Chương 28
Họ quay lại con đường với những ngôi nhà san sát nhau ở viện điều dưỡng, sau khi đi vào một ngã rẽ, bà Moriyama dừng chân. Đó không phải là nơi tách biệt với tiệm tạp hóa.
Ở đó có không gian giống như khoảng sân giữa nhà, cỏ mọc lên khắp cả một mảnh đất. Bà Moriyama bước lên những viên đá lót đường, đi vào trong.
Trên bức tường của ngôi nhà hướng ra ngoài mặt đường có gắn bảng đề dòng chữ: “Lục Phong*”.
•
Lục Phong: ngọn gió đầu hè thổi qua những tán lá xanh.
Sentaro và Wakana đi theo sau bà Moriyama, băng ngang khu vườn. Hình như ở đây có bốn hộ gia đình vì những ô cửa sổ có cấu trúc hoàn toàn tương đồng nằm kế nhau với số lượng đó.
Có vẻ như phòng của Tokue nằm tận trong cùng. Bà Moriyama kéo ngang cửa sổ khung nhôm không khóa.
“Không có sảnh nhà nên vào từ hướng này cũng được. Bọn bà lúc nào cũng vào bằng cách này.”
Có lẽ người ta sử dụng lối này thay cho lối vào bên hiên nhà. Trong phòng có trải thảm xanh nhưng phần thảm tiếp xúc với gờ tường của bục vào phòng đã bị hao mòn, trở nên bạc trắng.
Bên cửa sổ có đặt một lồng chim quen thuộc. Thế nhưng, Marvy không ở trong đó.
Khi nhận ra điều này, Sentaro âm thầm nhìn qua Wakana. Wakana cũng nhìn về hướng lồng chim với đôi mắt long lanh.
“Nào, mời hai cháu vào.”
Đó là căn phòng khoảng cỡ tám chiếu tatami. Hình như bên trong có nhà bếp nên có thể nhìn thấy bồn nước và tủ lạnh.
Trần nhà có lót những tấm ván giống như gỗ phế liệu. Bức tường thạch cao đã ngả vàng, đâu đó nhuốm vết đen. Ở đó có một chiếc tủ nhiều ngăn. Một bàn viết. Có một chiếc hộp làm bằng ván ép xếp mấy quyển sách. Một chiếc tivi nhỏ. Hình như những đồ dùng khi ngủ đã được cất vào tủ, thứ anh nhìn thấy chỉ có bấy nhiêu.
“Tại đây… Bà Tokue đã qua đời ở đây phải không ạ?”
“Không phải đâu, giây phút cuối cùng là ở bệnh viện cháu ạ. Nhưng cũng có thể cho là như vậy. Mọi thứ đã rất vội vàng.”
Bị bà Moriyama hối thúc, Sentaro và Wakana cởi giày để trên bãi cỏ rồi bước vào phòng Tokue. Phía nhà bếp hơi tối nhưng ở gần cửa sổ thì nắng tràn vào.
Phía trên chiếc hộp bằng ván ép có đặt mấy khung hình dựng đứng.
“Đây là Toku và ông xã Yoshiaki.”
Trong lúc bàn tay tật nguyền cố gắng cầm nén nhang, bà Moriyama hướng mặt chỉ về bức hình.
“Bà Tokue… Đẹp quá.”
Wakana nói với chất giọng như nghẹt mũi.
Quả thật như vậy, Sentaro cũng nghĩ thế.
Tất cả đều là ảnh trắng đen. Có lẽ những bức ảnh đó là khi Tokue mới ở độ tuổi hai mươi. Bà để tóc theo kiểu thường thấy trong những thước phim xưa, nhưng khuôn mặt ấy lại tràn đầy sinh khí đến độ không thể hình dung được bà đang mắc bệnh. Dọc theo sống mũi và cả trong đôi mắt đều như chứa sức sống căng đầy. Giống hệt người thiếu nữ Sentaro đã gặp trong giấc mơ. Bà mỉm cười dịu dàng với người đàn ông đứng kế bên. Người đàn ông cũng cười lại hết cỡ với Tokue trẻ trung.
Theo những gì Sentaro đã được nghe, có thể thấy người chồng lớn tuổi hơn hẳn Tokue. Và cũng theo câu chuyện anh đã nghe, Sentaro có thể thấy dường như ở phần cổ hay đôi vai ấy, đâu đó lộ ra rằng đây là người mảnh khảnh, yếu ớt.
