Chương 25
Ngày hôm đó trôi qua nhanh chóng. Susan và Tommy đã phải chịu đựng thêm nhiều lần kẹt xe và đổi tuyến do công trình xây dựng đang thi công để đến được Brooklyn chỉ để thấy căn hộ của Hooper trống không. Hai sĩ quan từ Cảnh sát bang New York đã gặp họ ở đó và xin phép được tiếp cận căn hộ ba tầng từ người quản lý. Họ gõ cửa nhà Hooper và xác nhận danh tính nhiều lần, nhưng đổi lại chỉ nhận được sự im lặng. Một trong các sĩ quan trèo ra lối thoát hiểm phía sau để nhìn qua cửa sổ. Căn nhà trống trơn. Họ kiểm tra ga-ra đối diện với tòa nhà. Không có xe. Dường như không ai biết Hooper Landsky đã đi đâu.
Bây giờ, họ đang ngồi trong văn phòng của Bernie Hayman, cách Manhattan khoảng ba mươi phút lái xe về phía bắc, ở White Plains. Bernie là một luật sư kinh doanh và gia đình hiện đang điều hành công ty một thành viên, không có nhân viên nào khác ngoại trừ một thư ký lớn tuổi đã gắn bó với ông hơn ba mươi năm. Không có những đồ chạm khắc tinh xảo, tủ sách bằng gỗ gụ hay bàn làm việc quá khổ được đánh bóng tỉ mỉ mà bạn có thể thấy ở những công ty lớn hơn, nhưng nó vẫn đủ đẹp dù nhỏ.
“Cliff Sturges và tôi là bạn thân thời đại học,” Bernie giải thích như thể đọc được suy nghĩ của Susan, giải thích làm thế nào mà một công ty nhỏ như vậy lại có thể giữ chân được một khách hàng lớn đến thế. “Tôi là người duy nhất mà ông ấy tin tưởng giao phó gia đình và tài sản. Khi ông ấy qua đời, Amanda vẫn chọn tôi ở bên. Tôi biết nó từ thuở mới lọt lòng. Con bé giống như gia đình của tôi vậy. Tôi biết chi tiết mọi kế hoạch và từng xu ra vào gia đình của họ cũng như quỹ của nó. Với người khác thì không có chuyện đó đâu. Có quá nhiều thứ cần học lại. Rất lãng phí thời gian, và thứ gì đó có thể rơi qua những kẽ hở. Vì vậy, tôi ở đây.”
Người đàn ông béo lùn mặc chiếc quần kaki màu nâu đen và một chiếc áo polo dài màu xanh lam. Ông bồn chồn nghịch chiếc đồng hồ trên cổ tay mình.
“Còn Randall thì sao?” Susan hỏi. “Ông có coi anh ấy là gia đình không?”
“Không. Randall là một người đàn ông tốt, nhưng cuộc hôn nhân của họ chóng vánh quá. Chúng tôi thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của anh ấy cho đến khi chuyển đến sống với Amanda.”
“Ông có điều tra về anh ấy trước đám cưới không?”
“Không, không có nhiều thông tin lắm. Chúng tôi đã kiểm tra lý lịch chung – cô biết đấy, báo cáo tín dụng và hồ sơ tội phạm. Mọi thứ đều ổn.”
“Amanda có biết ông đã kiểm tra không?”
“Không. Cô ấy sẽ không chấp thuận đâu, nhưng tôi cần chắc chắn rằng anh ta không bị truy nã hay gì đó. Tôi chắc rằng cô hiểu, với khối tài sản của nhà Sturges có thể bị đe dọa.”
“Có hợp đồng trước hôn nhân không?” Tommy hỏi.
Bernie gật đầu. “Có.”
“Và hợp đồng sẽ được thay thế bởi di chúc nếu Amanda chết?”
“Đúng.”
Susan đọc một vài ghi chú trong sổ. “Ông có biết Amanda đang ngoại tình không?”
Bernie nhìn xuống sàn. “Có. Nhưng đó không phải việc của tôi. Cô ấy làm gì với cuộc sống riêng tư là chuyện của cô ấy. Đó không phải là chuyện tôi có thể tham gia.”
“Ông từng gặp người tình của cô ấy chưa?” Tommy hỏi. “Hooper Landsky?”
