← Quay lại trang sách

Chương 9

Tôi có thể nhớ được vài lần khi tôi sung sướng quá, tôi gần như chẳng biết phải làm gì nữa; một lần, khi tôi còn nhỏ, đến Nô-en, Jonathan tặng tôi một chiếc thùng trượt tuyết mà anh ấy phải dành dụm bao lâu mới đủ tiền mua. Rồi đến lần tôi tới Nangiyala và thấy Jonathan bên bờ suối, rồi cả cái buổi tối kì diệu ở Trang trại Các Hiệp sĩ, khi tôi sung sướng đến mức khó kìm nổi lòng mình. Nhưng không gì, không có gì bằng trông thấy Jonathan đang nằm ngủ trên sàn nhà ông Mathias; thử nghĩ xem, người ta có thể sung sướng đến thế cơ chứ! Cứ như ngay trong hồn tôi cũng đang cười vang.

Tôi không đụng tới Jonathan. Tôi không đánh thức anh. Tôi không hét lên vì sung sướng hoặc phát điên lên. Tôi chỉ lẳng lặng nằm xuống cạnh anh và ngủ.

Tôi đã ngủ bao lâu? Tôi không biết. Cả ngày chắc, tôi nghĩ. Nhưng khi tôi thức dậy - phải, khi tôi thức dậy, Jonathan đang ngồi dưới sàn nhà, bên cạnh tôi. Anh chỉ ngồi đó mỉm cười; không ai trông nhân hậu bằng Jonathan khi anh cười. Tôi đã từng nghĩ rằng anh ấy sẽ không vui đến thế khi tôi tới, rằng anh ấy quên béng mất rằng chính anh đã gọi tôi đến cứu. Nhưng lúc này tôi thấy rõ là anh ấy cũng đang mừng như tôi. Thế là tôi phải cười. tôi cũng phải cười, và hai anh em cứ ngồi như thế, chỉ nhìn nhau, không nói gì một lúc lâu.

- Anh gọi em đến cứu, - cuối cùng tôi nói.

Jonathan ngưng cười.

- Vì sao anh gọi em? - Tôi hỏi.

Đó chính là điều anh không thể nghĩ tới mà không thấy thất vọng. Anh lặng lẽ trả lời như thể anh khó mà chịu nổi việc trả lời tôi.

- Anh trông thấy Katla rồi, - anh đáp. - Anh thấy những gì Katla làm rồi.

Tôi không muốn dằn vặt anh bằng những câu hỏi về Katla nữa, vì dù sao tôi cũng còn có nhiều chuyện phải kể cho anh, trước hết về Jossi.

Jonathan rõ ràng không muốn tin vào chuyện đó. Mặt anh trắng bệch và anh gần như khóc.

- Jossi ư, không, không, không phải Jossi, - anh nói, nước mắt lưng tròng.

Nhưng rồi anh bật dậy.

- Phải cho cô Sofia biết ngay.

- Làm thế nào được? - Tôi hỏi.

- Còn một con bồ câu của cô ấy ở đây, - anh nói, - Bianca. Nó có thể bay về ngay trong đêm nay.

Phải rồi, bồ câu của cô Sofia, tôi đã nghĩ thế mà! Tôi kể cho anh nghe rằng chính nhờ con bồ câu đó mà tôi được bên anh lúc này chứ không ở trong Hang Katla.

- Thật kì diệu - tôi kể - trong số tất cả những ngôi nhà trong Thung lũng Bông hồng Dại, em đến thẳng ngôi nhà có anh ở trong. Nếu Bianca không ở bên ngoài, thì chắc em đã đi qua mất rồi.

- Bianca, ôi Bianca, cám ơn chim đã đậu ngoài đó, - Jonathan nói. Nhưng anh không còn thời gian nghe tôi kể thêm; điều quan trọng bây giờ là phải nhanh lên. Anh dùng móng tay cào cào vào ô cửa, như mèo cào, và chỉ một lát, ô cửa mở ra và ông Mathias thò đầu vào.

- Mà thằng bé Qui Ròn, nó cứ ngủ triền miên... - ông Mathias bắt đầu, nhưng Jonathan ngắt lời ngay.

- Ông gọi ngay Bianca đi, - anh nói. - Nó phải lên đường khi trời bắt đầu tối.

Anh giải thích lí do, kể cho ông Mathias về Jossi. Ông Mathias lắc lắc đầu theo kiểu ngưòi già khi có chuyện buồn.

- Cái thằng Jossi! Phải, ông đã biết là phải có kẻ nào đó ở Thung lũng Hoa Anh đào mà, - ông nói. - Vì thế mà bây giờ Orvar đang nằm trong Hang Katla. Lạy Chúa, cũng là người trên đời.

