- XXXI -
Philip được chôn cất vào lúc hoàng hôn ngay ngày hôm đó. Vị mục sư của gia đình, người đã làm lễ rửa tội cho y, làm lễ thánh hóa cuối cùng cho y trong cái miếu thờ nhỏ. Jenny, Amber và những người đầy tớ lặng lẽ quỳ. Trong tất cả những cái chết đột ngột, thông thường người ta cho là những xác chết vì thuốc độc tan rữa rất nhanh, người ta không dám xem xét đến thời hạn sử dụng. Philip khẩn khoản yêu cầu được giữ kín nguyên nhân về cái chết của y, không được tiết lộ. Y muốn tung dư luận là y tự giết mình trong lúc lau chùi súng.
Amber đói đến nỗi bụng đau quặn, nhưng cô từ chối không chịu nuốt bất cứ một thứ gì. Cô còn kinh sợ là Radclyffe có thể đã ra lệnh cho một tên đầy tớ giết chết mình nếu cuộc đầu độc bị thất bại. Vì tất nhiên là hắn có ý định thủ tiêu cả hai người. Cô lấy mấy miếng thịt gà lạnh cho một con chó ăn, nó chết ngay tức khắc, trong một cơn đau dữ dội.
Cả Amber lẫn Jenny, không ai muốn ở một mình trong đêm đó, Jenny cảm thấy những cơn đau giật cơ, làm cho chị lo sợ đẻ sớm. Đêm hôm đó cả hai người đều ở chung trong căn phòng dành riêng cho khách thuộc cánh đông bắc ngôi nhà trông xuống sân, không người nào dám về phòng riêng của mình, Amber quyết định sẽ không bao giờ trở lại phòng của mình nữa. Vào quãng mười giờ đêm, những cơn đau của Jenny chấm dứt, chị đi nằm; nhưng Amber vẫn cứ đứng, nóng nảy, bồn chồn, tiếng động nhỏ cũng làm cô giật mình. Cô có cảm giác như mình bị bao vây bởi những cái bóng gớm ghiếc và cố nén để khỏi hét lên vì khiếp sợ. Cô thắp tất cả những ngọn nến ở tầm tay và không chịu cởi quần áo.
Sau cùng Jenny phải dậy và ôm lấy cô:
- Bà thân mến, bà phải cố ngủ đi chứ!
Amber vùng ra:
- Tôi chịu thôi! Tôi chịu thôi! - Cô vục tay vào tóc run rẩy - Nếu ông ấy trở lại, ông ấy sẽ giết tôi, nếu thấy tôi còn sống… Ôi! Cái gì thế?
- Có gì đâu! Một con vật bên ngoài. Ông ấy sẽ không trở về nữa. Ông ấy không dám. Không bao giờ ông ấy còn dám trở về đây. Bà sẽ được an toàn ở đây.
- Tôi sẽ không ở lại đâu! Sáng sớm mai tôi sẽ ra đi!
- Ra đi! Nhưng bà đi đâu? Ôi! Xin bà đừng bỏ tôi!
- Mẹ chị sẽ đến. Tôi không thể ở lại đây. Jenny! Tôi sẽ phát điên lên mất! Tôi cần phải ra đi! Đừng tìm cách ngăn tôi.
Amber không thể và cũng không muốn nói cho Jenny biết mình đi đâu, nhưng còn cô thì biết rất rõ. Thời cơ mong muốn và tìm tòi từ mấy tuần nay, đã hiện ra: Cô muốn lợi dụng Philip nhưng y đã chết rồi, và cô nhận thấy là cô sẽ đạt được mục đích một mình tốt hơn là có y. Vấn đề đó rất đơn giản, cô lấy làm lạ là sao đã phải chịu đựng được những ngày tháng đằng đẵng đầy căm hờn và thoái hóa, mà không thấy là cần phải có thời gian và những dữ kiện hãi hùng ấy để đưa cô đến độ thất vọng ấy.