Tuy nhiên, có một điểm khác biệt so với câu chuyện của Tokue.
Trong ký ức của Sentaro, hình như Tokue đã nói chồng bà là người có dáng cao như cây cọ. Vậy nên từ đó đến giờ, Sentaro đã tưởng tượng ra người đàn ông có vóc dáng khá cao. Tuy nhiên, người đàn ông trong hình dù có cao hơn Tokue một chút, nhưng có thể thấy đó là chiều cao trung bình của một người Nhật.
Thế nhưng, đương nhiên đây chỉ là điều anh băn khoăn trong phút chốc. Suy nghĩ của Sentaro đã lập tức chuyển sang hướng khác. Tokue trong bức hình càng tràn đầy sinh khí bao nhiêu thì khi nghĩ đến nỗi cơ cực lớn lao cả hai vợ chồng phải chịu đựng sau này, lồng ngực Sentaro lại như trĩu nặng bấy nhiêu.
Sentaro và Wakana thắp nén nhang, hai người chắp tay trước đôi vợ chồng đang mỉm cười trong bức hình mấy chục năm về trước.
“Nếu cháu thích thì cứ lấy vài món đồ về đi, bà nghĩ bà ấy cũng vui lòng.”
Trong góc bếp có lò vi sóng nhỏ loại dùng cho gia đình, kế bên đó có hộp gỗ. Bên trong hộp nhét đầy dụng cụ chế biến bánh kẹo.
Nồi Sawari và sạn gỗ dùng để chế biến mứt đậu đỏ. Có cả xửng hấp bánh dùng để làm từ lúc mứt đậu đỏ còn nguyên hạt cho đến khi thành mứt đậu đỏ mịn. Găng tay mang khi đóng dấu bánh manju, khuôn đúc yokan*, xửng hấp bánh dango. Dụng cụ để làm các loại bánh tây cũng rất phong phú. Những chiếc bát với nhiều kích cỡ khác nhau xếp thành một chồng, khuôn đúc bánh torte và khuôn đúc bánh pound cake. Dao phết dùng để phủ lên bánh và đồ đánh trứng. Trong túi nhựa có tập hợp các dạng đui kim loại dùng cho túi bắt kem.
•
Yokan: là loại rau câu dày được làm từ mứt đậu đỏ, thạch và đường.
“Bọn bà cũng đang định nhận lại những đồ còn sử dụng được để xem như kỷ vật. Nhưng bây giờ mọi người đều lớn tuổi thế này rồi, những người nhận lại đồ như bà cũng có thể qua đời vào ngay ngày hôm sau ấy chứ…”
Đến đây, bà Moriyama nở một nụ cười xa vắng.
“Vậy nên, cậu chủ à. Bà nghĩ là nên trao lại đồ cho những người như cháu. Toàn bộ đồ đạc trong phòng đến cuối tháng này sẽ bị vứt đi. Rồi tất cả sẽ không còn nữa.”
Sentaro quỳ xuống bên hộp gỗ, anh với tay lấy những đồ chế biến bánh kẹo của Tokue. Ngay lúc đó, anh nhớ lại lời Tokue nói lúc bà mới đến tiệm Doraharu.
…Tôi đã luôn làm suốt đấy thôi. Cũng được năm mươi năm rồi…
Sentaro nhớ rất rõ ràng. Khoảnh khắc đó, dù chỉ ngắn ngủi trong phút chốc, anh đã thấy khuôn mặt Tokue dường như có vẻ tự hào.
Sentaro chạm nhẹ đầu ngón tay lên những dụng cụ.
“Đây là những món đồ đã lưu dấu thời gian bà nhỉ?”
Sentaro đưa cho bà Moriyama chiếc sạn gỗ cổ xưa.
“Thực sự, cháu nghĩ mọi người ở tổ chế biến bánh kẹo sử dụng những món đồ này chẳng phải sẽ tốt hơn sao ạ?”
Bà Moriyama lắc đầu.
“Tổ chế biến bánh kẹo ư? Đã mười năm nay nó gần như không hoạt động nữa rồi cháu ạ.”
“Ủa? Thật vậy hả bà?”
“Từ khi có thể ra khỏi nơi này, mọi người dễ có được món đồ mình khao khát. Ở siêu thị cũng có thể mua bánh cake mà, thế nên những dịp để mọi người tập hợp, cùng nhau làm đồ ngọt đã mất đi cháu à.”
