- XXXV -
Luân Đôn cũng trở nên buồn tủi như một cô gái xanh xao thiếu máu. Những năm gần đây cuộc sống ở đó đã trải qua quá nhiều sự kiện sôi nổi và bi thảm, nhiều biến động và quằn quại. Do đó thành phố khó chịu, nôn nóng, luôn luôn lo lắng và sợ hãi. Không một cảnh ngộ nào ảm đạm đến thế, tất cả đều có thể xảy ra và tất nhiên sẽ xảy ra.
Năm mới bắt đầu trong nỗi tuyệt vọng, với hàng ngàn người, đàn ông, đàn bà và trẻ con không một mái nhà che thân, sống trong những túp lều phủ giấy nhựa, dựng một cách vội vã trên mảnh đất nơi ở cũ của mình. Hoặc họ phải sống chen chúc trong vài phố xá mà ngọn lửa đã bỏ qua và bắt buộc phải trả giá thuê nhà quá đắt. Trong suốt mùa đông giá lạnh và khắc nghiệt khác thường ấy, giá than củi đắt đến nỗi rất nhiều người không dám mua. Phần lớn dân chúng đều tin (với lý do xét theo bề ngoài) Luân Đôn không bao giờ có thể xây dựng lại được và họ mất lòng tin ở hiện tại, không hy vọng vào tương lai.
Một hung tinh như đang xuất hiện trên bầu trời nước Anh.
Món nợ quốc gia chưa bao giờ lớn như vậy và chính phủ gần như bị phá sản đến nơi. Cuộc chiến tranh, lúc đầu với bao niềm hy vọng, đã không được lòng dân, vì nó đã không đem lại hạnh phúc, mà là những thảm họa chưa từng có trong hai năm gần đây. Những lính thủy của hạm đội Hoàng gia bị què cụt, những người bị đói ăn, nằm la liệt trong sân của bộ Hải Quân. Quốc Hội đã không chuẩn y những món chi cần thiết để một hạm đội ra khơi trong năm nay. Những nhà buôn không muốn lại bị ép buộc phải vũ trang cho tàu của họ, không có tiền mặt. Hội đồng bộ trưởng đã quyết định - trái với ý kiến của vua Charles và của hoàng thân Rupert - giải pháp Hạm đội và trông chờ ở những cuộc đàm đàm phán hòa bình được mở đầu.
Nhưng triều đình không lo lắng gì đến những vấn đề đó. Mặc dù tình trạng kinh tế tuyệt vọng của chính phủ, một số những của cải lại tập trung hơn bao giờ hết vào trong tay một số người đặc biệt, bất kể ai, có tư tưởng kinh doanh tư bản, có thể đầu tư tích trữ tiền của họ lại, và chỉ ít lâu sau sẽ có giá trị gấp đôi, gấp ba. Những con người táo bạo ấy không sợ cả bọn Hòa Lan vì phần lớn bọn họ đều biết là nước Anh vừa mới ký một hiệp ước bí mật với nước Pháp để ngăn chặn hạm đội Hòa Lan ra khơi. Những người Pháp không quan tâm và không bao giờ quan tâm đến chiến tranh. Mặc cho bọn dân ngu tha hồ mà thắc mắc, các bà lớn và các nhà quý tộc còn phải lo toan đến nhiều việc khác. Họ quan tâm nhiều đến sự bỏ trốn trách nhiệm của Buckingham và đến những lời đồn đại có liên quan đến việc Frances Stewart có mang, được lan truyền từ một tháng sau khi bà ta lấy chồng.
Cho đến cuối tháng Tư, một tin khủng khiếp lan truyền, một hạm đội Hòa Lan gồm hai mươi bốn tàu chiến đang đi lại tuần phòng trước bờ biển nước Anh. Mọi người hoảng hốt. Nỗi khủng khiếp, tức giận và nghi kỵ lan tràn như đám cháy. Đã xảy ra vấn đề gì trong những cuộc thương thuyết? Có kẻ nào đã phản bội, đã bán nước cho quân thù! Trong suốt nhiều đêm, họ chờ nghe tiếng trống trận, tiếng gào thét của các nạn nhân bị kiếm chém; nhưng quân Hòa Lan vẫn cứ luẩn quẩn ngoài khơi, đe dọa, không vào gần hơn nữa.
Amber chẳng hề quan tâm đến bọn Hòa Lan, cũng như đến chiến tranh, đến sự phản bội của Buckingham, đến đứa con của Stewart. Cô chỉ có một ý nghĩ độc nhất: Bruce Carlton.
Vua Charles đã ban cho chàng một phụ ân là hai mươi ngàn acrơ như đã đề nghị. Những mảnh đất rộng mênh mông là cần thiết vì thuốc lá làm kiệt quệ đất đai trong ba năm, và như vậy khai hoang đất mới rẻ hơn là thâm canh đất cũ. Chàng còn giữ một đoàn tàu gồm sáu chiếc bởi vì các nhà buôn và những người trồng trọt thường đánh giá thấp các mùa màng và tàu bè thường là luôn luôn thiếu. Do đó các tàu của Bruce rất cần thiết phải có, chàng đã gửi đi một chuyến chở nặng sang Pháp vào tháng Mười năm trước. Mặc dù là trái với pháp luật, vấn đề buôn lậu vẫn được thịnh hành và các nhà trồng trọt cần phải lao vào vì loại thuốc Virginia sản xuất trong hai năm vượt mức tiêu dùng của nước Anh ba năm.
Hằng ngày Bruce đi mua lương thực cho mình và cho các bạn láng giềng nhờ chàng.
