Chương 12
Đêm đó, chúng tôi ngủ dưới một tán lá cây và tỉnh dậy lúc bình minh; lạnh đến cứng người, ít ra tôi cảm thấy thế. Sương mù giăng kín giữa các cây với nhau, nên chúng tôi khó lòng trông thấy Grim và Fyalar. Trông chúng như hai con ngựa ma màu xám trong ánh sáng xám và bầu không khí tịch mịch quanh chúng tôi. Tịch mịch hết mức, thậm chí đến dễ sợ. Tôi không hiểu sao cái gì trong buổi sáng hôm đó cũng tối tăm, cô quạnh, đáng lo đến thế. Tất cả suy nghĩ của tôi chỉ xoay quanh chuyện mong được về gian bếp ấm cúng của ông Mathias, và tôi thấy rất bồn chồn về những gì đang chờ phía trước chúng tôi; mọi thứ mà tôi chưa hề biết.
Tôi cố gắng không để Jonathan biết cảm nghĩ của tôi, vì biết đâu đấy, anh ấy lại chẳng gợi ý rằng tôi nên quay về, mà tôi thì muốn được cùng anh trong mọi hiểm nguy, cho dù đến mức nào đi chăng nữa.
Jonathan nhìn tôi và hơi mỉm cười.
- Qui Ròn, đừng giữ vẻ như vậy, - anh nói. - Đã có chuyện gì đâu. Mọi sự sẽ còn tồi tệ hơn nhiều, em có thể tin chắc thế.
Ôi, cái kiểu an ủi mới lạ chứ! Nhưng sau đó, mặt trời chọc thủng, sương mù biến mất, chim chóc hót vang trong rừng, tất thảy những gì tối tăm và cô quạnh không còn, những hiểm nguy dường như bớt nguy hiểm hơn. Tôi cũng thấy ấm lòng hơn, cảm thấy mọi thứ khá hơn, gần như tốt lành nữa là khác.
Grim và Fyalar cũng ổn cả. Chúng đã thoát khỏi cái chuồng tối tăm, và giờ đây lại đang được gặm những đám cỏ xanh mướt. Chúng thích lắm đấy, tôi chắc chắn.
Jonathan huýt sáo gọi, tiếng sáo nhỏ, nhưng chúng nghe thấy và chạy đến.
Anh ấy muốn đi ngay, đúng lúc này, anh Jonathan ấy mà. Đi thật xa! Đi ngay lập tức!
- Vì tường thành ở ngay sau bụi trái nâu kia - anh nói. - Và anh không thích trông thấy mắt thằng Dodik trợn ngược lòng trắng lên.
Con đường hầm của chúng tôi kết thúc ở giữa hai bụi trái nâu gần đó, nhưng không thể trông thấy cửa hầm vì Jonathan đã lấy cành cây che kín. Anh dùng hai thanh gỗ đánh dấu lại, để về sau chúng tôi còn tìm thấy được.
- Chớ quên những dấu tích xung quanh, - anh nói. - Hãy nhớ hòn đá to này, nhớ cây mà mình đã ngủ dưới tán lá của nó này, nhớ bụi trái nâu này. Vì có thể có một ngày nào đó chúng mình phải đi theo đường này. Nếu...
Anh không nói tiếp nữa, và chúng tôi lên ngựa, lặng lẽ phóng đi.
Khi đó, một con bồ câu bay tới, phía trên các ngọn cây, một trong những con bồ câu trắng của cô Sofia.
- Paloma đấy - Jonathan nói, mà tôi không biết làm sao anh nhận ra nó từ xa như vậy.
Chúng tôi đã chờ tin tức từ cô Sofia đã bao lâu, thế mà bây giờ cuối cùng khi bồ câu tới thì chúng tôi lại vừa ra khỏi tường thành. Nó đang bay thẳng tới nhà ông Mathias và sẽ sớm hạ cánh xuống mái hiên cho bồ câu ngoài chuồng ngựa. Nhưng chỉ còn ông Mathias ở đó để đọc thư thôi.
