Chương 46
Khi hoàng hôn dần buông, Susan rẽ vào đại lộ Linden. Cô không định đến Queens, nhưng khi nhìn thấy lối ra của đường cao tốc Đảo Long sau khi rời khỏi nhà của Martin Corolla, cô nhận thấy mình đang ở gần nơi ở của Anderson và quyết định tạt qua xem thử. Cô biết hai đứa con của mình đang đợi cô về để cùng trang trí cây thông, vì vậy cô phải xử lý nhanh chóng, nhưng cô không muốn từ bỏ cơ hội kiểm tra hiện trường vụ án cũ khi có mặt gần đó.
Cô rẽ trái vào Đường 196 và đến khu phố ngoại ô Saint Albans rợp bóng cây của tầng lớp lao động. Những ngôi nhà hai bên đường san sát nhau, cách nhau chỉ bằng bề rộng của một làn xe. Cô dừng chân ga một lúc, nhìn vào những ngôi nhà khi lướt qua. Cô tiếp tục đi xuống Đường 196, lái qua Đường 118. Khi băng qua Đường 119, Susan nhìn thấy một người đưa thư đang đi bộ, chiếc túi quá khổ khiến anh ta nghiêng người khi bước đi, vội vàng trước khi trời quá tối.
Nhà Anderson là một ngôi nhà hai tầng hơi đổ nát, có màu xanh lam nhạt với viền và cửa chớp màu xanh nước biển. Một đường lái xe hẹp nằm bên trái của ngôi nhà và dẫn đến ở một ga-ra nằm riêng biệt ở phía sau. Lá rụng đầy sân trước. Những luống hoa chết hết cả. Con đường bê tông dẫn đến hiện trước cũng bằng bê tông đã nứt toác, cỏ dại mọc um tùm. Một trong số những ô cửa sổ trên tầng cao nhất đã vỡ và được che chắn tạm bằng một miếng nhựa đã rách, cho phép mọi yếu tố bên ngoài có thể lọt vào trong. Ngôi nhà đã bị bỏ hoang, không có người ở, mục nát vì tội lỗi của chính nó. Sau những gì đã xảy ra, không có gì ngạc nhiên khi không ai muốn sống ở đó.
Susan đỗ xe ở lề đường và ra khỏi xe. Cô bước lên đường lái xe và nhìn lén vào sau nhà. Trong sân, cỏ dại cũng mọc um tùm. Một bếp nướng than cũ kỹ nằm nghiêng, hoen gỉ. Cô đến gần cửa sau và có thể thấy nó dẫn vào căn bếp. Cô thử núm cửa và thấy nó hoàn toàn lỏng lẻo. Toàn bộ cơ chế khóa đã bị phá hỏng.
Thời gian như dừng lại trong căn bếp từ lâu. Bồn rửa nhỏ bằng thép không gỉ, mặt bàn formica trắng, khay đựng bát đĩa bằng nhựa màu xanh lam vẫn đầy ắp những bộ bát đĩa cuối cùng mà Rose Anderson từng rửa. Mùi nước thải nồng nặc sộc vào mũi Susan ngay khi cô bước vào. Một chiếc bàn formica và bốn chiếc ghế không ăn khớp vẫn nằm ở giữa phòng.
Thảm trong phòng khách ngổn ngang những mảnh vụn. Một căn phòng nhỏ ngoài nhà bếp chứa đầy những hộp giấy tờ, hóa đơn và tạp chí cũ. Có vẻ như căn phòng đã được sử dụng để lưu trữ và không có gì hơn. Mốc đen bám đầy tường như những con bọ hung ốm yếu cố vươn lên trần nhà. Susan quay vào bếp và mở một cánh cửa bên cạnh chiếc tủ lạnh mà cô nghĩ là nó dẫn xuống tầng hầm. Cô đã đúng.
Những bước đi cọt kẹt khi cô bước xuống bậc thang, sự ẩm ướt và nấm mốc ập đến cùng lúc. Cô lấy điện thoại từ trong túi ra và bật đèn pin, quét từ bên này sang bên kia khi cô bước lên sàn bê tông.
Các bức tường tầng hầm đã nứt. Những đường nứt dài, bám đầy mạng nhện kéo dài từ trên xuống. Lò hơi và máy nước nóng nằm ở góc xa. Một đường ống trên thùng dầu đã vỡ và lênh láng ra sàn tầng hầm cho đến khi đóng băng.
Susan đi về phía đối diện của căn phòng tối, cố gắng tưởng tượng xem Rose và Lily sẽ như thế nào khi bị mắc kẹt dưới đó hoặc Randall bị buộc phải làm những việc mà anh ta đã làm. Cô cảm thấy có chút thương cảm cho người đàn ông này. Anh ta đã phải chịu đựng quá nhiều. Nhưng cô cũng biết chính loại chấn thương đó có thể khiến ai đó bước qua bờ vực của sự tỉnh táo và không bao giờ quay trở lại. Cô nghĩ về cơ thể của Amanda nằm trong văn phòng giám định y khoa và nghĩ Randall phải chịu trách nhiệm là chuyện có lý. Nơi này đắm chìm trong cô độc, một kiểu hoang vắng đến tuyệt vọng. Cô có thể cảm thấy sự tuyệt vọng và vô vọng trong không khí. Không thể tưởng tượng nổi một phần của những gì đã xảy ra dưới đó. Nỗi đau. Nỗi sợ hãi. Sự tra tấn. Sự điên rồ.
Một tiếng động.