Nhà của chàng ở Virginia chưa hoàn toàn xây xong vì năm trước chàng bận canh tác. Thêm nữa, việc thuê mướn thợ có kinh nghiệm là rất khó khăn, vì phần lớn những người đi xa tổ quốc đều muốn làm giàu trong năm sáu năm và không ưng làm với đồng lương cũ. Bruce mang theo vài chục người thợ lành nghề để xây xong nhà chàng và làm ruộng. Chàng mua những tấm kính, những viên gạch, những chiếc đinh, là những thứ ở Mỹ hiếm, cùng với nhiều người di cư, mang theo nhiều loại cây và hoa nước Anh để trồng trong vườn của mình.
Bruce rất ham mê cuộc sống ở Virginia.
Amber muốn biết tất cả và đưa ra cho chàng hàng ngàn câu hỏi, nhưng khi được trả lời, cô đều tự ái, tức giận, ghen tuông:
- Trời ơi! Em không hiểu làm sao mà anh lại có thể sống được ở cái xứ sở như vậy! Lại còn lao động suốt cả ngày!
Lao động không được coi là việc làm xứng đáng với một người quý tộc, là một hành động xấu xa!
Một buổi trưa tháng Năm ngập nắng, hai người dạo chơi trên sông Thames, đi về phía Chelsea, cách xa lâu đài Almsbury ba dặm. Amber đã mua một cái du thuyền mới, to mạ vàng, có trang bị những chiếc gối bằng nhung xanh thêu vàng, cô đã cám dỗ được Bruce đến khánh thành. Nằm dưới bóng lều, hoa hồng trắng gài trên mái tóc, Amber cầm một cái quạt lớn để che nắng. Chiếc áo dài bằng lụa xanh phủ lên chân cô. Những người chèo thuyền mặc chế phục vàng và xanh, ngồi nghỉ nói chuyện phiếm. Con thuyền khá dài nên họ không thể nghe được những câu chuyện của Bruce và Amber.
Chàng ngồi trước mặt cô, mỉm cười, một mắt nheo lại vì ánh nắng. Chàng nói:
- Mọi buổi sáng anh không nằm trên giường để đọc những bức thư êm ái, buổi trưa không đi xem hát và buổi tối không vào các tiệm rượu. Nhưng chúng tôi có những cái thú riêng. Chúng tôi sống trên bờ những con sông, việc đi lại không khó khăn gì. Chúng tôi đi săn, uống rượu, khiêu vũ và cờ bạc như mọi người ở đây. Phần lớn những người trồng trọt là quý tộc, và họ mang theo các phong tục và trang phục, những đồ đạc trong nhà và chân dung tổ tiên. Một người Anh xa nhà, không quên những phong tục của mình.
- Nhưng không có thành phố, nhà hát, lâu đài gì cả! Trời ơi! Em không thể nào chịu đựng được. Em chắc là vợ anh thích cuộc sống tẻ nhạt đó?
- Anh tin là thế. Vợ anh rất sung sướng về nghề canh tác của người cha.
Amber cho là mình đã nhận thức được đầy đủ về Corinna, vợ Bruce, cô hình dung nàng là một Jenny khác, hoặc như Almsbury phu nhân: một nhân vật bình thản hay bẽn lẽn, trên đời này không còn biết nghĩ đến gì khác ngoài chồng con mình.
- À phải, tất nhiên thế! Và nàng không còn biết gì khác. Tội nghiệp nàng! Nàng thế nào, chắc là tóc hung?
Theo cô nghĩ thì đã là một người đàn bà đẹp thì không thể có tóc màu khác được.
Chàng lắc đầu thú vị:
- Không đâu. Tóc nàng màu rất sẫm, sẫm hơn của anh nữa!
Đôi mắt Amber mở to ánh lên màu ngọc thạch, động lòng trắc ẩn, như chàng đã thú nhận có một cái môi trề hoặc cái chân khòng. Tóc đen không phải là mốt của các bà.
- Ồ! Nàng người Bồ Đào Nha?
Cô biết rõ là không phải thế, nhưng ở bên Anh những đàn bà Bồ Đào Nha đều bị coi là xấu xí nhất. Với một điệu bộ uể oải, cô cúi xuống để bắt một con bướm đang bay qua. Bruce cười:
- Không, nàng người Anh, nước da hồng và cặp mắt trong xanh.
Amber không thích cách nói của Bruce khi nói về vợ chàng, một cái gì lạ lùng trong âm điệu và trong ánh mắt của chàng. Cô bắt đầu cảm thấy bực mình và lo âu:
- Bao nhiêu tuổi?
- Mười tám.
Đột nhiên Amber có cảm tưởng là chỉ trong giây phút mình đã già đi hàng chục tuổi. Vào thời kỳ đó, những người đàn bà đều có một nhận thức bi đát về tuổi tác của họ, khi đã quá hai mươi, thì họ đều có cảm giác là mình đã già. Amber vừa mới quá hai mươi ba, đã cảm thấy mình già và suy nhược rồi. Cách nhau năm tuổi giữa hai người phụ nữ với nhau! “Một thế kỷ!” Cô khẽ lẩm bẩm một cách đau lòng:
- Anh đã nói với em là nàng xinh lắm. Xinh hơn em hả anh Bruce?
- Trời ơi, Amber! Đặt cho một người đàn ông câu hỏi gì mà kỳ vậy! Em cũng biết rằng em rất đẹp. Mặt khác, anh không mù đến nỗi cho rằng trên trần gian này chỉ có mỗi một người đẹp.
- Anh thấy người đó đẹp hơn!
Amber bực mình kêu lên. Bruce nắm lấy bàn tay cô hôn nồng nhiệt!
- Em yêu ạ, anh không thấy thế đâu. Anh xin thề! Hai người không giống nhau một chút nào, nhưng cả hai đều đáng yêu cả.
- Và anh yêu em chứ?
- Anh yêu em.
- Vậy tại sao… Ồ! Thôi được!