Cô sẽ đi Luân Đôn cùng với John Lớn và vài đầy tớ khác. Có thể là họ sẽ gặp được hắn đâu đó trên dọc đường, nếu không cô sẽ thu xếp để được gặp hắn một mình, tại Luân Đôn, trong một đêm tối. Cô biết rằng không phải hiếm trường hợp thấy một người quý phái bị đánh nhừ tử, hoặc có thể chết nữa, bởi vì ai cũng có kẻ thù, và người ta thù nhau một cách độc ác và quyết liệt. Một cái mũi bị xẻo, một cách trừng trị tàn nhẫn, một nhát gươm vào bụng, đó là cách thông thường để rửa một câu chửi có thật hay tưởng tượng. Amber muốn là phải trả giá bằng tính mạng Radclyffe về cái tội hắn đã làm, vì bây giờ là vấn đề sống còn giữa hai người. Cô cho rằng đi du hành trong bộ quần áo nam giới vừa tiện, vừa an toàn hơn. Amber chuẩn bị ra đi sáng hôm sau trong bộ quần áo của Radclyffe, nó cũng không đến nỗi quá rộng. Đi theo cô là John Lớn cùng với bốn người hầu vạm vỡ, chỉ có John là biết rõ ý định của cô. Jenny khóc và van xin cô thay đổi ý kiến, nhưng khi thấy cô cương quyết từ chối, Jenny lại giúp cô chuẩn bị và khuyên cô phải thận trọng.
Trong lúc Amber đang đi thử đôi ủng của Radclyffe, Jenny nói:
- Vấn đề mà tôi không thể nào hiểu nổi là tại sao ông ấy lại tha tôi. Tại sao muốn giết bà và Philip lại để tôi sống?
Amber liếc mắt, khó chịu nhìn Jenny làm Jenny phải đỏ mặt lên, rồi chị cúi gầm xuống. Tội nghiệp Jenny vô tội, chị ta vẫn chưa hiểu và tất nhiên là không cần hiểu. Lần đầu tiên từ khi âm mưu với Philip, Amber cảm thấy xấu hổ… Cô trèo lên ngựa, giơ tay chào Nan và hứa với Jenny sẽ thận trọng.
Đến năm giờ chiều họ đã đi được bốn mươi lăm dặm đường.
Đêm hôm đó Amber ngủ rất say, lâu hơn cả như cô mong muốn. Sáu giờ họ lại lên đường, đến trưa tới Oxford, dừng tại đó để ăn uống. Bà chủ quán để lên hai bình rượu lớn; trong khi họ uống rượu, bà mang đến những cái đĩa bằng thiếc, dao và cùi dìa. Bà lôi trong lò ra một miếng thịt lớn thơm phức, thái ra. Theo tục lệ, họ mời bà vào bàn cùng ăn. Bà hỏi làm quen:
- Chắc là các ông đến Luân Đôn để xem cháy hả?
Mọi người đều hướng về phía bà, tay họ đang đưa những miếng thịt lên mồm đều dừng lại.
- Cháy?
- Các ông không biết à? Ôi! Cháy lớn ở Luân Đôn, người ta nói thế, - bà ta đầy vẻ quan trọng - Mới cách đây một giờ, một ông quý tộc từ đó về có dừng chân ở đây. Ông ta nói là tình hình thành phố trở nên xấu. Có thể tất cả đều bị thiêu trụi.
- Bà nói là cháy lớn ở Luân Đôn? - Amber nhắc lại, vẻ không tin. - Không phải là chỉ vài ngôi nhà thôi sao?
- Ô! Trời ơi, không! Một cuộc cháy lớn, khốn khổ thay! Ông ta nói là lúc ông ta đi, tất cả đều cháy suốt dọc bờ sông, nghĩa là vào buổi chiều hôm qua.
- Trời ơi! - Amber lẩm bẩm.
Cô tưởng tượng tất cả gia sản, quần áo, mọi thứ của cô đều bị thiêu.
- Luân Đôn cháy! Bắt đầu từ bao giờ vậy?
- Sáng sớm hôm chủ nhật, - bà chủ quán đáp, - trước lúc mặt trời mọc. Người ta nói đó là một âm mưu của bọn giáo hội.