Sentaro chỉ im lặng gật đầu.
“Toku lúc nào cũng là người đứng ở vị trí tiên phong, vậy nên chuyện thành như thế chắc bà ấy buồn lắm.”
“Bà Tokue lúc nào cũng muốn làm đồ ngọt bà nhỉ!”
“Ừm. Và…”
Bà Moriyama định nói điều gì nhưng đến đó thì bà ngưng bặt.
Sentaro xếp lại những dụng cụ trong hộp gỗ. Và anh dùng khăn để gói một số món.
“Cám ơn bà vì đã cho phép cháu sử dụng ạ.”
Không biết khi nào anh lại có thể đứng trước bàn nướng nữa đây. Đó là điều Sentaro hoàn toàn không dự đoán được. Thế nhưng, anh muốn để những món đồ này bên mình như là kỷ vật với người quá cố.
Khi Sentaro từ nhà bếp vào lại phòng, anh thấy bà Moriyama đã đặt một chiếc hộp thiếc đựng bánh quy lên bàn viết.
“Là cái này đây.”
Bà Moriyama mở nắp. Bên trong hiện ra xấp giấy viết thư.
“Trước khi Toku được chuyển đến bệnh viện, bà ấy đã giao lại cho bà lá thư này. Toku nói là ‘tôi có chuyện muốn xin lỗi cậu chủ, vậy nên nếu tôi không thể trở về, bà hãy gửi lá thư này giúp tôi nhé’.”
Khi nhận những tờ giấy viết thư trơ trọi, Sentaro và Wakana nhìn mặt nhau.
“Vẫn còn đang viết dở. Toku đã nói với bà như thế.”
Sentaro cầm lấy những tờ thư.
“Nếu được, xin cháu hãy đọc ở đây. Toku đã viết từng nét một trong phòng này, chắc hẳn bà ấy mất khá nhiều thời gian để viết.”
Sentaro gật đầu, anh mở giấy viết thư ra. Run rẩy và cẩn trọng, dù vậy từng nét vẫn cứ nhấp nhô như sóng biển, nét chữ đặc trưng ấy đang ở ngay trước mắt anh.
Thân gửi Tsujii Sentaro,
Chào cháu. Khi lá thư này gửi đến cháu, có lẽ trời đã bớt lạnh rồi nhỉ!
Vì bà cứ lặp đi lặp lại cách nói của người già suốt thôi nên đã định không viết thư cho cháu nữa, nhưng bệnh cảm cứ trở nặng thế này khiến bà thấy có chút bất an, không biết liệu có thể thực sự chờ đến khi gặp lại cậu chủ và Wakana được không. Và bà cũng có chuyện muốn xin lỗi cháu, thôi thì, dù sao cũng có một chuyện bà muốn nói cháu biết, vậy nên bà lại cầm bút.
Trước tiên là lời xin lỗi.
Bà đã hứa chăm sóc Marvy, thế nhưng sự thật là bà đã thả nó đi từ rất sớm. Khi nghe tiếng hót của Marvy, bà nhận ra nó đang nói rằng “Cháu muốn thoát khỏi đây!”. Bà đã do dự khi nhớ đến Wakana, nhưng với một người từng chịu đau khổ vì không thể ra ngoài được như bà, bà cảm thấy không có lý do gì để nhốt một loài sinh vật có đôi cánh trong chiếc lồng chật hẹp cả.
Có lẽ nếu không có bàn tay con người chăm sóc thì chú chim này không thể sống được, thế nhưng khi thấy Marvy cứ chăm chăm nhìn lên bầu trời xanh và liên tục khẩn cầu “Làm ơn cho cháu ra ngoài, làm ơn cho cháu ra ngoài,” bà thật không tài nào chịu nổi. Vì thế, bà đã thả cu cậu bay đi mất.
Hãy nói với Wakana là bà thật lòng xin lỗi.
Thời còn nhỏ, bà là đứa trẻ không có ước mơ gì đặc biệt kiểu như sau này muốn làm gì. Dù thế nào thì đó cũng là thời chiến mà, bà cảm giác như nỗi bất an mơ hồ không biết mình có thể sống đến khi nào còn lớn hơn cả suy nghĩ bản thân có muốn làm gì hay không.
Thế nhưng, khi mắc căn bệnh này, biết rằng mình không thể ra ngoài xã hội lần nào nữa, bà lại dần có ước mơ muốn làm gì đó, và bà cảm thấy hết sức khổ sở.