Rồi ông biến mất để gọi Bianca, sau khi đóng ô cửa cho chúng tôi.

Nơi ẩn náu của Jonathan trong nhà ông Mathias thật là tốt, một phòng kín đáo, nhỏ, không có cửa ra vào, cũng không có cửa sổ, lối vào duy nhất là qua ô cửa phía sau tủ tường. Trong phòng không có đồ đạc gì, ngoài một chiếc chiếu bằng lông chim để nằm và một chiếc đèn cũ kĩ làm bằng chiếc sừng để xua bớt bóng tối.

Dưới ánh sáng của chiếc đèn đó, Jonathan viết thư cho cô Sofia.

Tên của kẻ phản bội, kẻ phải bị nguyền rủa đời đời, là Jossi Gà Trống Vàng. Hãy tóm hắn ngay. Em cháu đang ở đây rồi.

- Vì thế mà Bianca tối qua bay đến đây, - Jonathan nói. - Để báo cho hai ông cháu biết em đã biến mất và đi tìm anh.

- Thấy chưa, thế tức là cô Sofia hiểu được mật mã của em viết trên tường gian bếp, - tôi nói. - Khi cô ấy đem xúp tới.

- Mật mã gì? - Jonathan hỏi.

Tôi đã đi tìm người đó ở chỗ xa, xa lắm, quá chỗ những ngọn núi.

Tôi kể cho anh nghe những gì tôi đã viết.

- Em làm thế để cô Sofia khỏi lo, - tôi nói.

Jonathan cười.

- Khỏi lo, đó là em nghĩ. Còn anh? Em nghĩ là anh yên tâm như thế nào khi anh biết em đang ở đâu đó giữa núi non của Nangiyala?

Chắc trông tôi ngượng nghịu lắm, nên anh lại vội vàng vỗ về tôi.

- Bé Qui Ròn dũng cảm này, mà em dám vào núi thì thật tuyệt, mà đến được đây nữa thì còn tuyệt hơn.

Đó là lần đầu tiên có người bảo tôi là dũng cảm, và tôi nghĩ nếu mình cứ tiếp tục như thế này thì có khi tôi cũng có thể tự gọi mình là Tim Sư tử được, bất chấp Jossi. Nhưng rồi tôi nhớ ra còn điều khác nữa tôi viết trên tường nhà, về người có bộ râu đỏ thèm muốn có đàn ngựa trắng. Tôi đề nghị Jonathan viết thêm một dòng vào bức thư.

Karl nói rằng mọi chuyện viết về Râu đỏ đều sai.

Tôi cũng kể cho anh nghe Hubert đã cứu tôi khỏi đàn sói như thế nào, và Jonathan bảo anh sẽ suốt đời biết ơn bác ấy về việc đó.

Trời nhập nhoạng tối khắp Thung lũng Bông hồng Dại khi chúng tôi đi thả Bianca, và đèn bắt đầu thắp lên trong tất cả mọi nhà và trang trại phía dưới dốc. Trông cảnh ấy thật yên tĩnh và thanh bình đến mức ta có thể sẽ nghĩ rằng bây giờ là lúc mọi người đang ngồi thưởng thức bữa cơm tối ngon lành, hoặc có thể đang ngồi chuyện trò với nhau và chơi đùa với con cái, hoặc cũng có thể đang ngâm nga hát và tận hưởng cuộc sống. Nhưng ta rất biết rằng không phải như vậy. Ta biết rằng họ khó lòng có gì để ăn, và rằng họ làm gì có yên tĩnh và hạnh phúc, mà toàn là bất hạnh thôi. Bọn lính Tengil trên tường thành, gươm giáo lăm lăm, làm ta nhớ đến thực tại, nếu chẳng may ta có quên.

Cửa sổ nhà ông Mathias không có ánh đèn. Nhà tối đen và mọi thứ đều im ắng, dường như trong đó không tồn tại một sinh linh nào.

Nhưng có chúng tôi, không ở trong nhà, mà ở bên ngoài, ông Mathias đứng gác ở góc nhà, còn Jonathan và tôi ôm Bianca bò giữa đám hoa hồng dại.

Khắp xung quanh nhà ông Mathias đầy những bụi hồng dại như vậy, mà tôi thì rất thích hồng dại, vì nó tỏa ra mùi thơm thật ngọt ngào, không quá hăng nồng, chỉ vừa đủ ngọt. Nhưng tôi nghĩ thầm rằng tôi sẽ không bao giờ lại được ngửi hương thơm của hoa hồng dại mà tim không đập thình thịch, và nhớ rằng chúng tôi phải bò như thế nào giữa những bụi cây này, Jonathan và tôi, rất gần bức tường có bọn lính Tengil đang rình rập, nghe ngóng, có lẽ chủ yếu để tìm ra người nào có tên là Tim Sư tử.