Việc đó làm Jonathan bứt rứt.
- Chỉ cần nó đến đây hôm qua thôi, - anh nói, - thì có phải mình đã biết điều cần biết rồi không.
Nhưng giờ thì chúng tôi phải đi, đi xa khỏi Thung lũng Bông hồng Dại, xa khỏi bức tường thành, và xa cả đám lính Tengil đang lùng kiếm Jonathan.
Chúng tôi phải đi xuống dưới phía sông bằng cách đi vòng xuyên qua rừng, Jonathan nói, rồi sau đó men theo bờ sông tới Thác Karma.
- Tới đó, bé Karl ạ, em sẽ thấy một dòng thác mà trong mơ em cũng chưa bao giờ thấy.
Tôi đã được xem xét gì mấy trước khi tôi tới Nangiyala đâu; chắc chắn là không có khu rừng nào giống như khu rừng chúng tôi đang đi qua. Đó thực sự là một khu rừng trong số những khu rừng như trong truyền thuyết, rậm rạp và tối tăm, không có đường mòn. Chúng tôi cứ xuyên qua giữa các cây, trong khi cành cây cứ quất vào mặt mình. Nhưng tôi cũng thấy thích.
Toàn bộ cảnh vật - mặt trời chiếu qua thân cây, chim hót, mùi cây ngai ngái, cỏ ướt, và ngựa phi. Nhưng hơn hết, tôi thích phi ngựa cùng với Jonathan.
Không khí trong lành và mát mẻ trong rừng, nhưng đi mãi thi trời ấm dần lên. Chúng tôi cảm thấy rất rõ rằng hôm đó trời sẽ nóng.
Chẳng bao lâu, Thung lũng Bông hồng Dại đã lùi lại xa phía sau chúng tôi, còn chúng tôi đã vào sâu trong rừng. Đến một trảng trống có nhiều cây cao mọc xung quanh, chúng tôi gặp một ngôi nhà tranh nhỏ màu xám, ngay giữa khu rừng tối tăm. Sao lại có ai sống nổi trong một nơi cô quạnh thế này! Nhưng có người hẳn hoi, vì ống khói đang có khói bay ra và lại có hai con dê đang gặm cỏ bên ngoài.
- Bác Elfrida sống ở đây, - Jonathan bảo tôi. - Bác ấy sẽ cho chúng mình ít sữa dê, nếu chúng mình xin.
Chúng tôi được uống sữa, uống thỏa thích, ngon thật, vì chúng tôi đã đi được một chặng đường dài mà chưa được ăn uống gì. Chúng tôi ngồi trên bậc cửa nhà bác Elfrida, uống sữa dê nhà bác, ăn bánh mì chúng tôi đem theo cùng pho-mát bác Elfrida cho, rồi mỗi đứa chúng tôi làm một nắm dâu tây tôi hái trong rừng. Ăn uống thật ngon lành và chúng tôi lấy làm hài lòng.
Elfrida là một phụ nữ lớn tuổi, béo lùn, tốt bụng. Bác ấy sống một mình ở đó, chỉ có mấy con dê và một con mèo xám làm bạn.
- Ơn Chúa, bác không phải sống trong bất kỳ bức tường thành nào, - bác nói.
Bác quen nhiều người trong Thung lũng Bông hồng Dại nên bác muốn biết họ có còn sống không; vì vậy, Jonathan kể cho bác ấy nghe. Anh buồn khi phải làm việc đó, vì hầu hết tin tức anh kể đều là loại tin mà một phụ nữ tốt bụng khi nghe đều thấy đau lòng.
- Sao Thung lũng Bông hồng Dại khốn khổ thế, - bác Elfrida nói. - Cái thằng Tengil đáng nguyền rủa! cả Katla nữa! Nếu nó không có Katla, chắc mọi sự sẽ đâu vào đó ngay.
Bác đưa tạp dề lên ngang mắt tôi đoán chắc bác khóc.
Tôi không dám nhìn, nên tôi đi kiếm thêm ít dâu dại nữa: Katla là ai, Katla ở đâu? Khi nào thì tôi mới được biết?