Đầu tiên, như bà đã từng nói với cháu trước đây, bà muốn trở thành giáo viên. Bà thích trẻ con, bà cũng thích học nữa. Thực tế, bà cũng đã học ở trường trong khuôn viên này, rồi khi trưởng thành bà cũng từng làm những buổi giống như giờ dạy học dành cho các trẻ bị bệnh ở đây.
Thế nhưng, tiếng nói sâu thẳm trong lòng là bà thực sự muốn ra bên ngoài dãy tường này. Bà muốn ra ngoài xã hội và thử làm việc thật đàng hoàng. Giống như mọi người hay nói, bà cũng muốn làm việc để cống hiến cho con người, cho xã hội.
Suy nghĩ này cứ theo bà suốt thôi. Nếu như còn bị bệnh thì bà không biết sẽ ra sao, thế nhưng ngay cả khi đã khỏi bệnh mà bà vẫn không thể ra ngoài khuôn viên này. Trong khi bà muốn làm việc đến thế, muốn trở thành người có ích cho đời đến thế thì hiện thực vẫn là cánh cổng này cứ đóng lại mãi, và bà được nuôi ăn bằng tiền thuế của những người trong xã hội.
Không biết bao lần bà đã có suy nghĩ muốn tự tử. Có lẽ vì trong thâm tâm, chắc hẳn bà đã nghĩ rằng con người không có ích cho xã hội thì cứ sống cũng vô dụng. Vì bà có đức tin rằng con người được sinh ra là để có ích cho con người, cho cuộc đời.
Tuy nhiên, không biết từ bao giờ và từ dịp nào, bà đã thay đổi suy nghĩ.
Lần bà còn nhớ rõ là khi một mình đi dạo trong khu rừng ở đây, khoảnh khắc nhìn trăng tròn sáng lấp lánh. Đó là dạo bà bắt đầu “lắng nghe” được tiếng xào xạc của cây cối, hay tiếng của côn trùng, tiếng chim.
Nhờ ánh trăng, mọi vật xung quanh phủ lớp sáng xanh bạc, cả cây cối cũng rung động như thể tự thân toát ra khí chất nào đó. Trên con đường trong khu rừng ấy, thật sự chỉ có mình bà và trăng đối diện nhau.
Bà đã nghĩ trăng đẹp làm sao. Say mê nhìn ánh trăng, vào lúc ấy bà quên đi những chuyện như bản thân mình đang chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, mình không thể ra ngoài khu cách ly này.
Ngay lúc đó, bà có cảm giác hình như quả thực mình đã nghe được gì đó. Dường như ánh trăng dịu dàng thì thầm với bà rằng:
‘Ta muốn cháu nhìn thấy ta.
Vậy nên ta đã tỏa sáng thế này đây.’
Từ khoảnh khắc đó, với bà mọi thứ dần trở nên khác biệt. Nếu không có bà, sẽ không có ánh trăng tròn hôm ấy. Cũng không có cây cối. Không có gió. Nếu mất đi điểm nhìn của bà, hẳn là mọi thứ bà đang nhìn cũng sẽ biến mất. Chuyện chỉ đơn giản thế thôi.
Tuy nhiên, nếu không phải chỉ có mình bà, nếu tất cả mọi người không còn nữa thì sẽ như thế nào? Và nếu không phải chỉ mỗi con người, nếu tất cả những sinh mệnh có khả năng cảm nhận sự vật trên đời này đều biến mất thì sẽ như thế nào?
Trong thế giới bình đẳng vô hạn ấy, tất cả mọi thứ sẽ biến mất.
Có lẽ cậu chủ sẽ cho rằng đây là suy nghĩ thật hoang tưởng tự đại.
Thế nhưng, cách suy nghĩ này đã khiến bà thay đổi.
Chúng ta được sinh ra là để quan sát, lắng nghe cuộc đời này. Thế giới này chỉ mong mỏi đến chừng ấy thôi. Nếu là như thế, dù bà không thể trở thành giáo viên, dù không thể trở thành người lao động, chắc chắn vẫn có ý nghĩa nào đó khi bà được sinh ra trong cuộc đời này.
Vì bệnh bà sớm được chữa khỏi nên không để lại di chứng nhiều đến mức gây chú ý, bà có thể ra ngoài. Bà thậm chí đã được nhận làm ở tiệm Doraharu. Bà nghĩ mình thật may mắn.