Jonathan đã bôi đen mặt và trùm mũ xuống đến sát mắt. Trông anh ấy chẳng còn giống Jonathan chút nào, tôi phải công nhận như vậy. Nhưng đồng thời cũng vẫn nguy hiểm, và cứ mỗi lần anh rời nơi ẩn náu của anh trong căn phòng bí mật, anh gọi đó là hang ổ của anh, thì lại là một lần tính mạng anh bị đe dọa. Có một trăm tên đang ngày đêm lùng sục tìm kiếm anh, tôi biết vậy và tôi nói cho anh biết như vậy, nhưng anh bảo:

- Thế à, nhưng anh nghĩ cứ để kệ cho chúng nó làm như vậy.

Tối ấy thật đẹp trời, không khí mát mẻ và dễ chịu để hít thở. Anh không muốn phải chui lại vào cái buồng nhỏ ngột ngạt. Không ai hiểu rõ chuyện đó bằng tôi, ngưòi đã từng phải nằm không biết bao lâu trong gian bếp của nhà tôi ở thị trấn.

Jonathan đang ngồi trên cỏ, hai tay ôm đầu gối, mắt nhìn về phía thung lũng, hết sức điềm tĩnh. Bất kì ai cũng có thể nghĩ rằng anh ấy đang tính chuyện ngồi đó suốt tối, cho dù có bao nhiêu tên lính Tengil tuần tra trên tường thành ở phía sau cũng mặc.

- Tại sao anh ngồi đó? - Tôi hỏi.

- Vì anh thích thế, - Jonathan đáp. - Vì anh thích thung lũng này khi hoàng hôn. Rồi không khí mát lạnh trên mặt anh nữa, anh cũng thích. Lại cả những bông hồng dại màu tím có mùi của mùa hè nữa.

- Em cũng thế, - tôi nói theo.

- Anh còn thích hoa lá, cỏ cây, ruộng đồng rừng núi, và những hồ nước nhỏ, - Jonathan nói. - Rồi khi mặt trời mọc, khi mặt trời lặn, khi trăng tàn, khi những vì sao lấp lánh, và còn vài thứ nữa mà bây giờ anh không nhớ hết.

- Em cũng thích những cái đó.

- Người nào mà chẳng thích - Jonathan nói.

- Và nếu đó là tất cả những gì người ta mong muốn, thì em có thể cho anh biết vì sao họ lại không được yên thân mà không cần có một thằng lính Tengil cứ đi đi lại lại và phá phách lung tung không?

Tôi không thể trả lời nổi. Sau đó, Jonathan bảo:

- Thôi, chúng mình nên về đi.

Nhưng chúng tôi không thể cứ thế chạy về được, vì trước hết chúng tôi phải xem có chuyện gì ở chỗ ông Mathias không đã, rồi thằng Dodik phệ đang ở đâu.

Trời đã tối hơn. Không còn thấy ông Mathias đâu ngoài ánh sáng từ ngọn đèn.

- Ông đang giơ cao. Dodik không có ở đó, - Jonathan nói. - Chạy thôi.

Nhưng vừa đúng lúc chúng tôi co cẳng chạy, thì ánh sáng ngọn đèn vụt hạ xuống thấp như một tia chớp, và chúng tôi đứng khựng lại. Chúng tôi nghe có tiếng ngựa phi nhanh tới, phi chậm dần, và tiếng ai đó nói với ông Mathias.

Jonathan hích nhẹ vào lưng tôi.

- Đi đi, - anh nói thầm. - Đi về phía ông Mathias đi.

Sau đó, anh lao vào giữa một bụi hồng dại, còn tôi run rẩy sợ hãi đi về phía ánh đèn.

- Tôi chỉ muốn hít thở một chút khí trời - tôi nghe thấy ông nói. - Trời tối nay đẹp thế này.

- Trời đẹp - một giọng nói cục cằn trả lời. - Ra khỏi nhà sau khi mặt trời lặn là bị tội chết, lão không biết à?

- Một lão già không biết tuân lệnh, chính là lão đấy, - một giọng khác hùa theo. - Mà này, thằng cháu đâu rồi?

- Nó vừa ở đây xong - ông nói, vừa lúc đó tôi đã về tới nơi, và tôi nhận ra hai con ngựa, tôi nhận ra thật; đó là Veder và Kader.