Cuối cùng, chúng tôi ra đến sông, giữa lúc nắng nóng của buổi trưa. Mặt trời như một quả cầu lửa trên trời, còn mặt nước cũng lấp loáng, như có ngàn vạn mặt trời nhỏ. Chúng tôi đứng trên bờ dốc cao, nhìn xuống dòng sông mãi tít phía dưới. Cảnh mới hùng vĩ làm sao! Dòng sông của Những Dòng Sông Cổ xưa đang cuốn nước về Thác Karma làm tung bọt xoáy. Nó muốn cuốn xuống đó cùng tất cả những con nước mạnh mẽ, và chúng tôi có thể nghe thấy tiếng thác nước gầm thét xa xa.
Chúng tôi muốn xuống nước tắm cho mát. Grim và Fyalar được thả lỏng trong rừng để tự tìm con suối nào đó để uống, nhưng chúng tôi muốn tắm ở dưới sông cơ. Cho nên chúng tôi lao xuống dốc, gần như vừa chạy vừa giật phăng quần áo ra. Bên bờ sông có nhiều cây liễu mọc, và một cây trong số đó mọc liền bờ, cành chìa ra mé nước. Chúng tôi trèo dọc theo thân cây, rồi Jonathan hướng dẫn tôi cách bám vào một cành cây để thả mình xuống dòng nước đang cuộn xoáy.
- Nhưng không được thả trôi, kẻo sẽ bị xuống Thác Karma mà chưa kịp thưởng thức gì đâu đấy. - anh dặn,
Tôi nắm chặt tới mức các đốt ngón tay trắng bệch ra. Người tôi xô đi xô lại quanh cành cây, nước xối khắp người; chưa bao giờ tôi đuợc tắm theo kiểu tuyệt vời như thế, cũng chưa bao giờ tắm mà nguy hiểm như thế. Tôi cảm thấy như Thác Karma đang lôi cả người tôi đi.
Sau đó, tôi lại trèo lên thân cây, anh Jonathan phải giúp tôi lên, và chúng tôi cùng ngồi trên chỗ chạc cây liễu như thể đang ngồi trong một ngôi nhà xanh đung đưa trên mặt nước. Dòng nước nhảy chồm lên, đùa giỡn ngay phía dưới chúng tôi, cố sức lại quyến rũ chúng tôi, làm cho chúng tôi tin rằng không có gì nguy hiểm. Nhưng tôi chỉ dám nhúng mấy ngón chân xuống, và rồi chỉ ngón chân cái thôi, vậy mà cũng đủ để cảm thấy dòng nước muốn kéo cả người tôi xuống rồi.
Vừa ngồi đó, tôi vừa vô tình nhìn lên phía trên dốc, và tôi chợt hoảng sợ. Có mấy kị mã trên đó, bọn lính Tengil với những ngọn giáo dài. Chúng phi nước kiệu tới, nhưng chúng tôi không nghe tiếng vó ngựa vì dòng nước gào thét.
Jonathan cũng trông thấy chúng, nhưng tôi không nhận ra dấu hiệu sợ sệt nào ở anh. Chúng tôi ngồi im, chờ cho chúng phóng qua. Nhưng chúng không phóng qua. Chúng dừng lại, xuống ngựa, dường như muốn nghỉ ngơi, hoặc làm cái gì đó tương tự như vậy.
Tôi hỏi Jonathan:
- Anh có nghĩ là bọn chúng đang đi lùng anh không?
- Không, - Jonathan trả lời. - Chúng từ Karmanyaka tới, và đang trên đường đến Thung lũng Bông hồng Dại. Trên sông chỗ Thác Karma có một cây cầu treo. Tengil thường phái bọn lính đi đường đó.
- Nhưng bọn chúng không nhất thiết phải dừng lại ở đúng chỗ này, - tôi nói.
Jonathan đồng ý với tôi.
- Anh thật không muốn để chúng trông thấy anh chút nào, mà chúng nó thì có nhiều ý nghĩ kì lạ về anh em nhà Tim Sư tử trong đầu lắm. - anh nói.