Tuy nhiên trong thế gian này, cũng có những đứa trẻ chào đời rồi chỉ sống vỏn vẹn khoảng hai năm là tuyệt mệnh. Và bà đã suy nghĩ, nếu thế thì trong nỗi bi ai của nhân gian, ý nghĩa của việc đứa bé đó được sinh ra là gì?
Bây giờ bà đã hiểu được. Việc đó chắc chắn là để bầu trời, gió, hay ngôn từ được thu nhận theo cảm giác của đứa bé ấy. Thế giới đứa bé cảm nhận cũng vì vậy mà được sinh ra. Vậy nên, đứa bé ấy cũng đã được sinh ra với ý nghĩa rõ ràng.
Với cách nghĩ tương tự như thế, những người dành phần lớn cuộc đời đấu tranh chống tại bệnh tật giống như chồng bà, hay nếu quan sát xung quanh sẽ thấy những sinh mệnh bất đắc dĩ cũng đành phải lìa đời trong tiếc nuối, tất cả đều có ý nghĩa khi được sinh ra. Vì thông qua những cuộc đời đó, bầu trời hay gió được cảm nhận.
Không chỉ những người đã bị căn bệnh Hansen hành hạ, bà cho rằng chắc chắn bất cứ ai cũng sẽ có lúc nghĩ mình sống trên đời này hẳn phải có một ý nghĩa nào đó.
Câu trả lời đó… rằng việc sống là có ý nghĩa, bây giờ bà đã hiểu thấu suốt.
Đương nhiên, nói thế không có nghĩa là những vấn đề trước mắt đã được giải quyết, cũng có lúc bà cảm thấy việc sống chỉ là những nỗi đau kéo dài triền miên.
Bà ấy mà, đã từng có lúc rất hạnh phúc. Đó là khi bọn bà giành chiến thắng trong cuộc phán xét, là khi luật giam cầm những người như bà được bãi bỏ, bà có thể tự do ra ngoài. Bởi vì đó chính là mục tiêu đã giúp mọi người cố gắng sống cả mấy chục năm qua.
Thế nhưng, niềm vui ấy lại trở thành mặt trái của nỗi buồn.
Có thể bước ra ngoài dãy tường đông thụ và đi dạo phố. Có thể đi xe buýt hay xe lửa. Thậm chí nếu muốn đi du lịch cũng có thể đi được. Những điều ấy lẽ đương nhiên là chuyện rất hạnh phúc. Bà không thể nào quên được khoảnh khắc có thể bước ra ngoài sau khoảng thời gian năm mươi năm. Mọi thứ đều như bừng sáng. Thế nhưng, trong lúc đi bộ bà đã nhận ra một điều. Dù có đi đến đâu bà cũng không thấy người quen biết, cả gia đình cũng không còn nữa. Dù có đi đến đâu, bà cũng cảm giác như chỉ mỗi mình đang lạc lõng giữa đất nước xa lạ.
Đã quá muộn rồi. Cái tuổi được trả tự do đã đến quá muộn rồi. Nếu được tự do sớm hơn tối thiểu là hai mươi năm, có lẽ bọn bà đã có thể xây dựng lại cuộc đời ở thế giới bên ngoài. Thế nhưng, khi đến tuổi sáu mươi, bảy mươi, dù người ta có nói là ‘vâng, bây giờ mọi người đi được rồi đấy’ thì với bọn bà đó cũng là điều không thể thực hiện được nữa rồi.
Niềm hạnh phúc khi được ra ngoài. Nó càng lớn chừng nào thì sự thật về thời gian đã mất, về cuộc đời không thể quay lại lần thứ hai càng trở thành nỗi đau có sức công kích mạnh mẽ. Cảm giác ấy, cháu hiểu không? Mọi người ở đây, đến lúc có thể ra ngoài và trở về đâu đó, tất cả đều đã thành những khuôn mặt mệt mỏi kiệt cùng. Đó không chỉ là sự mệt mỏi về mặt thể xác, bởi vì nỗi đau ấy tuyệt đối sẽ không bao giờ biến mất.
Thế nhưng, cũng chính vì vậy mà bà đã làm bánh kẹo. Làm đồ ngọt, rồi lại được những người chịu nhiều đau khổ ăn đồ ngọt mình làm. Và nhờ thế, bà đã có thể tiếp tục sống.