Cô vội nói. Hướng theo cặp mắt chàng, nàng đổi hướng câu chuyện:
- Anh Bruce, em có một ý kiến! Lúc nào anh xong việc, chúng ta sẽ lấy chiếc thuyền buồm của Almsbury đi chơi ngược dòng sông một vài tuần lễ. Em đã hỏi, anh ấy đã đồng ý. Ôi! Em van anh đấy! Tuyệt lắm!
- Anh sợ rời khỏi Luân Đôn. Nếu bọn Hòa Lan đổ bộ?…
Amber chế giễu:
- Ôi, sao mà lố bịch thế! Chúng chẳng dám đâu! Vả lại hòa ước hầu như đã ký xong. Hôm qua em nghe thấy Hoàng thượng nói thế. Chúng chỉ lượn ngoài bờ biển nước ta để dọa dẫm và trả chúng ta cái mà chúng ta đã làm cho chúng vụ hè năm ngoái. Anh Bruce, xin anh!…
- Có thể được, nếu bọn Hòa Lan cút về nước.
Nhưng bọn Hòa Lan không cút về nước. Sáu tuần liền chúng lảng vảng quanh bờ biển với một hạm đội một trăm chiến thuyền, còn thêm hai mươi nhăm của Pháp. Trong khi đó nước Anh không còn một chiếc nào ra hồn và buộc phải sử dụng những chiếc tàu cũ và xấu. Quân đội Pháp đóng ở Dunkerque.
Rồi một đêm họ đang ngủ, hầu như Bruce đã ngủ, còn Amber chỉ lơ mơ, thì một tiếng động hỗn độn làm hai người tỉnh giấc. Amber lắng nghe, kinh ngạc, trong khi tiếng động mỗi lúc một lớn. Đột nhiên nó bùng lên, đó là những tiếng trống báo động trong các phố. Amber có cảm tưởng như tim mình ngừng đập. Cô ngồi dậy lay vai Bruce:
- Bruce… Bruce, dậy đi! Quân Hòa Lan đã đổ bộ!
Giọng cô run run, người lạnh ngắt vì sợ hãi. Những tuần lễ hoài nghi ấy đã làm cô bị khích động hơn cô tưởng, màn đêm âm u, những tiếng trống ghê rợn, tất cả đều góp phần làm cho cô tưởng là quân địch đã đến đây, trong thành phố này, ngay trước nhà cô. Tiếng động mỗi lúc một lớn hơn, tiếng trống khua cuồng loạn, những tiếng kêu của đàn ông, tiếng thét chói tai của đàn bà.
Bruce chồm dậy. Không nói một lời, Amber đi theo ra cửa sổ. Anh cúi xuống, gọi ra sân:
- Gì thế? Quân Hòa Lan đổ bộ phải không?
- Chúng đã chiếm Sheerness rồi! Chúng ta đang bị bao vây!
Tiếng trống vẫn thúc, tiếng chuông nhà thờ đổ hồi, một cỗ xe đi trong phố, rồi một người cưỡi ngựa. Bruce đóng cửa sổ lại, mặc quần áo:
- Mẹ kiếp! Chúng sắp đến đây rồi, chúng ta chẳng có gì để ngăn chúng lại!
Amber khóc vì thực sự hãi hùng. Bên ngoài, tiếng trống giục mỗi lúc một mạnh hơn, ầm vang trong đêm tối, tiếng động ghê rợn báo trước điều bất hạnh; mọi người đều kêu hét trên cửa sổ, chạy lao ra đường phố. Nan gõ cửa đề nghị được vào.
Amber kêu, rồi quay lại Bruce hỏi:
- Anh đi đâu đấy? Để làm gì?
Amber run rẩy, hai hàm răng va vào nhau lập cập, dù đêm đó nóng nực. Nan cầm nến bước vào châm sang các ngọn khác. Nỗi lo sợ của Amber giảm dần khi trong phòng sáng lên.
- Anh đi đến Sheerness đây!
Bruce thắt nút cavát, chàng bảo Nan sang phòng chàng lấy đôi ủng. Amber đưa cho chàng cái áo chẽn.
- Ôi! Anh Bruce, xin anh chớ có đi. Bọn chúng đến hàng nghìn đứa, chúng giết anh mất. Bruce, anh không được đi.
Cô níu cánh tay chàng bắt chàng phải ở lại. Chàng gỡ ra, cài khuy áo chẽn, xỏ chân vào đôi bốt to tướng có đinh thúc ngựa bằng bạc mà Nan mới mang tới. Chàng thắt dây gươm và Nan đưa cho chàng chiếc mũ và áo khoác. Chàng nói:
- Em phải đem các con rời khỏi Luân Đôn càng sớm càng tốt.
Có tiếng gõ cửa, Nan ra mở, Almsbury và Emily bước vào vội vã, Almsbury đã mặc quần áo tề chỉnh, vợ anh mặc váy ra ngoài áo ngủ.
- Bruce! Bọn Hòa Lan đã đổ bộ! Ngựa của tôi đã yên cương sẵn sàng dưới sân…
- Nhưng các anh không thể đi được đâu! Bruce! Ôi, Almsbury! Anh ấy không thể đi được đâu!
Almsbury nhìn cô vẻ trách móc.
- Vì tình yêu Chúa! Amber, nước nhà đang bị xâm lăng.
Hai người đàn ông vội vã bước ra khỏi phòng, ba người đàn bà theo sau họ.
Hành lang đầy những đầy tớ vẫn quần áo ngủ chạy khắp nơi nhớn nhác, vài người đàn bà khóc. Lúc họ ở trong phòng Amber đi ra, bà Stanhope hớt hải chạy đến, mũ đội trùm đầu bên dưới có những giấy cuốn tóc, bà ta đi đôi găng tay bằng da gà. Người bà rung lên từng hồi. Bà tiến lại gần Bruce:
- Ôi! Ngài Carlton đây rồi, cám ơn Chúa! Chúng ta bị xâm lăng rồi! Tôi phải làm gì bây giờ?