- Trời ơi! Và hôm nay chúng ta đi là thứ hai! Gần hai ngày trời!
Amber rất nôn nóng, hỏi John Lớn:
- Còn cách bao xa nữa? Ta phải đến đấy ngay!
- Thưa bà, còn hơn bảy mươi dặm nữa. Chúng ta không thể nào tới hôm nay được, dù có đi suốt đêm. Tốt hơn hết là cứ thủng thỉnh đi lúc trời còn sáng.
Họ ăn vội vàng, lại lên yên. Bà chủ quán theo ra đường và chỉ lên trời:
- Hãy nhìn mặt trời kìa! Nó đỏ quá chừng!
Mọi người đều ngẩng đầu lên, lấy tay che mắt, những người khác trong phố cũng bắt chước họ. Quả nhiên mặt trời sáng một cách ảm đạm, màu đỏ lửa, báo điềm không lành.
- Lên đường! - Amber kêu lên.
Họ phi nước đại. Amber không muốn nghỉ lại ban đêm, vì sợ rằng khi tới nơi những của cải của mình và cả Radclyffe cũng tan biến vào trong mớ hỗn độn ấy. Tuy nhiên, không thể tới Luân Đôn được, vì hành trình trong đêm vô cùng chậm chạp và nguy hiểm hơn ban ngày. Bữa tối xong cô đi nằm, không bỏ ủng, không cởi áo. Trước lúc mặt trời mọc, chủ quán đã lên đánh thức, họ lại lên đường.
Đến mỗi một làng, họ hỏi thăm tin tức, ở đâu câu trả lời cũng như nhau: đám cháy đã lan ra khắp thành phố, thiêu hủy cầu cống, nhà thờ, nhà cửa, không từ một thứ gì… Càng tới gần Luân Đôn bao nhiêu, họ càng trông thấy nhiều người đi về cùng một hướng. Các nông dân và thợ thuyền rời bỏ đồng ruộng tiến về phía thủ đô với những chiếc xe bò, xe cút kít. Các phương tiện vận tải thật đắt giá, một người đàn ông với chiếc xe bò có thể cho thuê với giá năm mươi livrơ trong vài giờ, bằng một người nông dân làm cả năm.
Khi họ tới Luân Đôn, trời gần tối hẳn, vì trong mười dặm cuối cùng, đường đi chật cứng, vất vả lắm mới tiến lên được. Từ xa họ đã nghe thấy tiếng gầm của lửa thiêu, giống như tiếng động của hàng ngàn xe cộ lăn trên đường lát đá. Người ta nghe thấy tiếng nhà đổ sập hoặc tiếng vang lên. Những nhà thờ còn đứng được, chuông réo lên như điên cuồng, rền vang. Tiếng kêu cứu không ngừng từ lúc ngọn lửa mới bắt đầu cách đây hai ngày rưỡi. Ban đêm bầu trời nhuốm toàn một màu đỏ rực.
Dưới những bức tường của thành phố, nhiều bãi rộng trống, đầy những đàn ông, đàn bà, trẻ em và vẫn còn nhiều người khác tiếp tục kéo đến, họ xô đẩy những người đến trước dồn họ lại. Những cái lều được dựng lên, bằng dạ, bằng khăn mặt, bằng giẻ rách buộc túm lại với nhau. Những người mẹ cho con bú; người khác tìm cách nấu thức ăn bằng những thứ mà họ đã vớ được trước khi ngọn lửa lan tới. Có một số người ngồi, mắt đăm đăm, không muốn tin đó là sự thực. Một số người đứng ngơ ngác tìm cách nhìn, mặc dù ánh sáng chói của lửa cháy chỉ cho phép họ phân biệt được những bóng đen sì của những ngôi nhà đang cháy.