Cậu chủ à. Chắc chắn việc cháu sống trên đời này cũng có ý nghĩa nào đó.
Bà nghĩ rằng thời kỳ đau khổ cháu sống trong tù, hay cơ duyên làm bánh dorayaki, mọi thứ đều có ý nghĩa. Và dường như thông qua tất cả những cơ duyên đó, cháu được sống cuộc đời của mình. Rồi chắc chắn một lúc nào đó, sẽ đến ngày cháu có thể thốt lên rằng đây là cuộc đời của tôi. Dù cháu không trở thành nhà văn, hay không trở thành thợ làm bánh dorayaki, sẽ có ngày cháu bắt đầu lại mọi thứ theo cách của cháu.
Lần đầu tiên bà tình cờ trông thấy cậu chủ là vào ngày đi dạo mà bà đã quyết định một tuần dành một lần để thực hiện. Bà vừa đi bộ vừa say sưa ngắm nhìn dãy hoa anh đào của khu phố chợ ấy, thế rồi khi ngửi thấy mùi ngọt, bà đã phát hiện ra tiệm Doraharu.
Và sau đó bà nhìn thấy cậu chủ. Bà thấy khuôn mặt cháu.
Đôi mắt cháu trông có vẻ rất buồn. Ánh mắt ấy đã khiến bà nhìn cháu và rất muốn hỏi cháu rằng có chuyện gì khiến cháu đau khổ như thế. Đó là ánh mắt trước đây của bà. Đó là ánh mắt của bà khi phải chuẩn bị tâm lý cho việc mình không thể ra ngoài dãy tường đông thụ nữa. Và như thể bị một lực đẩy vô hình kéo đi, bà đã đứng trước tiệm lúc nào không hay.
Vào lúc ấy, bà nghĩ thế này. Nếu chồng bà không bị bắt triệt sản, và bà có con, cậu chủ à, chắc chắn con bà bây giờ cũng cỡ tuổi như cháu đấy.
Và từ đó, bà…
Từ nửa sau bức thư, những con chữ cứ to lên chóng vánh, cả hình dáng cũng xiêu vẹo. Và rồi bức thư bị cắt ngang ở đó.
Sentaro cứ cầm xấp thư trong tay, mắt nhắm lại. Chẳng ai nói điều gì, thời gian trôi qua mất một lúc.
Cuối cùng, người lên tiếng là Wakana. “Giá mà em có thể đến sớm hơn thì tốt biết mấy.”
Sentaro cúi đầu. Wakana mở túi xách mang theo, em lấy ra từ bên trong chiếc túi giấy. Và em nhẹ nhàng đặt nó trước tấm hình của Tokue. Túi giấy có thắt ruy băng đỏ.
“Cháu đã cất công mang tới đây rồi nên hãy mở ra, cho Toku được nhìn nhé.” Nghe bà Moriyama nói thế, Wakana gật đầu, ngón tay run run mở chiếc túi ra.
Bên trong là chiếc áo len trắng.
“Cháu không biết làm mấy việc như thêu thùa… nên đã mua cái này ạ. Nó không phải là đồ mắc tiền.”
Bà Moriyama ngồi xuống kế bên Wakana đang òa khóc. “Toku bây giờ chắc đang hạnh phúc lắm đấy cháu.”
Bà cầm áo len trong tay, trải dài hai tay áo ra cho Tokue trong hình nhìn thấy.
“Toku, tốt quá rồi bà nhỉ? Áo len mẹ đan cho bà đã được Wakana lấy lại rồi này.”
Bà Moriyama khẽ chạm vào đôi vai đang run rẩy của Wakana bằng những ngón tay cong.
“Wakana…”
Bà Moriyama không nói gì hơn thế. Bà chỉ tiếp tục vỗ nhẹ lên đôi vai Wakana.
“Wakana.”
Trong lúc cất tiếng gọi ấy, Sentaro cũng bật khóc.
“Cám ơn em nhé.”
Và cứ thế, cả ba người lặng lẽ chờ thời gian trôi qua một lúc lâu. Cho đến khi hơi thở lại nhịp đều, không ai nói điều gì.
Sentaro nhìn về khoảng sân bên ngoài.