Tôi đếm được sáu thằng trên dốc. Chúng đang nói chuyện và tranh luận về chuyện gì đó, chỉ trỏ xuống phía nước, nhưng chúng tôi không nghe thấy chúng nói gì. Nhưng đột nhiên một tên phi ngựa xuống dốc theo hướng sông. Hắn gần như phi thẳng tới chỗ chúng tôi và tôi rất mừng là chúng tôi đang ngồi náu kín trên cây.
Những tên khác hét theo hắn:
- Đừng làm thế, Park! cả mày cả ngựa sẽ chết đuối mất! Nhưng hắn - cái gã tên là Park ấy - chỉ cười và hét lại: - Tao sẽ cho chúng mày xem! Nếu tao không ra tới mỏm đá ấy rồi quay lại, tao sẽ khao chúng mày một chầu bia, tao thề như vậy!
Rồi chúng tôi nhận ra hắn sắp làm chuyện gì.
Có một tảng đá nhô ra phía ngoài dòng sông. Dòng nước đang cuốn xoáy quanh nó, và chỉ một mỏm đá con con nhô lên trên mặt nước. Nhưng chắc thằng Park vô tình trông thấy khi phi ngựa ngang qua, và bây giờ hắn đang trổ tài.
- Đồ ngu, - Jonathan nói. - Hắn tưởng con ngựa có thể bơi ngược dòng ra tận đó chắc!
Park đã cởi bỏ mũ sắt, áo choàng, tháo giầy, trên người chỉ còn một bộ áo quần, đang bắt con ngựa đi xuống nước; đó là một con ngựa đen nhỏ thó xinh xắn. Park hò hét, chửi bới, thúc giục, nhưng con ngựa không muốn. Nó đang sợ. Sau đó hắn đánh ngựa. Hắn không có roi ngựa, nhưng hắn đấm nó, và tôi nghe thấy Jonathan nén một hơi thở sâu, như một tiếng nấc, y như anh đã làm lúc ở sân làng.
Cuối cùng thì Park theo cách của hắn; con ngựa rít lên, và hoảng quá, nó quăng mình xuống sông chỉ vì thằng điên ấy muốn nó phải thế. Thật kinh khủng khi phải chứng kiến cảnh ấy, phải chứng kiến cảnh nó phải vật lộn như thế nào khi dòng nước đang cuốn lấy nó.
- Nó sẽ trôi xuống chỗ chúng mình cho mà xem - Jonathan nói. - Park có thể làm điều hắn muốn, nhưng hắn sẽ không bao giờ đưa được nó ra chỗ mỏm đá đó đâu.
Nhưng nó đang vùng vẫy, thực sự vùng vẫy. Ôi, nó phải vật lộn như thế nào, nó đang kinh hoàng như thế nào khi nó cảm thấy dòng sông khoẻ hơn nó!
Ngay Park cuối cùng cũng thấy tính mạng hắn bị đe dọa, và vì thế hắn cố bắt con ngựa quay lại bờ, nhưng hắn thấy ngay rằng nó không thể làm nổi việc đó nữa. Không thể, vì luồng nước muốn điều ngược lại cơ; nó muốn cuốn hắn xuống Thác Karma, hắn hẳn đáng kiếp như vậy. Nhưng còn con ngựa, tôi thấy thương nó quá. Nó đang hoàn toàn vô vọng rồi, và cả người lẫn ngựa đang dạt dần về phía chúng tôi đúng như Jonathan đã nói; chẳng mấy chốc, chúng sẽ trôi qua chúng tôi và biến mất. Tôi nhìn thấy sự kinh hoàng trong mắt thằng Park; không nghi ngờ gì nữa, hắn ta biết rõ điều gì sắp xảy ra.
Tôi ngoái đầu xem Jonathan đâu, và tôi bật kêu lên khi trông thấy anh. Anh ấy đang treo mình từ chiếc cành, đu trên mặt nước, cố vươn ra xa, người ngửa ra, hai chân quặp lấy cành cây, và khi Park vừa tới chỗ anh, anh túm lấy tóc hắn và kéo hắn vào để cho hắn với được một chiếc cành.