- Sao, đêm nay mày lại mò lên núi ngắm trăng chứ? - Veder hỏi. - Tên mày là gì, thằng khốn ranh con kia? Tao chưa nghe thấy tên mày.

- Người ta gọi cháu là Qui Ròn, - tôi trả lời. Tôi dám nói tên đó ra vì không ai biết tên đó, cả Jossi lẫn những người khác, trừ Jonathan, tôi và ông Mathias.

- Qui Ròn, được rồi - Kader nói. - Nghe đây, Qui Ròn, mày có biết tại sao chúng tao đến đây không?

Tôi cảm thấy hai chân như muốn khuỵu xuống.

Để nhốt ta vào Hang Katla chứ gì, tôi nghĩ. Chúng hẳn đã lấy làm tiếc là đã thả tôi ra, và bây giờ đến để tóm tôi chứ gì. Còn gì khác nữa?

- Nhóc, mày thấy đấy, - Kader nói. - Chúng tao phi ngựa khắp thung lũng để xem mọi người có tuân lệnh Tengil không. Thế nhưng ông mày thấy khó tuân theo; có lẽ mày nên giải thích cho ông mày biết cả hai ông cháu mày sẽ bị làm sao nếu không chịu ở trong nhà sau khi trời tối.

- Và chớ quên rằng, - Veder nói tiếp. - Mày sẽ không thoát lần nữa đâu nếu chúng tao thấy mày có mặt ở chỗ cấm; nhớ chưa Qui Ròn? Ông mày có sống hay chết, đối với chúng tao cũng thế thôi. Nhưng còn mày, trẻ trung như vậy, mày muốn lớn lên và trở thành ngưòi lính của Tengil chứ?

Một thằng lính của Tengil ư, không, thà chết còn hơn, tôi nghĩ bụng, nhưng không nói ra. Tôi đang rất lo về Jonathan nên không dám làm chúng khó chịu, vì thế tôi trả lời một cách rất ngoan ngoãn:

- Dạ, có chứ ạ.

- Tốt, - Veder nói. - Thế thì sáng sớm mai mày có thể xuống bến phà lớn và ở đó mày có thể trông thấy Tengil, người giải phóng Thung lũng Bông hồng Dại. Ngày mai, ngài sẽ qua sông của Những Dòng sông Cổ Xưa trên chiếc thuyền vàng của ngài và sẽ xuống ở bến phà lớn.

Rồi chúng chuẩn bị đi, nhưng đến phút chót, Kader ghìm cương ngựa.

- Nghe đây, lão già! - Hắn quát lớn với ông Mathias lúc đó đã đi nửa đường vào nhà. - Lão có trông thấy một thằng thanh niên điển trai tóc hung tên là Tim Sư tử đâu không hả?

Tôi đang nắm tay ông, và tôi cảm thấy ông đang run người lên như thế nào, nhưng ông vẫn điềm nhiên trả lời:

- Tôi chẳng biết Tim Sư tử nào cả.

- Không thật à? - Kader hỏi. - Nhưng nếu lão có tình cờ gặp nó, thì lão biết điều gì sẽ xảy ra với kẻ dám cho nó nương náu trú ẩn rồi chứ? Tội chết, biết chưa?

Sau đó, ông Mathias đóng cửa lại phía sau chúng tôi.

- Chỗ này cũng tội chết, chỗ kia cũng tội chết, - ông nói. - Tất cả mọi người đều nghĩ đến cả đấy.

Tiếng vó ngựa vừa chìm đi thì ông Mathias lại cầm cây đèn ra ngoài. Thoáng cái, Jonathan xuất hiện, tay và mặt bị gai cào xước hết, nhưng đang vui vì không có chuyện gì tồi tệ hơn xảy ra và vì Bianca lúc này đang sải hết cánh bay qua những ngọn núi.

Rồi sau, chúng tôi ăn bữa tối trong buồng ông, ô cửa nhỏ vẫn để ngỏ để Jonathan có thể mau chóng biến vào nơi ẩn náu của anh nếu có ai tới.

Nhưng trước đó, chúng tôi ra ngoài chuồng ngựa, Jonathan và tôi, để cho ngựa ăn. Thật tuyệt vời được gặp lại chúng, đang đứng chụm đầu lại với nhau. Tôi đoán chắc chúng đang kể cho nhau nghe về những điều đã xảy ra. Tôi cho cả hai con một ít kiều mạch. Lúc đầu, Jonathan định ngăn tôi lại, nhưng sau anh nói:

- Mà thôi, cứ cho chúng được một lần này. Những kiều mạch ấy mà, ở Thung lũng Bông hồng Dại này người ta không còn cho ngựa ăn kiều mạch nữa đâu.

