← Quay lại trang sách

Chương 35

Hai cảnh sát địa phương từ Sở Cảnh sát Bắc Salem là những người đầu tiên đến nhà Randall. Họ chạy ầm ầm trên đường lái xe, bật đèn cảnh báo, hú còi báo động, chỉ khoảng năm phút sau khi Susan gọi điện. Cô và Randall vẫn ở trong ga-ra, cả hai rùng mình vì từng cơn gió lạnh thổi vào. Các sĩ quan cảnh sát tiếp cận với vũ khí đã được rút ra cho đến khi Susan bảo họ cất súng đi. Sau khi mọi chuyện lắng xuống, các cảnh sát hộ tống Randall vào nhà cùng Susan. Một sĩ quan canh cửa trước trong khi người còn lại đứng ở cửa dẫn đến phòng tắm bùn. Susan và Randall mỗi người ngồi vào một ghế trong bàn ăn, đối diện nhau, tay để trên bàn, ánh mắt khóa chặt.

Một cảnh sát bang từ thị trấn Somers lân cận đến, đó cũng là lúc Randall xin phép được gọi điện cho luật sư của mình. Susan đồng ý, và viên cảnh sát này đi lấy điện thoại của Randall từ chiếc áo khoác bị rơi trong ga-ra.

Phải mất một giờ mới có lệnh khám nhà. Trong thời gian đó, Randall đã thực hiện các cuộc gọi cần thiết để thuê một luật sư giỏi xử lý những tình huống rủi ro cao. Anh ta đã gọi cho Bernie Hayman, nhưng Bernie không biết ai có đủ thẩm quyền hoặc có kinh nghiệm với tình huống như Randall đang trải qua – một luật sư biện hộ chuyên về lệnh khám xét và những cáo buộc giết người.

Động thái tiếp theo của Randall là gọi cho Wilbur Fitzgerald, chủ tịch quỹ Amanda. Tất nhiên anh ta có quen biết ai đó, và nhờ và các mối quan hệ của mình, Wilbur đã tìm được Sidney Windsor từ công ty luật Finn, Dystel & Rust. Susan biết công ty đó. Đó là một trong những tổ chức uy tín nhất cả nước chuyên biện hộ hình sự cho những khách hàng giàu có. Ông Windsor xuất hiện sau vài phút có lệnh khám.

Kế hoạch là lục soát căn nhà theo hình lưới, đi từng phòng, cẩn thận để không phá hủy những gì có thể là bằng chứng. Susan điều một đội nhỏ gồm bốn sĩ quan Bắc Salem lục soát bên trong theo từng phòng và ba cảnh sát bang ra ngoài đào khoảnh đất đáng ngờ kia.

Tommy đến ngay sau khi cuộc tìm kiếm bắt đầu. Anh đi thẳng ra sân sau và thậm chí còn không thông báo về sự có mặt của mình cho đến khi Susan nhắn tin cho anh, hỏi anh đang ở đâu. Anh không tìm ra bất cứ manh mối nào từ các camera giám sát ở Manhattan, cạnh đồn hay gần khu phố nơi cô ở. Chiếc Subaru và Hooper Landsky vẫn bặt vô âm tín.

Susan duỗi người trên ghế và lắc cổ. Sự im lặng trong phòng ăn thật nặng nề. Sidney Windsor ngồi bên phải Randall và hướng dẫn anh ta không được nói chuyện với bất kỳ sĩ quan cảnh sát nào về bất cứ điều gì. Thời gian trôi qua, sự yên tĩnh trở thành một thứ gây xao lãng.

“Anh có phiền nếu tôi hỏi khách hàng của anh một câu hỏi không?” Susan hỏi, ra hiệu cho Sidney. “Sự im lặng này kinh khủng quá.” Sidney Windsor là một luật sư cao cấp khuôn mẫu. Cao ráo, khoảng bốn mươi tuổi, làn da rám nắng dù đang giữa mùa đông. Anh ta mặc một bộ com-lê màu xám được may đo hoàn hảo và đôi giày Ý có khả năng đắt hơn tiền lương tuần của cảnh sát. Máy ghi âm kỹ thuật số được kích hoạt bằng giọng nói của anh ta được đặt trên bàn, đèn đỏ nhấp nháy, đề phòng ai đó cất tiếng.

“Tôi không nghĩ đó là một ý kiến hay,” anh ta trả lời.

“Thôi nào. Anh đã không ghi lại được gì suốt nửa giờ rồi. Một câu hỏi thôi.”

“Không.”

“Tôi có thể hỏi ở đây, hoặc ở đồn.”

“Chiến thuật hăm dọa à? Duyên dáng đấy.”

“Một câu hỏi.”

“Tốt thôi,” Sidney nói, điều chỉnh máy ghi âm. “Chỉ một nhé.”

Susan nhìn Randall. “Tiến sĩ Brock, anh có thể cho tôi biết anh đã ở đâu vào đêm qua không?”

Randall hắng giọng. “Tôi đã nói với cô rồi. Tôi ở nhà.”

“Thế sáng nay?”

“Tôi cũng đã nói với cô rồi. Tiến sĩ Reems và tôi có một buổi làm việc tại Đại học Quarim. Cho nghiên cứu chúng tôi đang theo đuổi.”

“Anh rời nhà đến trường lúc mấy giờ?”

“Khoảng bảy rưỡi. Buổi làm việc được lên kế hoạch vào chín giờ, kéo dài trong vòng một giờ. Sau đó, Tiến sĩ Reems và tôi thảo luận lại với nhau và nhập các ghi chú. Sau đó, tôi về nhà, và giờ chúng ta đang ở đây.”

“Có ai đến gặp anh tối qua không?”

“Không.”