Trong lúc mọi người khóc, hình như thời gian trôi qua nhanh như vó ngựa, không biết từ lúc nào ánh sáng đã bắt đầu nhuốm sắc đỏ thắm. Tia lấp lánh vẫn không ngừng nhảy nhót trên đầu ngọn cỏ. Sentaro dùng ngón tay lau quanh vùng mắt, anh nhìn vào lồng chim trống không. Ngay lúc đó, bà Moriyama cất tiếng:
“Toku, bà ấy định nói xin lỗi chuyện gì vậy nhỉ?”
“À, có phải là về chuyện chim hoàng yến không ạ?”
“Đúng vậy.”
Bà Moriyama kéo lê đầu gối đến gần Sentaro.
“Bà mới nhận áo len của cháu cách đây không lâu nên băn khoăn không biết nói chuyện này với cháu có được không, nó gọi là gì nhỉ? Ma…”
“Là Marvy ạ.” Wakana ngẩng đầu lên.
“Bà ấy đã tự quyết định thả Marvy đi mất. Không đợi đến khi bàn bạc với mọi người mà cứ thế thả nó đi. Phải giải thích với cháu thế nào đây, thật khổ quá đi mất.”
“Trong bức thư, bà Tokue cũng đã viết về chuyện này rồi ạ.”
Khi Sentaro nói thế, Wakana lắc đầu.
“Không sao đâu bà. Hình như Marvy cũng muốn bay đi.”
“Lúc đầu, Marvy đã bay quanh khu vườn này, hoặc là trên mái nhà ở đằng trước đấy. Nó cứ bay về đây để ăn.”
“Ủa?” Đôi má vẫn đang ướt, Wakana đột nhiên rướn cổ lên. “Nó bay được à bà, nhưng vốn dĩ nó đã không bay không giỏi lắm cơ mà.”
Bà Moriyama nghiêng đầu.
“Không có chuyện đó đâu cháu. Thậm chí cả bây giờ, lâu lâu cũng có thể thấy Marvy bay đây đó trên mái nhà đấy.”
“Nó đang bay hả bà? Marvy sao ạ?”
“Khá nhiều người cũng cho nó ăn đấy.”
“Thật ạ?” Từ lúc bước vào căn phòng này, lần đầu tiên khuôn mặt Wakana trở nên nhẹ nhõm.
“Nếu vậy chẳng phải là tốt quá sao.” Nghe Sentaro nói vậy, Wakana gật đầu thật mạnh.
“Có lẽ em đã chăm sóc nó thái quá rồi.”
Bà Moriyama đột nhiên cười khúc khích. “Nói thế này về người đã mất, hơn nữa, còn là người tụi cháu yêu mến thì có vẻ thừa thãi. Nhưng vì bà có sự tự tin của một người bạn thân nên mới dám nói với các cháu điều không mấy tốt đẹp này.”
“Vâng?”
“Toku cứ hay thích phóng đại mọi thứ.”
Hả?
Phóng đại?
“Lúc bà được giao lá thư này…” Bà Moriyama nhìn về xấp thư đặt kế bên áo len. “Bà không có ý định đọc đâu, nhưng vì chẳng để trong phong thư nên đã lỡ liếc thấy vài chữ. Cái gì mà trong thế giới này thì phải… Chuyện đó, hình như đã được viết ra.”
“Vâng ạ.”
“A, bà ấy lại nói thế nữa rồi. Chắc là bà ấy cũng dùng chữ ‘lắng nghe’ nhiều lắm phải không cháu?”
Sentaro gật đầu.
“Không phải bà nghĩ xấu gì đâu. Nhưng hễ có người quan tâm xuất hiện, thế nào Toku cũng sẽ đề cập mấy chuyện đó…*
•
“Xin đừng nghĩ xấu về tôi. Khi Toku gặp một người mà cô ấy thích, đó là điều cô ấy sẽ làm. Bảo họ lắng nghe giọng nói của adzuki, vân vân, vân vân. Và mặt trăng thì thầm với cô ấy như thế nào, v.v. '
“Nhưng, tôi…” Sentaro cắt ngang, “Tôi rất biết ơn vì bức thư đó. Rất nhiều nên tôi cũng muốn Wakana đọc nó sau. Nó có thể quá kịch tính nhưng nó giúp tôi rất nhiều. "
Wakana lại nhắm mắt. Vẫn mỉm cười, cô Moriyama nhìn họ. “Chúng ta đi dạo một chút nhé?” Cô nói, và đứng dậy.
"Chúng ta có thể trò chuyện với Toku."
“Với Tokue?” Wakana mở to mắt.