Ban đầu, không ai tin là vụ cháy này lại phá hoại khủng khiếp hơn nhiều đám cháy đã xảy ra mỗi năm ở Luân Đôn. Đám cháy bắt đầu hôm chủ nhật, vào quãng hai giờ sáng tại Pudding Lane, một phố nhỏ cạnh bờ sông, được tiếp thêm bởi những đống nhựa đường, dây gai và than trên bờ sông Thames. Ngài thị trưởng được báo ngay từ lúc đầu buổi sáng, nhưng ngài coi thường, nói rằng chỉ cần một người đàn bà “đái” lên đấy cũng có thể dập tắt được. Sợ quần chúng phản đối, ngài từ chối không cho phá đổ những ngôi nhà. Chẳng bao lâu đám cháy lan rộng, khủng khiếp, tàn phá sạch trên đường đi của nó. Khi cháy tới cầu Luân Đôn, thành phố bị đe dọa, vì dưới cầu đầy những tàu thuyền đậu, nếu đổ xuống thì chúng sẽ bịt kín mọi lối ra vào. Những cây gỗ cháy thành than rơi xuống nước phá hủy các bánh xe guồng nước, do đó loại bỏ khả năng độc nhất chống lại lửa có hiệu quả nhất. Người ta phải dùng đến các thùng chuyền tay nhau, đến các vòi, các câu liêm để kéo đổ những ngôi nhà cháy.
Mọi người vẫn đi lễ nhà thờ sáng chủ nhật như thường lệ: có một số tin đồn gieo rắc trong các phố là có một người cưỡi ngựa báo động:
- Cầm vũ khí! Cầm vũ khí! Bọn Pháp đã đổ bộ!
Mãi đến mười một giờ nhà Vua mới được báo tin. Người lập tức tới hiện trường cùng với quận công York và ra lệnh ngay cho phá đổ các ngôi nhà. Tuy đã quá muộn để cứu thành phố, nhưng đó là tất cả những gì mà các ngài có thể làm được. Các ngài giúp vào việc sử dụng các dụng cụ bơm chuyền các xô nước, tăng cường từ nơi này đến nơi kia, động viên dân chúng. Các ngài tỏ ra can đảm, cương quyết, tinh thần của các ngài đầy sáng tạo làm ngăn chặn sự khủng khiếp và những cảnh hỗn loạn.
Mặc dù vậy, thành phố không an ninh cho những người ngoại quốc mà người ta cứ cho là Hòa Lan hoặc Pháp. Tại phố Fenchurch, một người thợ rèn giết một người Pháp bằng thanh sắt đập vỡ quai hàm. Có tin đồn một người đàn bà mang trong người những trái lựu đạn bị đánh trọng thương, thực ra lựu đạn chỉ là những con gà giò. Một người Pháp khác mang những quả banh quần vợt bị bắt và bị đánh đập. Không ai cần biết họ có tội hay không. Trong cơn cuồng loạn mỗi lúc một tăng, ai nấy đều muốn biết nguyên nhân của tai họa khủng khiếp ấy, người ta phát hiện thấy một trong vấn đề mà người Anh nghi ngờ và căm thù hơn cả: bọn Pháp, bọn Hòa Lan và bọn công giáo. Một trong số đó phải là thủ phạm, và người ta quyết định không để cho thủ phạm thoát được. Vua Charles cho bắt giữ những người ngoại quốc để bảo vệ họ, tòa đại sứ Tây Ban Nha mở cửa cho nhiều người khác vào ẩn nấp.
Amber và đoàn tùy tùng, cuối cùng phải bỏ ngựa tiếp tục đi bộ.
Họ đã cưỡi ngựa trong mười ba giờ, Amber cảm thấy người đau ê ẩm. Cô mỏi mệt đến choáng váng, chỉ mong được đi nằm, nhưng phải lấy hết nghị lực đi tiếp. Cô không ngừng tự nhủ thầm: “Chớ có dừng lại, chỉ vài bước nữa thôi! Cứ tiếp tục! Cần phải đến được đó!” Cô lo sợ không kịp gặp Radclyffe, sợ hắn bỏ đi, lo nhà đã cháy, dù khổ sở vì mệt mỏi, cô vẫn cứ tiếp tục đi.
Cô bám lấy những người gặp dọc đường, hét to lên hỏi họ xem Cheapside đã cháy chưa. Phần lớn họ không thèm nghe và đẩy ra, rồi cô cũng có được một câu trả lời:
- Từ sáng sớm nay rồi!