Khi chúng tôi vào bếp, ông Mathias đặt một bát xúp lên bàn.

- Ông cháu ta chẳng còn gì khác, xúp này loãng lắm, - ông nói. - Nhưng dù sao thì nó cũng còn nóng.

Tôi nhìn quanh tìm chiếc bị, vì sực nhớ ra những thứ trong đó. Và khi tôi lôi từ trong đó ra toàn bộ bánh mì của tôi, thịt hun khói của tôi, thì cả hai người, cả ông Mathias lẫn anh Jonathan, đều há miệng kinh ngạc và mắt thì sáng rực lên. Thật kì diệu khi có được những thứ gần như một bữa đại tiệc đối với hai ngưòi. Tôi thái những miếng thịt dày, rồi mọi người ăn xúp, bánh mì và thịt hun khói; chúng tôi cứ ăn, say sưa, ăn mãi. Chẳng ai nói năng gì, chẳng nói gì một lúc lâu, đến cuối cùng Jonathan nói:

- Ôi, ăn thế đã rồi! Cháu suýt thì quên mất thế nào là ăn no bụng.

Tôi trở nên vui hơn nữa rằng tôi đã tới Thung lũng Bông hồng Dại; tôi thấy mình đến đây đúng hơn, tốt hơn. Sau đó, tôi kể cho ông và anh nghe một cách đầy đủ về mọi chuvện đã xảy ra với tôi từ lúc tôi rời khỏi nhà đến khi Veder và Kader giúp tôi lọt vào Thung lũng Bông hồng Dại. Tôi đã kể cho hai người nghe phần lớn chuyện ấy rồi, nhưng Jonathan vẫn muốn nghe thêm vài lần nữa, nhất là đoạn về Veder và Kader. Anh cười về chuyện ấy, đúng như tôi đoán, cả ông Mathias cũng cười.

- Cái lũ lính Tengil ấy, bọn chúng chẳng thông minh chút nào, ấy thế mà chúng nó cứ tưởng chúng nó giỏi giang lắm đấy. - ông bảo.

- Vâng, đến cháu cũng lừa được chúng, - tôi nói. - Cứ nghĩ xem, nếu chúng mà biết rằng thằng bé mà chúng muốn tìm bắt ghê gớm chính là thằng bé mà chúng đã giúp cho vào Thung lũng Bông hồng Dại và thả đi như thế nhỉ.

Khi nói ra điều đó, tôi mới bắt đầu nghĩ. Tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó, nhưng bây giờ thì tôi hỏi:

- Jonathan, anh lọt vào Thung lũng Bông hồng Dại bằng cách nào?

Jonathan cười.

- Anh nhảy bụp vào.

- Nhảy nghĩa là thế nào...chắc là không nhảy cùng con Grim chứ?

- Có chứ, - Jonathan đáp. - Anh có con ngựa nào khác đâu.

Tôi đã từng chứng kiến những bước nhảy vĩ đại khi Jonathan cưỡi Grim, nhưng nhảy qua bức tường thành bao bọc quanh Thung lũng Bông hồng Dại thì quả là điều vượt quá trí tưởng tượng của bất cứ người nào.

- Em biết không, tường lúc đó đã xây xong hết đâu, - Jonathan nói. - Nhiều chỗ chưa xây xong. Xây chưa đủ chiều cao, mặc dù cũng cao tương đối, em có thể tin chắc như vậy.

- Vâng, thế nhưng còn bọn lính gác! - Tôi nói. - Không thằng nào nhìn thấy anh sao?

Jonathan bẻ một mẩu bánh, rồi lại cười.

- Có chứ, cả đàn bọn chúng đuổi theo anh, và Grim bị một mũi tên vào đuôi. Nhưng anh chạy thoát, rồi một người nông dân tốt bụng giấu cả Grim lẫn anh trong nhà chứa thóc. Đêm hôm đó, người đó đưa anh đến đây với ông Mathias. Thế là bây giờ em biết hết mọi chuyện rồi nhé.

- Không, cháu chưa biết hết mọi chuyện đâu, - ông Mathias nói. - Cháu chưa biết rằng bà con ở đây hát ca ngợi việc phi ngựa đó và ca ngợi Jonathan. Chuyện Jonathan đến đây là chuyện tốt lành nhất xảy ra ở Thung lũng Bông hồng Dại kể từ khi Tengil chiếm vùng này và biến mọi người ở đây thành nô lệ cho hắn. Mọi ngưòi hát rằng "Jonathan là người cứu chúng ta", vì anh cháu sẽ giải phóng Thung lũng Bông hồng Dại, cháu cứ tin ông như vậy; ông cũng tin như vậy. Giờ thì cháu biết mọi chuyện rồi.

