?

- Tôi cũng thấy như vậy. Các đường xá đầy rẫy kẻ cướp. Xin lỗi bà một chút.

Trong lúc vắng mặt ông ta, Amber ngồi phe phẩy cái quạt. Trời rất nóng bức, cô cảm thấy cái áo sa tanh đen của mình dính vào da. Rồi ông ta trở ra đếm cho cô những đồng tiền vàng và bạc, xếp chúng thành những chồng nhỏ trong khi cô nhìn ông làm. Để gợi chuyện, ông ta nói:

- Bà Jemima vừa mới sinh một cháu trai rất đẹp có phải không bà?

Amber không biết là Jemima đã đẻ. Cô nói giọng châm biếm:

- Sao sớm thế! Jemima vừa mới lấy chồng tháng mười vừa qua!

Shadrac ngạc nhiên nhìn Amber, mỉm cười và nhún vai:

- À phải! Có thể là sinh sớm một chút. Bà biết đấy, bọn thanh niên liên kết với nhau bằng một bản đăng ký hơn là nghi lễ, phải không nào?

Ông xếp tất cả món tiền vào trong một cái túi rồi đưa cho cô. Trước khi đi ra, Amber quay lại nói với ông:

- Ông có tin tức gì về ngài Carlton không?

- Có đấy! Cách đây khoảng mười ngày, một chiếc tàu trong hạm đội của ngài đã bỏ neo ở đây, và một người đã đến nói với tôi là ngài sắp về. Có lẽ đã nghe nói có bệnh dịch nên đã quyết định không về nữa. Thôi xin chào bà và chúc bà mọi điều may mắn.

- Cám ơn! Xin chúc ông cũng như thế.

Trong những ngày đó người ta chỉ chúc nhau may mắn.

Lập tức Amber bảo đánh xe ra bến cảng và phái Jeremiah đi thăm dò tin tức. Nửa giờ sau anh ta trở về nói rằng có gặp một trong những thủy thủ của tàu, người ta đang chờ đón ngài từng giờ từng phút. Các thủy thủ trên chiếc tàu thứ nhất đang nóng ruột chờ để được lĩnh lương.

Về đến nhà, Amber trông thấy có nhiều cỗ xe chất đầy hành lý của mình đang đỗ trước cửa. Nan chạy đến gặp chủ:

- Vừa có một người chết trong một nhà cách đây bốn căn. Em đã chuẩn bị xong xuôi cả rồi! Đề nghị bà chúng ta lên đường ngay bây giờ.

Amber chán nản đáp:

- Không, không thể được. Chị vừa được tin ngài Carlton sắp về, chỉ hôm nay hoặc ngày mai thôi; và chị sẽ không đi đâu cả trước khi được gặp ngài. Sau đó chúng ta sẽ cùng đi.

Nan khóc nói:

- Ôi! Như thế thì chúng ta sẽ mắc bệnh dịch và chết cả đống với nhau. Em biết đúng thế, vì đó là điều vừa mới xảy ra cho cả một gia đình ở Clement’s Lane, tất cả đều chết. Tại sao không đợi ngài ở nông thôn? Bà hãy để lại cho ngài một bức thư.

- Không! Như thế thì có thể ngài sẽ không đến. Ôi Nan! Vì tình yêu chúa, xin em hãy im đi! Ngày mai em sẽ đi.

Sáng sớm hôm sau Nan lên đường cùng với đứa bé, các vú em, Tansy, hai người hầu và John Lớn, anh này đã đi theo từ nhà Dangerfield vì yêu Nan. Nan phải đến Dunstable và đợi ở đó hoặc, nếu bệnh dịch cũng đã hoành hành, sẽ lại tiếp tục đi xa hơn cho đến nơi có an toàn, rồi báo cho Amber biết. Sau khi đã dặn dò cẩn thận phải chăm sóc đứa bé và trông nom hành lý, Amber cho lệnh xuất phát. Rồi cô cho Jeremiah ra cảng nghe tin, nhưng Bruce vẫn chưa về.

Luân Đôn, người vợi đi một cách nhanh chóng. Sáng nào cũng có từng đoàn xe chuyển bánh: hai ngàn năm trăm người chết trong tuần qua! Những bộ mặt tái mét và buồn thảm của bệnh nhân, của những người bị nhốt cùng với họ, xuất hiện trên các cửa sổ, và những tiếng chuông rền vang hầu hết trong các nhà thờ thành phố. Mọi người đều bịt mũi khi đi qua trước cửa những ngôi nhà có đánh dấu chữ thập đỏ. Nhiều gia đình tích trữ lương thực trong nhà rồi đóng chặt cửa, bịt kín những kẽ hở và lỗ chìa khóa, đóng đanh các tấm ván vào cửa ra vào và cửa sổ để được cách ly với bệnh dịch.

Amber bắt đầu cảm thấy sốt ruột, từng đoàn dài những đám ma, những xe hồng thập tự, tiếng chuông rền vang, những người đi đường nhúng mũi vào chai có chất khử trùng cuối cùng cũng kích động Amber. Cô muốn ra đi, nhưng cô tin chắc là nếu cô ra đi là Bruce sẽ trở về cùng ngày hôm đó. Và thế là cô chờ.

Tempest và Jeremiah đều than phiền phải ở lâu trong thành phố và không muốn phải đi ra bến cảng, người hầu gái phải ở lại khóc lóc suốt ngày và xin phép Amber được trở về với bố mẹ ở Kent. Cuối cùng Amber phải cho chị ta về. Bốn ngày sau khi Nan ra đi, Amber lại cử Tempest và Jeremiah ra cảng để biết tin về Carlton, cô hứa nếu tìm được sẽ cho họ tiền. Vì nếu không có cái mồi đó, cô biết rằng họ chỉ đi loanh quanh một lúc rồi trở về không có kết quả. Họ trở về lúc buổi trưa. Ngài Carlton đã trở về lúc đêm. Họ đã trông thấy ngài trên bến cảng đang trông coi việc bốc dỡ hàng trên tàu.