- Toàn bộ?…
Anh ta đã bỏ đi, cô lại bám vào tay áo người khác:
- Tất cả Cheapside đã cháy hết chưa?
- Rồi, anh bạn trẻ ạ! Cháy bình địa!
Câu trả lời đó làm cô tuyệt vọng. Đám cháy khổng lồ dữ dội quá, sự tàn phá khủng khiếp quá, tất cả như dáng dấp kỳ lạ của sự không có thực. Shadrac Newbold đã hoàn toàn bị cháy hết, chắc chắn là với tất cả của cải bên trong, nhưng lúc đó cô không thể nào thấy hết được ý nghĩa đó đối với mình, mãi sau này cô mới hiểu.
Một vấn đề có tầm quan trọng: tìm được Radclyffe! Amber bám riết lấy John Lớn, họ khó nhọc tiến vào phố Goswell, vì phải đi ngược chiều với dòng người cứ đẩy họ lùi lại. Có nhiều bà mẹ mang những gói to tướng trên đầu, hai tay ôm một đứa bé đang bú, mắt lo lắng nhìn những đứa con khác, chỉ sợ chúng bị chết bẹp hoặc bị lạc. Những người phu khuân vác giọng ồm ồm, hỗn láo và thô lỗ, vừa gào vừa huých khuỷu tay. Chỗ nào cũng có những con vật vì khiếp sợ chạy lồng lên. Một con dê cái kêu be be; người ta lôi những con bò cái mang trên lưng những đứa trẻ con đang gào thét khiếp đảm. Không biết cơ man nào là chó, mèo, lợn nhạc đeo cổ, những con vẹt trong lồng, những con khỉ ngồi vắt vẻo trên vai chủ, chòng ghẹo nhau và túm lấy tóc giả của một người đi đường. Những người đàn ông đội trên đầu một cái mền lông chim biển trên đó đặt một cái hòm không được cân bằng, thỉnh thoảng lại rơi xuống đất. Những người khác gom tất cả những thứ mà họ cứu được vào trong một cái chăn dạ và mang nó trên lưng. Những người đàn bà chửa tìm cách che chở cho cái bụng mình, kẻ trẻ hơn gào khóc như loạn thần kinh. Người ốm được mang đi trên lưng một người chồng, người con hoặc một người đầy tớ. Nỗi thất vọng hiện lên trên nét mặt uể oải và hoảng hốt của họ. Vài đứa trẻ đùa cười trong đám người. Rất nhiều người già gần như hoàn toàn bất động, họ đã mất hết của cải dành dụm trong suốt cuộc đời.
Được cánh tay của John Lớn che chở, Amber từ từ mở được một lối đi. Cô thấp quá nên không thể nhìn được đầu đám đông, luôn phải hỏi John xem phố Aldersgate đã cháy chưa, anh ta phải trả lời là lửa hình như chưa cháy tới, nhưng cũng không còn xa nữa.
“Miễn là ta đến được! Miễn là ta đến được và tìm thấy hắn ở đấy!” - Cô tự nhủ.
Tro bay vào mắt, cô dụi làm mắt đỏ hoe. Cô ho sặc sụa vì khói, khí nóng do gió đẩy làm lỗ mũi cô đau khi thở. Với một nỗ lực phi thường, cô giữ không để bật ra tiếng khóc, cô nuốt những giọt nước mắt giận dữ và mệt nhọc trào lên. Cô sẽ ngã nếu không có John Lớn giúp đỡ. Những người khác cùng đi đều đã biến hết, có lẽ chúng đi tham gia hôi của vì bọn kẻ cắp xông vào các nhà ngay cả trước khi chủ nhà ra đi.
Họ đã đến tòa nhà của Radclyffe.
Lửa đã bén tới phía dưới. Những chiếc xe tải chất đầy đồ đậu trước cửa nhà, những người đầy tớ, cả bọn ăn cắp từ trong nhà đi ra, mang những hình, những bức tranh, bức tượng và đồ đạc. Amber đi vào tầng dưới, không ai ngăn cản, hoặc họ không thấy sự có mặt của cô. Tất nhiên là người ta không thể nhận ra cô với bộ mặt đầy tro bụi, bộ tóc rối bời, quần áo rách rưới và cháy xém.