Bruce gỡ ra và cùng Almsbury tiến ra cầu thang. Chàng đáp gọn:
- Tôi khuyên bà nên rời khỏi Luân Đôn ngay. Lại đây Amber, tôi muốn trao đổi với cô một chút.
Họ bước nhanh, gót ủng nện vang trên bậc thang. Nỗi kinh hoàng ban đầu đã dịu xuống, tiếng trống, chuông, tiếng người kêu mỗi lúc càng cảm thấy tai họa đang đè nặng.
“Anh ấy không thể đi! Bruce không thể đi!” cô nghĩ.
- Almsbury phu nhân sẽ đi Barberry Hill, mọi việc đã được thu xếp ổn thỏa. Em và hai con cùng đi với phu nhân. Em khỏi lo bất kỳ việc gì xảy ra cho anh. Em có đồng ý viết thư cho vợ anh, nếu anh bị giết…? - Bruce nói.
Ngựa đã đóng yên cương, đuốc sáng rực, nơi nơi vang lên tiếng người kêu, ngựa hí, chó sủa. Almsbury nhảy lên ngựa, Bruce còn chần chừ dừng lại nhìn vào đáy mắt Amber:
- Em có đồng ý vậy không?
Giọng Amber nấc lên:
- Vâng… anh yêu!… Nhưng nhất thiết anh phải thận trọng, không được để xảy ra chuyện gì, không được để bị thương.
- Tất nhiên rồi. Em yêu!
Chàng cúi xuống, ôm lấy cô… hai người không muốn rời nhau… Chàng nhảy lên ngựa cùng Almsbury ra khỏi sân, lúc vượt qua hàng rào, Bruce còn quay lại vẫy tay vĩnh biệt… Amber nghẹn ngào, lao về phía chàng, nhưng họ đã biến vào đêm tối, cô chỉ còn nghe tiếng vó ngựa xa dần… Trong căn nhà đang diễn ra cảnh hoảng loạn, bọn đầy tớ khuân đồ đạc chất đống ngoài sân, những người đàn bà miệng kêu khóc ầm ĩ, nhiều người vác hành lý chạy vào các phố.
Amber vội vàng xốc váy leo nhanh lên cầu thang, vấp vào các bậc, đến nhà trẻ mắt cô nhòa lệ. Các cửa nhà trẻ mở toang, hàng chục người hốt hoảng chạy tứ tung. Emily bình tĩnh và tự chủ giúp mọi người và lũ trẻ mặc quần áo.
Bé Bruce mặc quần áo xong, nhìn thấy mẹ, cậu chạy tới. Cô quỳ xuống ôm lấy con khóc nức nở. Cô khóc như để trút những lo lắng, phiền muộn hơn là vì con, vì cậu bé tỏ ra vững vàng và can đảm.
- Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nữa! Bọn Hòa Lan khốn kiếp ấy chẳng bao giờ dám đến đây đâu! Có ba con đang đi đánh chúng!
Nhưng Susanna khóc thét, chân đạp vào người vú đang tìm cách mặc quần áo cho nó, bàn tay áp chặt vào tai để khỏi nghe thấy tiếng trống. Ngay lúc đó thấy mẹ và anh mình, nó thét lên:
- Mẹ!
Amber chạy lại phía con, bé Bruce đi bên cạnh như để bảo vệ mẹ.
- Con ơi, phải để cho Harmon mặc quần áo cho chứ! Tại sao con khóc? Không nên thế. Đây này, mẹ có khóc đâu!
Amber nhìn con gái, nhưng cặp mắt cô đỏ ngầu và mí mắt cô mọng lên. Susanna vòng hai tay, ôm lấy cổ mẹ và càng thét to hơn. Amber sốt ruột lay con:
- Susanna! - em bé lùi lại và nhìn mẹ ngạc nhiên, miệng há hốc - Không được thét lên như vậy nữa! Không ai làm gì con đâu! Mặc quần áo nhanh lên. Chúng ta sẽ lên xe đi chơi!
- Con không thích đi chơi đâu! Trời tối lắm!
Amber liền quay lại:
- Không sao cả! Thế nào con cũng phải đi. Mặc quần áo vào, không mẹ đánh đòn bây giờ!
Rời Susanna, Amber đi qua phòng, đến chỗ Emily đang lo cho bốn đứa con, phu nhân đang thắt cavát cho đứa con trai sáu tuổi.
- Emily! Em không đi với bà đâu!
Almsbury phu nhân nhìn cô kinh ngạc và đứng lên:
- Tại sao thế. Ôi! Amber, chúng ta cần phải đi cả. Nếu bọn Hòa Lan và bọn Pháp tới đây!
- Chúng vẫn còn chưa tới đây, và em không muốn về nông thôn vì ở đấy em sẽ không được biết tin gì về Bruce. Nếu chàng bị thương, cần phải có em.
- Nhưng ngài Carlton đã bảo bà phải đi rồi kia mà!
- Không cần! Em sẽ không đi đâu. Nhưng em muốn cho Susanna và Bruce đi, bà vui lòng cho chúng cùng đi. Cả Nan nữa?
- Tất nhiên! Nhưng tôi thấy bà ở lại là nguy hiểm lắm. Ngài Carlton muốn bà phải đi, cả hai ông đã thảo luận với John nhiều lần về kế hoạch khi bị tấn công…
- Ở đây em thấy cũng đủ an ninh rồi. Nếu quân thù tới em sẽ vào Whitehall. Chúng không dám tấn công Cung điện đâu. Em sẽ quản lý nhà cửa cho bà, đưa cho em chìa khóa phòng an toàn, em sẽ bỏ vào đấy những đồ quý giá.