- Em chưa biết hết mọi chuyện đâu. - Jonathan lại nói. - Em chưa biết rằng ông Mathias là người lãnh đạo cuộc đấu tranh bí mật trong Thung lũng Bông hồng Dại, khi Orvar đang bị giam trong Hang Katla. Bà con phải gọi ông Mathias là đấng cứu thế mới phải, chứ không phải là anh.

- Không, ông già rồi, - ông đáp. - Cái thằng Veder ấy nói thế mà đúng. Ông sống hay chết thì có khác gì nhau đâu.

- Ông không được nói như vậy, - tôi ngắt lời ông. - Vì ông là ông của cháu cơ mà.

- Ừ, được, để làm ông của cháu thì ông sẽ sống. Nhưng làm lãnh đạo cuộc đấu tranh thì ông không còn hợp nữa rồi. Việc đó cần người trẻ.

Ông thở dài.

- Giá mà Orvar ở đây. Nhưng chú ấy đang bị nhốt trong Hang Katla rồi, cho tới khi bị nộp mạng cho Katla.

Tôi thấy mặt Jonathan trắng bệch ra.

- Chúng ta sẽ thấy, - anh lẩm bẩm. - Chúng ta sẽ thấy cuối cùng Katla sẽ được nộp người nào.

Nhưng rồi anh nói:

- Chúng ta phải bắt tay vào việc thôi. Em cũng còn chưa biết đâu, Qui Ròn ạ, rằng trong túp lều này, ngày ngủ, tối làm. Lại đây, anh chỉ cho xem.

Anh bò trước tôi, qua một tấm chắn vào khoang ẩn náu, và tại đó, anh cho tôi xem cái mà anh vừa nói. Anh quẳng chiếc đệm lông vũ chúng tôi vẫn nằm sang một bên, rồi nhấc hai tấm gỗ sàn rộng ghép hờ phía dưới lên.

Chỗ đó, tôi thấy một đường hầm tối om chạy thẳng vào lòng đất. - Đây là nơi xuất phát con đường hầm bí mật của anh, - Jonathan nói.

- Thế nó chạy tới đâu? - Tôi hỏi, mặc dù tôi gần như có thể đoán ra câu trả lời của anh.

- Tới vùng đất hoang dại phía bên kia tường thành. Tới đó thì nó dừng lại. Chỉ một vài đêm nữa thì anh nghĩ là đủ chiều dài - Anh vừa đáp vừa chui vào trong đó.

- Nhưng anh phải đào xa hơn một chút. Vì em phải thấy là anh không muốn chui lên ngay trước mũi thằng Dodik phệ.

Nói rồi, anh biến mất, còn tôi ngồi đó chờ một lúc lâu. Cuối cùng, khi anh quay lại, anh đẩy theo một máng đầy đất trưóc mặt anh. Anh nâng lên cho tôi, và tôi kéo lê nó ra ô cửa cho ông Mathias.

- Thêm đất cho ruộng của ông, - ông Mathias nói. - Giá như ông có được ít đậu, ít lạc để gieo trồng ở đó, thì sẽ hết đói ngay.

- Ông nghĩ thế sao? - Jonathan hỏi. - Cứ mười hạt đậu trên cánh đồng của ông, Tengil tịch thu chín hạt; ông quên rồi sao?

- Cháu nói đúng, - ông Mathias đáp. - Chừng nào Tengil còn sống, chừng đó còn đói khổ trong Thung lũng Bông hồng Dại.

Bây giờ đến lượt ông Mathias phải kín đáo đem máng đất đi đổ ra ruộng, và tôi được yêu cầu đứng bên cửa canh chừng. Tôi có nhiệm vụ huýt sáo, Jonathan dặn thế, nếu tôi thấy có bất cứ dấu hiệu nguy hiểm nào. Tôi phải huýt một điệu sáo ngắn đặc biệt mà Jonathan dạy tôi đã lâu, khi chúng tôi còn sống dưới trần gian. Hồi đó, chúng tôi thường cùng nhau thổi nhiều lần, vào các buổi tối khi đã lên giường, và thế là tôi vẫn thường hay huýt điệu sáo đó.

Jonathan lại chui vào hầm đào tiếp, còn ông Mathias đóng ô cửa và đẩy tủ tường về chỗ cũ.

- Hãy ghi tạc điều này trong đầu, Qui Ròn nhé - ông dặn. - Không bao giờ, không được bao giờ để Jonathan trong đó mà không đóng ô cửa này và đẩy tủ tường sang chỗ đó. Hãy ghi tạc trong đầu rằng cháu đang ở trong một xứ sở mà Tengil sống và cai trị.