Tầng dưới lộn xộn, cầu thang lớn đầy người mang vác đồ đạc, thảm thêu vàng, ghế bành bọc nhung. Amber tiến lại gần một tên đầy tớ mặc chế phục đang giúp sức nâng một cái tủ to tướng chạm trổ.
- Chủ anh đâu?
Hắn không nhận ra cô và sẽ không dừng lại nếu cô không nắm lấy cánh tay hắn lắc mạnh và định cho hắn cái tát.
- Trả lời đi! Chủ anh đâu?
Hắn ngạc nhiên nhìn nhưng không nhận ra cô. Có thể là Radclyffe đã bắt hắn làm việc quá nhiều. Hắn dùng đầu ra hiệu:
- Có lẽ trên kia. Trong phòng làm việc của ông.
Amber chạy lên cầu thang, mở một lối đi lên giữa bọn đầy tờ và các đồ đạc. John Lớn đi theo sau. Cô cảm thấy hai chân mình yếu đuối và run rẩy; tim đập như muốn vỡ lồng ngực, cổ khô lại.
Hai người đi theo hành lang đến tận phòng của bá tước. Vừa lúc đó có hai người bước ra mang những chồng sách lớn. Amber bước vào và ra hiệu cho John Lớn đóng khóa cửa lại. Cô khẽ dặn:
- Chớ có vào trước khi tôi gọi nhé!
Cô tiến nhanh vào phòng ngủ. Trong phòng hầu như đã trống rỗng, ngoài cái giường ngủ vì nó lớn và cồng kềnh quá không mang đi được. Amber đi ngang qua để bước vào phòng thí nghiệm. Cô có cảm tưởng như tim sắp vỡ ra vì đập quá mạnh. Radclyffe ở đấy, đang vội vàng lục các ngăn kéo một cái bàn và nhét những tờ giấy vào đầy túi. Đây là lần đầu tiên cô thấy quần áo hắn lôi thôi, hắn đã phải đi ngựa mới đến đây nhanh được như thế, vẫn giữ được vẻ lịch sự, hắn quay lưng về phía cô.
- Bá tước!
Tiếng nói của Amber vang lên như một tiếng chuông. Hắn giật mình quay người lại, nhưng chưa nhận ra cô và lại tiếp tục công việc ngay.
- Anh muốn gì? Anh đi đi, tôi bận lắm. Mang ít đồ xuống xếp vào xe bò.
- Bá tước! - Amber nhắc lại. - Hãy nhìn kỹ tôi ông sẽ thấy tôi đâu phải là con trai.
Radclyffe từ từ quay lại. Thận trọng hơn. Chỉ một ngọn nến được thắp sáng, nhưng ngọn lửa của đám cháy soi sáng rất rõ trong buồng. Phía ngoài lửa đang hoành hành dữ dội, những tiếng nổ làm rung động các cửa sổ, những ngôi nhà xung quanh lần lượt sụp đổ. Cuối cùng hắn khẽ hỏi:
- Thì ra bà đấy à?
- Phải tôi đây. Và còn sống nguyên. Không phải là ma đâu! Philip chết rồi, còn tôi thì không!
Lòng hoài nghi nhường chỗ cho sự ghê tởm, đột nhiên Amber thấy không còn sợ hãi gì nữa. Cô nhận thấy mình có quyền lực, có sức mạnh, lòng căm thù chứa chất bùng lên tạo cho cô sức mạnh bạo tàn.
Hếch cằm lên một cách hỗn xược, cô chậm chạp tiến lại gần hắn một bước, lấy đầu cái roi ngựa đập đập vào đôi ủng của mình. Cô nhìn thẳng vào mặt hắn, môi hơi rung rung.
- Con trai tôi đã chết! - Hắn từ từ nhắc lại, nhận thức được việc mình đã làm. - Con trai tôi đã chết, và bà thì không!