“Chưa. Amanda thậm chí chưa bao giờ nói cho tôi biết tên của anh ta. Một ngày nọ, cô ấy ghé qua, không báo trước, và nói rằng cô ấy đang nghĩ đến việc ly hôn với Randall. Cô ấy giải thích rằng cô ấy đã gặp ai đó, và chỉ có thế. Sau đó, cô ấy hướng dẫn tôi soạn thảo giấy ly hôn và yêu cầu tôi gửi cho cô ấy kế hoạch viết lại di chúc. Cô đã loại Randall ra khỏi di chúc và cho anh ta một khoản tiền cấp dưỡng nhỏ trong mười lăm năm tiếp theo. Tốt hơn những gì đã có trong hợp đồng hôn nhân. Cô ấy không muốn tuyệt đường sống của anh ta.”
“Hãy nói về quyết định đột ngột đó,” Tommy nói. “Phút trước họ là một cặp vợ chồng rồi phút sau cô ấy quyết định ly hôn và đẩy anh ta ra khỏi di chúc? Điều đó có khiến ông ngạc nhiên không? Ông có biết vì sao Amanda lại định ly hôn Randall và điều chỉnh di chúc không?”
Bernie nhún vai. “Tất nhiên điều đó khiến tôi bất ngờ chứ, nhưng đám cưới của họ vốn dĩ đã gây ngỡ ngàng rồi. Amanda là thế. Hấp tấp và cũng rất dứt khoát. Khi quyết định việc gì đó, cô ấy làm ngay. Tôi không biết cô ấy đã nghĩ đến việc ly hôn Randall bao lâu rồi. Cô ấy chỉ yêu cầu tôi phác thảo một bản nháp. Tôi đã hỏi ý kiến một người bạn chuyên về ly hôn, và chúng tôi đã đưa ra bản phác thảo. Tôi đưa cho cô ấy bản di chúc đã được làm lại và giấy tờ ly hôn như cô ấy yêu cầu. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nói về chuyện đó. Cô ấy không bao giờ gọi cho tôi để yêu cầu tôi gửi file hay thực hiện bất kỳ thay đổi nào nữa, vì vậy tôi nghĩ cô ấy đã thay đổi ý định. Mà nhân tiện, chuyện đó cũng thường thôi mà.”
Susan ghi chú thêm, rồi ngẩng lên nhìn vị luật sư. “Tôi đã có mặt ở nghi lễ thức canh của Amanda. Tôi đã thấy cuộc trao đổi giữa ông và Randall. Chuyện gì đã xảy ra thế? Anh ấy trông có vẻ rất khó chịu.”
Bernie bắt đầu chuyển các chồng giấy tờ từ đầu này sang đầu kia của bàn làm việc. “Những gì chúng ta vừa nói liên quan đến những gì đã xảy ra. Randall tìm thấy các tài liệu nháp trong một chiếc két an toàn của Amanda. Anh ta tức giận vì tôi đã không nói cho anh ta điều đó. Hoàn toàn giận dữ. Đó là lý do tại sao tôi ở đây ngày hôm nay chứ không phải ở đám tang. Tôi không được chào đón. Chẳng vấn đề gì. Tôi sẽ đến thăm cô ấy sau. Hãy để anh ta có thời gian riêng với vợ của mình. Nếu anh ta không muốn tôi ở đó, tôi sẽ không can thiệp.”
“Ông có từng nghĩ nên cảnh báo Randall không?” Tommy hỏi. “Một cách kín đáo chẳng hạn?”
“Trên cương vị của tôi thì không” Bernie trả lời. “Tôi là luật sư tài sản của Amanda Brock. Tôi phải đặt lòng trung thành của mình ở đó. Tôi không có ý định vi phạm lời thề của mình hay bất kỳ luật nào, cảnh báo Randall rằng Amanda sẽ bỏ anh ta. Hơn nữa, cô ấy chưa từng làm gì với giấy tờ, vậy tại sao lại phải nháo nhào lên?”
Susan nhìn qua ô cửa sổ bám bụi sang phía tòa nhà bên cạnh. “Cho tôi hỏi ông vài điều nhé. Nếu di chúc không được thay đổi, và Amanda đã chết, vậy số tiền được phân bổ như thế nào?”
Bernie lục tìm đống giấy tờ bên cạnh ghế của mình và lấy ra một tập tài liệu màu nâu. Ông mở nó, lần ngón tay trên trang giấy. “Quỹ sẽ nhận được bảy mươi phần trăm tổng tài sản. Số còn lại là của Randall.”
“Là bao nhiêu?
Vị luật sư ngẩng đầu lên khỏi tập tài liệu. “Randall sẽ được khoản thừa kế khoảng ba mươi triệu đô-la.”