- Cháu sẽ không quên, - tôi đáp.

Trong bếp, chỉ có ánh sáng lờ mờ, có mỗi ngọn nến leo lét trên bàn, nhưng ông Mathias cũng thổi tắt nốt.

- Đêm hôm ở Thung lũng Bông hồng Dại cần phải tối, - ông nói. - Vì có bao nhiêu con mắt muốn nhìn thấy những điều không nên nhìn.

Sau đó ông nhấc chiếc máng, biến mất, còn tôi đứng bên khung cửa mở ngỏ canh gác. Trời thật tối, đúng như ông Mathias mong muốn. Trong nhà tối, và bầu trời trên Thung lũng Bông hồng Dại cũng tối không có sao nhấp nháy, cũng chẳng có trăng. Tôi chẳng nhìn thấy gì. Nhưng những con mắt của bóng đêm mà ông Mathias nói tới ấy, chúng cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi nghĩ, và ý nghĩ đó làm tôi yên lòng.

Tôi cảm thấy buồn bã và cô đơn, khi phải đứng chờ, và còn thấy gai gai người nữa. Ông Mathias làm gì lâu thế. Tôi thấy bồn chồn, mỗi phút trôi qua một bồn chồn hơn. Tại sao ông chưa quay lại? Tôi căng mắt nhìn vào trong bóng tối. Nhưng bây giờ không còn thật tối nữa thì phải? Đột nhiên, tôi thấy trời đột nhiên sáng hơn. Hay chỉ là do mắt tối đã quen hơn? Rồi tôi thấy lí do. Mặt trăng đang chui ra khỏi những đám mây, mà đó là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, và tôi cầu Chúa sao cho ông Mathias có thể quay về đây đúng lúc trời còn đủ tối để che chở cho ông. Nhưng muộn quá mất rồi, vì mặt trăng bây giờ đang chiếu sáng rực rỡ và cả một dòng sông ánh trăng đang tràn ngập khắp thung lũng.

Dưới ánh sáng ấy, tôi nhìn thấy ông; từ xa, tôi đã thấy ông đang về, đi giữa những bụi cây, tay cầm chiếc máng. Tôi nhìn như phát dại xung quanh, vì tôi còn có nhiệm vụ canh gác, và đúng lúc đó, tôi nhìn thấy gì đó nữa - thằng Dodik, thằng Dodik phệ, đang từ trên tường thành trèo xuống chiếc thang dây, lưng quay về phía tôi.

Khi hoảng sợ, thật khó huýt được sáo, nên tiếng sáo nghe chẳng ra sao, nhưng rồi tôi cũng cố nặng ra cái âm thanh ấy, và nhẹ như thằn lằn, ông Mathias biến mất phía sau bụi hồng dại gần nhất.

Nhưng đó cũng là lúc Dodik đã đứng bên tôi.

- Mày huýt sáo làm gì? - Hắn quát.

- Tại...tại cháu mới học được hôm nay, - tôi lí nhí. Trước cháu không biết huýt mà chỉ láng máng, tự nhiên hôm nay lại huýt được. Chú có muốn cháu huýt cho nghe không?

Tôi bắt đầu huýt lại, nhưng Dodik chặn lại.

- Không, câm ngay - hắn ra lệnh. - Tao cũng không nhớ là huýt sáo có bị cấm không, nhưng tao đoán là có. Tao nghĩ Tengil không thích đâu. Mà mày phải đóng cửa kia mà, mày không biết à?

- Thế chú để cửa mở ngỏ thì Tengil cũng không thích à? - Tôi hỏi.

- Hãy biết việc của mày đã, - Dodik trả lời.

- Được bảo gì thì cứ làm như vậy đi đã. Nhưng trước hết cho tao cốc nước đã đây. Đứng trên kia mà khát muốn chết.

Tôi nghĩ thật nhanh; nếu hắn theo tôi vào trong bếp và không thấy ông Mathias ở trong đó, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Ông Mathias tội nghiệp, đi ra ngoài ban đêm là tội chết; tôi đã nghe quá nhàm tai chuyện đó.

- Để cháu lấy cho, - tôi nói vội. - Chú cứ ở đây để cháu lấy nước cho.

Tôi chạy vào nhà, và trong bóng tối dò dẫm bước về phía bình nước. Tôi biết nó nằm ở góc nào rồi. Tôi còn tìm được cả chiếc muỗng, và đổ đầy nước vào. Nhưng tôi cảm thấy có người đang đứng sau tôi; đúng thế, hắn đang đứng trong bóng tối, ngay sát lưng tôi, và chưa bao giờ tôi thấy gai người đến thế.