Nan chạy đến:
- Trời ơi! Em tìm bà khắp nơi! Bà về nhanh mặc quần áo. Chúng đã gần lắm rồi, em đã nghe rõ tiếng đại bác.
Chiếc áo Nan mặc bị nhàu nát, tóc xổ tung, chân không đi bít tất. Chị nắm lấy tay Amber lôi đi. Họ đi qua hành lang ồn ào đầy người, Amber buộc phải kêu to mới nghe được:
- Nan, chị không đi đâu! Còn em sẽ đi cùng với Almsbury phu nhân, chị vừa mới nói với phu nhân…
Nan kêu lên kinh ngạc. Theo chị ta biết, thì quân Pháp hiện giờ đã đổ bộ và hạm đội Hòa Lan đã bỏ neo ở cửa sông.
- Ôi! Thưa bà, không thể làm thế được! Bà không thể ở lại đây. Chúng sẽ xâu vào lưỡi kiếm tất cả những ai chúng gặp! Chúng sẽ mổ bụng, móc mắt…
- Lạy đức Mẹ linh thiêng! Phải chăng đây là thảm họa ghê gớm nhất từ trước đến nay!…
Tiếng bà Stanhope rên rỉ, lúc này bà ta đã mặc quần áo, nhưng rõ ràng là rất vội vàng, theo sau có hai nữ hầu phòng ôm đầy những túi và hộp.
- Bây giờ tôi đi ngay về Ridgeway đây! Tôi đã biết ngay là không nên rời bỏ nông thôn! Cái thành phố kinh khủng này, bao giờ cũng có vấn đề xảy ra! Gerald đâu?
- Tôi không biết. Đi ngay đi Nan, Almsbury phu nhân đang đợi đấy. - Amber quay sang phía mẹ chồng - Trong thời gian gần đây, tôi không thấy ông ấy đâu cả.
- Không gặp! Nhưng Trời ơi! Vậy nó đi đâu? Nó nói với tôi là tối nào nó cũng về ngủ với bà! - Cặp mắt bà ta đột nhiên đanh lại, nhìn Amber với vẻ xấu xa và quỷ quái. - Cách đây vài phút, phải chăng là ngài Carlton đã ở trong phòng bà đi ra?
Amber sốt ruột, xoay người đi qua hành lang tiến về phía buồng mình:
- Rồi sao nữa?
Bà mẹ chồng đứng lặng đi vài giây, sững sờ vì cái đòn bất ngờ rồi bà chạy theo Amber, thét vào tai con dâu:
- Cái đồ vô liêm sỉ, mi dám nói là ngài Carlton một mình trong phòng của mi, vào một cái giờ mà không một người đàn bà lương thiện nào lại ở một mình với một người đàn ông không phải là chồng mình? Mi dám cả gan cho con trai tao mọc sừng à? Trả lời đi, đồ mất dạy!
Bà Stanhope nắm lấy cánh tay Amber định giữ cô lại.
- Này con quỷ già, đừng có mà mó vào người tôi! Phải, tôi ở với ngài Carlton và mặc cho toàn thế giới biết vậy! Bà cũng sẽ rất sung sướng nếu được ngủ với ngài ấy, chỉ cần ngài nhìn bà. Đi mà tìm thằng quái Gerald, và xéo đi cho khuất mắt tôi!…
- Sao! Con hỗn láo kia! Đồ hèn mạt! Cứ đợi đấy để con trai tao nó biết việc này! Cứ đợi đấy, để tao dạy cho nó…
Amber đã bỏ đi, mặc cho bà mẹ chồng tha hồ mà cằn nhằn ở giữa hành lang. Bà Stanhope lưỡng lự một lát, tự hỏi không biết có nên đi theo con dâu để cho nó một bài học hay nên đi tìm nơi an toàn. “Sau này ta sẽ tìm nó!” Bà ta nhìn Amber đã đi xa và lẩm bẩm:
- Đồ con đĩ!
Rồi bà gọi những người hầu và đi xuống cầu thang.
Amber, chiếc măng tô vắt trên bộ áo ngủ, đi ra sân xem các con khởi hành. Emily và Nan lại một lần nữa đề nghị cô cùng đi, nhưng cô từ chối, nói rằng ở lại Luân Đôn cô sẽ được an toàn. Cô không còn sợ hãi nữa, tiếng trống, tiếng ồn ào náo động, sự bất ngờ như tiếp năng lượng mới cho cô.
Trẻ con đều tập trung vào trong một xe cùng với hai người vú, Susanna đã bắt đầu chơi. Amber ôm hôn cả hai con:
- Bruce, con sẽ chăm sóc em con nhé! Đừng để em một mình nó sẽ sợ đấy!
Susanna lại bắt đầu khóc khi em biết tin mẹ không đi cùng. Em đứng lên ghế, hai bàn tay áp vào cửa kính lúc cỗ xe đi ra khỏi sân. Amber giơ tay ra vẫy rồi vào trong nhà, vì còn có nhiều việc cần phải làm.