Người hắn rã rời như già sọm đi, mất hết mọi tin tưởng. Tên thủ phạm giết con trai mình đã hoàn toàn suy sụp.
Chống tay lên háng, Amber vẫn giữ cái roi ngựa trong tay, hỏi giọng nhạo báng:
- Vậy là cuối cùng ông đã phát hiện ra việc làm của chúng tôi?
Hắn khẽ mỉm cười, nụ cười lạnh lẽo, khinh bỉ và khoái lạc một cách kỳ lạ, chậm rãi đáp:
- Phải! Đã từ nhiều tuần lễ tôi quan sát hai người, trong lều mùa hè, mười ba lần tất cả. Tôi nhìn bà làm gì, tôi nghe bà nói gì và tôi cảm thấy sung sướng nghĩ là bà sắp phải chết, trong một ngày nào đó, mà bà ít chờ đợi nhất…
- Thật hả! - Amber ngắt lời, giọng khô đanh, vừa nói vừa quất cái roi vào không khí làm nó rít lên ghê rợn. - Nhưng tôi chưa chết, và chưa có ý định chết.
Một ánh man rợ thoáng trong mắt, đột nhiên cô giơ roi và dùng hết sức mạnh quật vào giữa mặt hắn. Hắn nhảy lùi lại lấy cánh tay che mặt, nhưng đã bị trúng đòn, một vệt hằn đỏ chạy từ thái dương xuống đến dưới mũi.
Amber nghiến răng lại, vẻ tức giận giết người làm nhăn nhúm khuôn mặt cô. Cô tiếp tục quất điên cuồng. Hắn nắm lấy cái chân đèn, dùng hết sức ném vào cô, cô né sang một bên và kêu thét lên.
Bị trúng vào vai, ngọn nết tắt, Amber thấy mặt của Radclyffe kề bên cô, hắn cướp lấy cái roi. Cả hai người vật nhau và lúc Amber sắp sửa đặt được đầu gối vào bụng hắn. Radclyffe gập người lại. Amber giật lấy cái roi và quất liên hồi vào mặt hắn dữ tợn, không còn nhận thức được mình đang làm gì nữa.
Cô thét lên:
- Giết chết nó đi! Giết!…
Một tay John Lớn lột bộ tóc giả của bá tước, còn tay kia tiếp tục nện. Radclyffe nằm thẳng cẳng dưới sàn, đầu máu me đầm đìa. Amber không cảm thấy xót thương, hối tiếc, mà chỉ thấy thỏa mãn vì hận thù đã được trả. Đột nhiên những tấm thảm bốc lửa, trong một cơn hoảng sợ ghê gớm, cô tưởng là ngôi nhà đã cháy và cả hai người bị kẹt trong biển lửa. Nhưng đó chỉ là cây nến rơi xuống đất cạnh cửa sổ đã đốt cháy các tấm rèm. Ngọn lửa đã lên tới trần, liếm những tấm gỗ:
- John!
Anh quay lại thấy lửa cháy, cả hai chạy ra ngoài. John đóng khóa cửa lại. Hình ảnh cuối cùng mà họ thấy về Radclyffe là một lão già máu me nằm trên sàn nhà lửa đang liếm tới gần. John nhét chìa khóa vào túi, họ chạy nhanh dọc hành lang để ra khỏi nhà bằng phía sau. Nhưng Amber chưa đi được mười mét đã khụy xuống, bất tỉnh. John Lớn bế cô lên, tiếp tục chạy. Anh xuống cầu thang mật nhỏ, tay vẫn bế Amber bất động; đến nửa đường anh gặp hai người không mặc chế phục muốn chen anh để đi lên, hẳn là bọn ăn cắp, John kêu lên:
- Cháy! Nhà cháy rồi!
Lập tức chúng quay lại chạy xuống thang ra sân. John Lớn bám theo nhưng khi ra tới ngoài thì chúng đã biến mất. Anh quay đầu nhìn lại căn nhà bị ánh lửa từ cửa sổ trên cao đã phản chiếu xuống hồ nước sáng rực.