- Thắp nến lên - Dodik ra lệnh. - Tao muốn xem cái hang chuột này như thế nào.

Tay tôi run lên; cả ngưòi tôi run lên, và tôi phải cố thắp ngọn nến.

Dodik cầm muỗng nước và uống. Hắn tu ừng ực như chiếc thùng không đáy. Rồi hắn ném chiếc muỗng xuống sàn nhà, đôi mắt ti hí đáng sợ nhìn quanh một cách khả nghi. Sau đó hắn hỏi tôi điều tôi đoán thế nào hắn cũng sẽ hỏi.

- Lão già Mathias ở đây, lão đâu rồi?

Tôi không trả lời. Tôi không biết phải trả lời thế nào.

- Mày có nghe tao hỏi gì không thế? - Dodik hỏi. - Mathias đâu?

- Ông ngủ, - tôi trả lời. Tôi phải nghĩ ra một cái gì đó chứ.

- Đâu?

Có một gian phòng nhỏ liền bếp, và giường ông Mathias ở trong đó, nhưng tôi cũng biết lúc này ông đâu có ngủ trong đó. Tôi chỉ nhìn về cửa mà nói:

- Trong đó.

Tôi nói cụt lủn, gần như không ra tiếng gì. Nghe thật yếu ớt, và Dodik cười giễu tôi.

Mày nói dối chưa giỏi lắm đâu, - hắn nói. - Đứng chờ đấy trong lúc tao xem.

Hắn đang khoái chí, vì biết rằng tôi đã nói dối, và tôi đoán rằng hắn muốn được thu xếp việc xử tử ông Mathias và có lẽ sẽ được Tengil khen.

- Đưa nến cho tao - hắn ra lệnh, và tôi đưa nến cho hắn.

Tôi muốn chạy đi, biến ra khỏi cửa, lao tới chỗ ông Mathias và giục ông chạy đi trước khi quá muộn. Nhưng tôi không làm sao nhúc nhích được. Tôi cứ đứng đó, phát sốt phát rét vì sợ hãi.

Dodik thấy hết và thích thú trước cảnh đó. Hắn chẳng việc gì phải vội vàng, ồ, việc gì phải vội đâu, hắn cười, và nhẩn nha chỉ để tôi kinh hoàng hơn. Nhưng khi hắn thôi cười, hắn nói:

- Vào đi nhóc, đến lượt mày chỉ cho tao xem lão già Mathias đang nằm ngủ ở đâu.

Hắn đá cho cánh cửa phòng mở ra, rồi xô tôi vào mạnh tới mức tôi vấp ngã ở chỗ ngưỡng cửa cao. Hắn lại nhấc tôi dậy và đứng trước mặt tôi với cây nến trong tay.

- Đồ dối trá, chỉ cho tao đi, mau - hắn ra lệnh, tay giơ cao cây nến cho sáng cả nhà.

Tôi không dám động đậy, cũng không dám ngẩng đầu lên; tôi chẳng thà tan biến vào không khí còn hơn, tôi sợ quá đỗi.

Nhưng chính lúc ấy, giữa lúc thảm hại nhất của tôi, tôi nghe thấy giọng giận dữ của ông Mathias:

- Làm cái gì thế hả? Lão già mà đêm ngủ cũng không được yên hay sao?

Tôi trông lên và thấy ông Mathias; đúng thế, ông đang ngồi trên giường của ông, trong góc lờ mờ nhất của gian phòng, mắt nheo nheo trước ánh sáng nến. Ông chỉ mặc chiếc áo mỏng, đầu tóc rối bù, như thể đã ngủ lâu lắm rồi. Phía bên cửa sổ, chiếc máng đang dựa vào tường. Người ông này của tôi hẳn phải nhanh như thằn lằn.

Tôi gần như thấy thương hại cho Dodik. Tôi chưa từng thấy ai có bộ mặt cực kì đần như hắn, khi hắn ta đứng đó trừng trừng nhìn ông Mathias.

- Tôi chỉ vào xin ngụm nước, - hắn nói giọng thiểu não.

- Nước, ừ, nghe hay đấy nhỉ, - ông Mathias nói. - Anh không biết là Tengil cấm các anh uống nước của chúng tôi sao? Ông ta sợ chúng tôi đầu độc các anh. Và nếu anh còn tới, làm tôi thức lại nữa, thì tôi sẽ cho uống thuốc độc cho mà coi.

Tôi không biết làm sao ông dám nói như thế với Dodik, nhưng có lẽ nói năng với một tên lính Tengil phải như vậy, vì Dodik chỉ làu bàu rồi biến ra bức tường thành của hắn.