Suốt đêm cô không ăn gì và cứ đứng để chỉ huy việc khiêng vác các đồ quý đưa vào phòng an toàn. Bộ bát chén bằng vàng, bạc của Almsbury, bộ đồ bằng thiếc mà vua Charles I đã ban cho bố Almsbury khi ông cho đúc chảy các đĩa bát để đóng góp vào cuộc chiến tranh, những đồ nữ trang của Almsbury phu nhân và của cô, tất cả đều được cất giấu trong hầm bí mật. Rồi, sau khi đã nằm nghỉ vài giờ, Amber ăn bữa điểm tâm và đi vào Cung điện. Trên suốt dọc Strand có những dãy dài xe ngựa, xe bò đẩy người đi tị nạn về nông thôn mong tìm được một chốn an thân. Trong sân triều đình chật ních những đoàn người. Nhiều nhóm tụ tập khắp nơi, những người nghe thấy tiếng đại bác, nói chuyện đến cuộc xâm lăng, đến ý định của họ muốn rút tiền ra, muốn giấu của cải và làm di chúc. Vài quan triều đình đã từng là trong số những người tình nguyện đi Chatham với Albemarle hoặc đi Woolwich với hoàng thân Rupert, chính mấy trăm người đó là tất cả những hi vọng của nước Anh dựa vào.
Dinh thự của hoàng hậu đầy người, ồn ào. Hoàng hậu Catherine đang quạt, cố làm ra vẻ bình tĩnh, nhưng cặp mắt đen vẻ lo âu của Người biểu lộ nỗi lo lắng trong lòng. Amber lại gần hoàng hậu:
- Bệ hạ có tin tức gì không? Bọn chúng đã đến gần chưa?
- Người ta nói là quân Pháp đã tới Mounts Bay.
- Nhưng chúng không thể tới đây được, có phải không ạ? Chúng không dám đến?
Hoàng hậu nhún vai, khẽ mỉm cười:
- Chúng ta cũng không hề nghĩ là chúng có dám đến không! Phần lớn các bà ấy đã rời bỏ thành phố, bà cũng nên làm như vậy. Than ôi! Tôi sợ là chúng ta không chuẩn bị chút nào cho việc xảy đến.
Đột nhiên hai người nghe thấy giọng nói to trong trẻo của bà Castlemaine với bà Southesk và bà Bab May cách đó vài bước:
- Có kẻ sẽ phải trả giá việc này, các bà cứ tin như thế! Mọi người đang như điên! Họ ngả cây cối ở Clarendon, đập vỡ cửa kính nhà mình và biểu lộ rõ rệt tình cảm ngoài hàng rào! Và nhận được những lời cảnh cáo: Dunkerque, Tangier, và một hoàng hậu không sinh đẻ! Họ nói như vậy.
Bà Southesk ra hiệu cho bà ta im, Barbara nhìn ra xung quanh rồi đưa tay lên che miệng với vẻ lo sợ. Nhưng cặp mắt long lanh của bà tỏ rõ ý muốn người ta nghe thấy. Mắt hoàng hậu trừng trừng, lên án câu nói đó. Barbara nhún vai tỏ ý không sợ và ra hiệu cho Bab May. Cả hai bỏ đi. Amber nghĩ bụng: “Đồ chó má vô lương tâm! Ta chỉ muốn nhổ tóc chúng đi!”
Còn hoàng hậu Catherine, hai bàn tay run run xoắn chặt vào chiếc cán cái quạt, lẩm bẩm:
- Một hoàng hậu không sinh đẻ! Sao mà chúng căm ghét ta thế! - ngước lên, Người thấy Amber đứng trước mặt - Ta cũng căm ghét bản thân ta!
Amber cảm thấy xấu hổ, tự hỏi không hiểu hoàng hậu có biết cô có mang với vua không. Cô xúc động, nắm chặt lấy bàn tay hoàng hậu và mỉm cười, cô như trút được gánh nặng thấy bà Boynton uể oải và điệu bộ chạy đến, vừa quạt vừa như muốn ngất xỉu:
- Trời ơi! Tâu hoàng hậu! Chúng ta thua trận rồi! Tôi vừa mới được tin quân Pháp đã vào đến các đập ở Dover và chuẩn bị đổ bộ!
- Sao! - Một bà bên cạnh than thở. - Quân Pháp đã đổ bộ rồi à? Trời ơi!
Nói rồi bà ta lao ra ngoài. Tiếng đồn lan nhanh, chỉ trong một thoáng căn phòng đã chật những con người, đàn ông, đàn bà chen chúc nhau hoảng sợ.
Những lời đồn đều là tin vịt. Sau những cuộc thương thuyết dài, quân Hòa Lan đã rút lui khỏi cửa sông. Quân Anh đã tỏ ra bớt khó khăn về một số mặt, cuộc thương thuyết có những tiến bộ đáng kể.
Cùng với tất cả những người tình nguyện, Bruce và Almsbury trở về Luân Đôn, da sạm nắng, râu tua tủa, rất khích động về cuộc phiêu lưu vừa qua. Nhưng Amber hoảng hốt khi thấy vai phải của Bruce băng bó máu còn chảy, cô khóc nức nở.
Chàng ôm cô vào lòng như đứa em nhỏ, vuốt ve tóc và hôn lên cặp má ướt đẫm của cô.
- Nào em yêu! Ra quái gì những việc này! Lắm khi anh còn bị thương nặng hơn nhiều!
Nép vào người chàng thổn thức, cô không thể và không muốn nín khóc:
- Ôi! Bruce! Anh có thể bị giết chết! Em sợ quá…
Chàng ôm cô trong vòng tay và bế cô lên cầu thang:
- Sao mà em cứng đầu cứng cổ thế! Anh đã bảo em phải rời khỏi Luân Đôn rồi kia mà! Nếu bọn Hòa Lan muốn, chúng có thể xâm chiếm cả nước ta, ta không thể nào ngăn cản được…
Ngồi trên giường, Amber mài giũa các móng tay, trong lúc chờ đợi Bruce viết xong bức thư gửi cho người quản gia của chàng ở bên Mỹ.
Chàng nói tự nhiên như vô tình:
- Khi nào anh trở về bên kia, anh muốn mang theo Bruce.