“Anh có nói chuyện điện thoại với ai không?”

“Không!”

Sidney gõ đầu ngón tay xuống bàn ăn. “Nhiều hơn một câu rồi nhé.”

Susan phớt lờ anh ta. “Tại sao anh lại có chìa khóa xe hơi của Hooper Landsky?”

“Đừng trả lời câu hỏi đó.”

“Hooper Landsky ở đâu?”

“Đủ rồi, cô điều tra viên. Không được hỏi nữa.”

“Hooper có tham gia vào việc này không, hay anh đã làm gì đó với anh ta? Anh ta đang ở đâu, Randall? Nói cho tôi biết anh ta đang ở đâu.”

Sidney đập tay xuống bàn. “Đủ rồi đấy.”

Susan mỉm cười, chỉ tay về phía luật sư. “Tôi muốn hỏi khách hàng của anh tại sao anh ta lại sở hữu chìa khóa chiếc Subaru vào ngay sau ngày một chiếc Subaru Legacy màu hạt dẻ cố gắng ép sát xe của tôi trên đường đi làm về. Nhưng thay vào đó, anh có thể hỏi anh ta giúp tôi.”

“Tôi sẽ không làm điều đó.”

Randall lắp bắp. “Tôi... Tôi đã ở nhà. Ngủ. Tôi không biết gì về chiếc Subaru Legacy cả.”

“Đừng nói gì nữa,” Sidney nói. “Không được hé nửa lời.”

Có tiếng gõ cửa ngoài hiên. Susan quay lại. Một cảnh sát đứng đó, ra hiệu cho cô ra ngoài. Cô gật đầu và chỉ vào một trong những sĩ quan cảnh sát Bắc Salem, người đang ở giữa phòng ăn và nhà bếp. “Hãy để ý hai người này,” cô nói. “Không ai được rời khỏi bàn này.”

Khi bước ra hiện, Susan có cảm giác như thể nhiệt độ đã hạ xuống cả chục độ. Cô nhét hai tay vào túi áo và bước đến nơi các sĩ quan cảnh sát đang tụ tập. Tommy mặc một chiếc áo parka màu cam sáng với chiếc mũ được trùm lên đầu và buộc lại. Cô bật cười khi nhìn thấy cậu ta.

“Chiếc áo khiến cậu trông chẳng khác nào Oompa Loompa cả.”

“Nhưng ấm lắm. Đấy là ưu điểm của màu nóng mà.”

“Thế hả?”

“Khi đi trượt tuyết, tôi không bao giờ bị lạc giữa đám đông. Bạn bè luôn có thể tìm thấy tôi. Đội tuần tra trượt tuyết cũng vậy, nếu tình hình lộn xộn.”

“Hay đấy.” Cô di chuyển về phía chiếc hố. “Chuyện gì vậy?”

“Tôi nghĩ chúng ta tìm ra vật chứng của vụ án rồi.”

Susan vội bước xuống các bậc thềm và hòa vào nhóm các sĩ quan đang tụ tập quanh hố. Họ đã lấy ra hai món đồ từ dưới hố và cô biết chính xác chúng là gì ngay khi nhìn thấy. Thứ đầu tiên là một chiếc hộp kim loại nhỏ, không có gì đặc biệt nhưng có logo Mercedes ở trên. Đó là hệ thống bộ nhớ máy tính từ ô tô của Amanda. Vật còn lại là một khúc gỗ dài và phẳng, bị gãy ngay nửa trên. Băng keo đỏ và trắng dán quanh một đầu chạy cụm ĐẠI HỌC QUARIM nối tiếp nhau ở dải màu trắng. Đó là một cây gậy khúc côn cầu bãi cỏ bị gãy.

Họ đã tìm thấy hung khí.

“Cho chúng vào túi,” Susan nói. “Đưa bộ nhớ xe cho đội công nghệ của chúng ta ở Hawthorne, và xem liệu họ có thể lấy được gì từ nó không. Hy vọng bụi bẩn và nhiệt độ lạnh không làm hư hỏng gì. Tôi muốn biết Amanda Brock đã ở đâu vào đêm xảy ra vụ tai nạn. Gậy khúc côn cầu bãi cỏ sẽ được gửi đến bộ phận Pháp y hôm nay. Tôi muốn họ ưu tiên xử lý nó. Không chấp nhận bất cứ lý do thoái thác nào khác. Làm ngay đi.”

Các sĩ quan quay trở lại làm việc khi Susan leo lên cầu thang dẫn lên hiện. Cô bước vào bên trong, băng qua nhà bếp vào phòng ăn, lôi còng số tám từ một chiếc bao được buộc vào sau thắt lưng của mình.

“Randall Brock,” cô bắt đầu, “anh bị bắt vì tội giết Amanda Brock. Hãy đứng lên và đặt hai tay ra sau lưng.”

Sidney đứng bật dậy. “Thật quá đáng! Ý cô là gì?”

“Tôi không hiểu,” Randall lẩm bẩm. “Chuyện gì đang xảy ra vậy?”

“Chúng ta sẽ nói về chuyện đó ở đồn,” Susan trả lời.

“Chúng ta sẽ nói ngay bây giờ!” Sidney hét lên.

Susan đỡ Randall ra khỏi ghế và kéo vòng tay anh ta ra sau lưng, rồi nắm chặt cổ tay anh ta. “Anh Windsor, tôi khuyên anh nên bình tĩnh hoặc anh sẽ đi cùng khách hàng của mình thay vì đi sau anh ta. Chúng tôi đã tìm thấy thứ được chôn trong cái hố ngoài sân. Tôi hy vọng anh hiểu.” Cô dẫn Randall ra phía cửa trước. “Anh chắc có kinh nghiệm xử lý việc này.”