Susan nghe thấy tiếng lạch cạch từ phía cuối căn phòng. Cô đi về phía phát ra âm thanh, vòng qua giá đỡ đã được gắn chặt vào một trong những bức tường, tưởng tượng một con chuột đang chạy xung quanh nhưng vẫn nên cẩn thận vì có thể đó là một con gấu trúc hoặc thứ gì đó lớn hơn. Cô rút súng ra khỏi bao da để đề phòng trường hợp phải hạ gục một con thú hoang và quét đèn điện thoại trước mặt khi lại gần.
Cô có thể nhìn thấy tầng hầm nơi Gary Anderson đã xây bức tường giả. Các mảnh dầm và đinh tán kim loại vẫn được bắt chặt vào nền bê tông. Một phần đường ray bằng thép để trượt bức tường vào chỗ vẫn còn dính chặt dưới sàn. Cảnh sát đã loại bỏ mọi thứ khác sau cuộc đột kích. Cô bước qua đường ray và chiếu ánh sáng vào bên trong nơi từng là phòng tra tấn.
Các bức tường vẫn còn những lỗ hổng nơi những chiếc xích từng được gắn chặt vào. Trong góc là một lỗ thông hơi lớn bằng sắt nhô ra ngoài cửa sổ và cuộn tròn vào trần nhà, cuối cùng dẫn qua phần còn lại của ngôi nhà và qua mái nhà. Ở một đầu, một chuỗi crôm sáng bóng được gắn quanh ống thông hơi. Đầu kia được gắn vào cổ tay của một người đàn ông đang co rúm trong góc, đôi mắt mở to kinh hãi, miệng được bịt lại bằng một loại vải nào đó được buộc chặt vào đầu bằng băng keo đóng gói. Máu khô phủ đầy mặt anh ta vì vết thương ở đầu mà cô không thể nhìn thấy. Tóc anh ta bẩn và bạc màu. Anh ta mặc một chiếc áo sơ mi màu đen đỏ và quần đùi. Không có áo khoác hay chăn. Không có gì để giữ ấm. Anh ta rùng mình khi lùi vào góc xa hơn, những tiếng kêu bị bóp nghẹt phát ra từ cổ họng. Âm thanh cô nghe thấy là tiếng gót giày của người đàn ông cào vào đất.
Hooper Landsky.
Susan lao về phía anh và cúi xuống, tắt đèn để có thể dùng điện thoại. Cô đặt một tay lên vai anh ta khi cả hai cùng bị bóng tối nuốt chửng.
“Cố lên, anh Landsky,” cô nói. “Đội cứu trợ sẽ đến ngay.”
Cô gọi 911 và thông báo cho người điều hành rằng cô cần hỗ trợ y tế cũng như một đội hiện trường vụ án. Cô cúp máy và nhét điện thoại vào túi. “Tôi không thể bỏ bịt miệng của anh ngay bây giờ. Có thể có bằng chứng trên đó. Cố gắng một chút. Tôi sẽ giúp anh.”
Tiếng lốp xe lạo xạo trên sỏi bên ngoài ngôi nhà. Susan lắng nghe và có thể nghe thấy tiếng động cơ chạy không tải. Cô đứng dậy và đi về phía cầu thang, mạch đập nhanh. Đội hỗ trợ không thể đến nhanh như vậy được.
Hooper bắt đầu la hét sau chiếc giẻ bịt miệng.
Cô quay lại và đưa tay lên miệng ra dấu giữ im lặng. “Tôi sẽ không bỏ rơi anh, nhưng tôi phải kiểm tra xem đó là ai.”
Cô rón rén đi lên cầu thang tầng hầm và chui vào bếp. Nếu kẻ bắt Hooper quay trở lại, tốt hơn hết là nên đối đầu với anh ta ở trên hơn là dưới tầng hầm tối tăm đó. Nhưng ngôi nhà vẫn tĩnh lặng. Cô có thể nghe thấy tiếng thở của mình, nhưng không có âm thanh nào khác.
Nếu chiếc xe vẫn ở bên ngoài, tiếng ồn của động cơ sẽ bị chặn lại bởi lớp cách nhiệt của ngôi nhà. Susan rón rén băng qua nhà bếp, giơ súng về phía trước. Cô hé cửa sau và đặt một chân ra bên ngoài, hơi khom người để cố gắng nhìn ra đường lái xe theo cả hai hướng.
Tiếng động cơ gầm lên từ ga-ra. Susan đã kịp ra ngoài để nhìn thấy chiếc Subaru Legacy màu hạt dẻ đang phóng nhanh trên đường lái xe về phía đường phố. Cô ngay lập tức nhảy lên mui xe khi nó lao qua, súng vẫn cầm trên tay, hét lên khi chiếc xe lao thẳng vào một bức tường chắn nhỏ ở sân trước, rồi rẽ phải. “Cảnh sát đây! Dừng xe lại!”
Cô cố gắng nhìn người lái xe, nhưng mọi thứ diễn ra quá nhanh. Những ngón tay của cô lóng ngóng tìm thứ gì đó trên mui xe để bám vào, nhưng khi chiếc Subaru lao vào lề đường và lao xuống đường, Susan bị hất ngã xuống vỉa hè, đập mạnh vào bức tường chắn bằng đá trước ngôi nhà bên cạnh. Ở đằng xa, cô có thể nghe thấy tiếng ô tô đang lao đi, sau đó cô cảm thấy cơn đau ở sau đầu khi đập đầu vào tường. Cơn đau nhanh chóng lan khắp vai phải và xương đòn của cô. Tất cả những gì cô có thể làm là ngồi dậy và giữ khẩu súng trên đùi cho đến khi đội chi viện đến. Nếu chiếc Subaru quay lại, cô sẽ sẵn sàng. Cho đến lúc đó, cô vẫn chưa rời khỏi hiện trường.