Amber hốt hoảng nhìn chàng. Chàng đứng lên, cởi bỏ áo ngủ, lúc chàng cúi xuống để thổi tắt ngọn nến độc nhất, Amber thấy rõ bộ mặt chàng lờ mờ trong bóng tối. Hai mắt nửa nhắm, chàng quan sát cô trong khi nói. Cô né sang một bên để chỗ cho chàng nằm xuống bên cạnh.
Trong mấy phút lặng yên, hai mắt cô mở trừng trừng trong đêm tối, Bruce bình tĩnh chờ đợi. Sau cùng chàng nói:
- Em không đồng ý à?
- Tất nhiên là không. Nó là con em có phải không? Anh tưởng là em muốn gửi nó sang bên ấy cho một người đàn bà khác nuôi dạy và nó sẽ hoàn toàn quên mất em sao? Em không muốn thế! Và em sẽ không để cho nó đi. Nó là của em và sẽ ở lại đây với em. Em không muốn để cho nó bị nuôi dạy bởi người… người đàn bà mà anh đã lấy làm vợ.
- Em có nghĩ đến tương lai của con không?
Trời tối quá, cô không sao quan sát được khuôn mặt của chàng, nhưng giọng nói của chàng bình thản và rõ ràng. Cô buộc lòng phải thú nhận:
- Không. Tất nhiên là không. Tại sao em phải nghĩ đến đấy? Con nó mới có sáu tuổi.
- Nhưng không phải nó cứ thế mãi. Em sẽ làm gì khi nó bắt đầu lớn? Em sẽ nói thế nào với con về bố nó? Nếu anh đi và nó không trông thấy anh trong nhiều năm liền, nó sẽ quên không còn biết có anh nữa. Em sẽ đặt cho con tên họ nào? Đối với Susanna lại khác, nó đã xem như con của Dangerfield và có một tên họ. Nhưng Bruce thì không có, trừ phi anh cho nó họ tên của anh, và anh không thể làm thế được chừng nào nó còn ở với em. Amber, anh biết là em yêu con lắm. Bây giờ em đã giàu có rồi và em lại có những đặc ân của vua; có thể một ngày kia em sẽ xin được cho nó một tước vị. Nhưng nếu nó đi với anh, nó sẽ là thừa kế của anh, và sẽ không bao giờ biết nỗi nhục nhã của một đứa con hoang.
- Xét cho đủ lẽ thì nó vẫn là một đứa con hoang! - Amber bực tức kêu lên. - Anh không thể nào làm cho nó thành một nam tước được.
- Nó sẽ không sống bên Anh. Ở bên kia, vấn đề đó không quan trọng. Dù sao ở bên ấy nó vẫn hơn, một khi mà ở đây mọi người đều biết cả.
- Thế còn vợ anh? Người ta sẽ tưởng tượng anh ta lôi nó ở đâu ra? Từ một hòn đá tảng chắc?
- Anh đã nói với vợ anh là anh đã có lần lấy vợ. Và vợ anh mong chờ anh mang con về.
- Thật thế hả? Anh tin vợ anh gớm nhỉ? Và người ta vui lòng trở thành mẹ nó chứ? - Amber đột nhiên dừng lại rồi đau khổ tiếp - Anh đã bảo người ta là em chết rồi phải không?
Chàng không trả lời, cô kêu lên:
- Trả lời em đi chứ?
- Phải, tất nhiên là thế. Anh còn có thể nói gì khác được? Rằng anh hai vợ à? Thế nào, Amber? Anh sẽ không đưa nó đi trái ý em đâu. Tùy em quyết định. Nhưng em cũng nên nghĩ đến cho con một chút…
Amber bị xúc phạm và tức giận nghĩ đến con mình bị gửi đi xa, giao cho một người phụ nữ khác chăm sóc, trong một xứ sở mà ở đấy nó lớn lên xa mẹ nó, không gì nhắc cho nó nhớ đến mình; trong mấy ngày liền cô không chịu đề cập đến vấn đề đó nữa. Và Bruce cũng im lặng.
Một buổi sáng, cô đang dạo chơi với con trai, đợi Bruce về mang nó đi chèo thuyền. Hôm đó là một ngày tháng Bảy đẹp trời, hơi nước đọng bốc lên từ các lối đi mà những người làm vườn vừa mới tưới. Các cây bồ đề đang nở hoa, đàn ong vo ve xung quanh. Con chó chạy trước đánh hơi khắp nơi, đôi tai của nó bẩn vì vừa bị nhúng vào máng nước kéo lê khắp nơi trên đất cát.
Một người làm vườn đưa tặng hai mẹ con mỗi người một quả táo chín mọng, toát lên mùi rượu. Bỗng nhiên Amber hỏi con trai:
- Bruce này, khi nào bố ra đi, con có nhớ bố lắm không?
Cô đọc thấy trong nụ cười đăm chiêu của con, lo lắng và căng thẳng chờ đợi con trả lời.
- Có chứ, mẹ ạ! Con nhớ ba lắm! - Cậu bé lưỡng lự một lát rồi nói thêm - Mẹ không nhớ ba à?
Bị bất ngờ, nước mắt Amber trào ra, cô vội quay mặt đi làm ra vẻ đang tập trung chú ý vào một nụ hoa hồng vừa hé nở dưới chân tường. Cô giơ tay ra hái.
- Tất nhiên là có chứ! Nhưng con thử nghĩ… thử nghĩ… con có muốn ra đi với ba không?
Cậu bé ngước mắt lên nhìn mẹ có vẻ hoàn toàn không tin, rồi nắm lấy tay mẹ, cậu nói:
- Ôi! Có được không hả mẹ? Con có đi được không?
Amber nhìn con, cô không thể giấu được nỗi thất vọng, bộ mặt của con trai lộ vẻ sung sướng làm cô cảm thấy thế là hết.
- Có chứ! Nếu con muốn. Con có muốn không?
- Ồ! Có chứ, mẹ ạ! Con thích lắm! Mẹ cho con đi nhé!
- Nhưng con muốn đi và để mẹ ở lại một mình à?
Biết nói như thế là không tốt, nhưng cô không thể đừng được. Như cô chờ mong, vẻ vui thích của cậu bé liền biến thành một mối ân hận. Im lặng một lúc, bỗng nhiên cậu lại mỉm cười:
- Vậy thì mẹ sẽ cùng đi với con. Thế là chúng ta cùng nhau đoàn tụ.
Amber âu yếm vuốt tóc con:
- Con ạ! Mẹ không thể đi được. Mẹ cần phải ở lại đây! - Nước mắt cô lại trào ra - con không thể cùng ở với cả hai: ba và mẹ được…
Cậu bé âu yếm nắm lấy bàn tay mẹ:
- Đừng khóc nữa mẹ ạ! Con không muốn ra đi không có mẹ. Con sẽ nói với ba là… là con không thể đi được…
Amber tự trách mình. Cô vội nói:
- Lại đây, con! Ngồi xuống đây cạnh mẹ trên chiếc ghế dài này. Nghe kỹ mẹ nói đây, con! Ba muốn con đi với ba. Ba cần đến con ở bên ấy để giúp ba, có nhiều việc lắm! Mẹ muốn con ở lại với mẹ, nhưng mẹ thấy ba cần con hơn.
- Ôi! Có thật không mẹ? Thật như thế chứ?
Cặp mắt cậu bé lo lắng nhìn mẹ, nhưng cậu tỏ vẻ khoan khoái rõ rệt.
- Thật như thế đấy, con ạ!
Bruce Carlton đang đi về phía hai mẹ con trong lối đi giữa vườn. Thấy cha, cậu bé liền chạy ngay đến. Đối với cha, bao giờ cậu cũng có thái độ nghi lễ hơn đối với mẹ nhiều, cậu nghiêng mình trước mặt cha:
- Thưa ông, tôi đã quyết định đi châu Mỹ với ông. Nghe mẹ nói ông rất cần đến tôi ở bên ấy có phải không?
Thấy con nói có vẻ rất long trọng, Bruce cúi xuống nhìn con, rồi nhìn vào mắt Amber. Hai người nhìn nhau không nói. Bruce để bàn tay lên vai con rồi mỉm cười:
- Ba rất vui lòng thấy con đã quyết định đi theo ba.
Cả hai cha con cùng đi về phía Amber; cô đứng lên, mắt không rời Bruce. Chàng không nói một câu, nhưng cúi xuống, nhẹ nhàng ôm hôn cô, một cái hôn gần như của cặp vợ chồng.
Đầu tiên Amber có cảm giác đã hoàn thành một nhiệm vụ cao cả, không vụ lợi, cô muốn rằng Bruce cũng nghĩ như thế. Rồi hi vọng như bị tuột mất, cô nhận ra là vấn đề có đứa con bên cạnh nhắc nhở chàng luôn nhớ đến cô, quý hơn tất cả mọi thứ trên đời. Biết đâu vì thế mà cô không ngầm đánh bại được vợ chàng?
Hiệp ước Breda được ký kết, tin đó tới Whitehall vào cuối tháng. Bruce giương buồm vào lúc thủy triều lên ngày hôm sau. Amber xuống tận bến tàu, quyết định để cho hai cha con giữ được một ý nghĩ tốt về mình. Nhưng lúc cô cúi xuống để hôn con, cổ họng se lại làm cô rất đau. Bruce nắm lấy cánh tay dìu cô đứng lên, cái thai mang trong bụng bắt đầu làm cô cử động khó khăn. Cô van nài chàng:
- Đừng để cho con quên em, anh Bruce!
- Mẹ ơi! Con không quên mẹ đâu! Và rồi con sẽ cùng ba trở về thăm mẹ, ba đã bảo thế, phải không ba?
Cậu nhìn cha để có được lời xác nhận.
- Đúng thế, con ạ! Chúng ta sẽ trở lại. Ba hứa với con thế!
Chàng rất nôn nóng, chỉ muốn được lên tàu đi ngay vì rất sợ cảnh tiễn biệt.
- Amber, muộn lắm rồi đấy!
Cô khẽ kêu lên hãi hùng, giơ tay lên quàng lấy cổ chàng. Bruce cúi xuống, môi họ gặp nhau. Amber tuyệt vọng, nép sát vào người chàng, chẳng cần quan tâm đến đám đông đang vây quanh tò mò nhìn cặp nam nữ lịch sự và cậu bé đang bình tĩnh quan sát họ. Than ôi! Cái giây phút mà chỉ mới hôm qua cô còn tưởng là không phải thực. Bây giờ đã xảy ra, nỗi thất vọng mênh mông tràn ngập lòng cô. Đột nhiên chàng nắm lấy hai cánh tay cô, gỡ mình ra, trước khi cô nhận thức được, Bruce và đứa con trai đã vượt qua cầu tàu. Con tàu chuyển động, rất từ từ, các cánh buồm kêu răng rắc và phồng lên trước gió, mọi người nhốn nháo. Cậu con trai ngả mũ ra làm dấu hiệu tạm biệt:
- Mẹ ơi! Con sẽ trở về!
Amber thét lên chạy dọc bến tàu, nhưng con tàu cứ xa dần. Bruce quay lại một lúc để ra các lệnh, đặt tay để lên vai con trai, chàng giơ cánh tay kia lên chào tạm biệt. Amber cũng muốn làm thế, nhưng vừa mới giơ lên tự nhiên bàn tay cô đã bịt chặt lấy miệng. Trong một lúc lâu cô cứ đứng như thế, buồn nản, thất vọng, cánh tay giơ lên chới với vẫy hai cha con một cách tuyệt vọng…