Sau đó, Jonathan gọi con ngựa.
- Lại đây, ngựa con, lại đây nào!
Thực ra nó đã bị cuốn trôi qua, nhưng nó cố gắng một cách điên dại để quay lại chỗ anh. Nó không còn phải tha trên lưng nó thằng Park bị thịt nữa, nhưng nó gần như đang chìm nghỉm. Nhưng bằng cách nào đó, Jonathan túm được dây cương và bắt đầu giằng kéo. Đúng là một sự giằng kéo một sống một chết, vì dòng sông không muốn cho con ngựa thoát; nó muốn nuốt chửng cả con ngựa lẫn Jonathan.
Tôi phát dại và quát Park:
- Giúp người ta đi kìa, đồ cáo già! Giúp người ta đi!
Hắn chật vật lên được cây, ngồi đó thật an toàn, yên ổn, ngay gần Jonathan, nhưng điều duy nhất thằng ngu đó làm là vươn người ra phía trước và gào lên:
- Thả con ngựa ra! Trong rừng trên kia còn hai con ngựa nữa. Tao lấy một con để đi cũng được. Thả nó ra!
Tôi nghe nói khi người ta giận dữ, người ta khoẻ hơn, và theo cách đó, ta có thể nói rằng Park đã giúp Jonathan cứu được con ngựa. Nhưng về sau anh bảo Park:
- Này, đồ đầu đất sét, mày tưởng tao cứu mạng mày để rồi mày có thể ăn cướp con ngựa của tao đấy à? Mày không biết xấu hổ là gì à?
Có lẽ Park xấu hổ, tôi không biết. Hắn không nói gì và cũng chẳng một lần hỏi chúng tôi là ai hoặc hỏi gì đó. Hắn chỉ cắm cúi leo dốc cùng con ngựa đáng thương của hắn và một lát sau hắn và cả toán lính đã biến mất.
Đêm đó chúng tôi đốt lửa trại trên đỉnh Thác Karma, và tôi chắc rằng không có ngọn lửa nào trong bất cứ ngày nào, ở bất cứ đâu tại bất cứ nơi cắm trại nào lại cháy như ngọn lửa ở nơi chúng tôi đốt đêm đó.
Đó là một nơi hãi hùng, kinh khủng và đẹp đẽ, chẳng giống nơi nào trên trời hay dưới đất, tôi nghĩ vậy: Núi, sông, rồi thác, cái gì cũng rộng lớn, tất cà đều như thế. Lại giống y như trong mơ, và tôi nói với Jonathan.
- Cảnh này không thể có thật được. Cứ y như trong một giấc mơ từ ngàn xưa.
Rồi chúng tôi ra đứng trên cầu, chiếc cầu Tengil cho xây trên vực thẳm ngăn cách hai vùng, Karmanyaka và Nangiyala, nằm hai bên bờ dòng sông của Những Dòng Sông Cổ xưa.
Dòng sông ấy - đang xối xả, nằm mãi dưới sâu thẳm dưới cầu, rồi sau đó xô xuống, với những tiếng gào thét ghê gớm trên Thác Karma, một khe vực thậm chí còn hun hút hơn và khủng khiếp hơn.
Tôi hỏi Jonathan:
- Làm sao ngưòi ta bắc được chiếc cầu qua một khe vực kinh khủng như vậy?
- Anh cũng đang muốn biết đây, - anh trả lời. - Và bao nhiêu mạng ngưòi đã tham gia bắc cây cầu này? Bao nhiêu người đã kêu một tiếng rồi rơi xuống đó, mất hút trong dòng Thác Karma? Anh rất muốn biết tất cả những chuyện đó.
Tôi rùng mình, tưởng tượng ra rằng tôi có thể nghe được những tiếng kêu còn vang mãi giữa những vách núi.
Chỗ này đã là rất gần xứ sở của Tengil. Phía bên kia cầu, tôi trông thấy một con đường chạy ngoằn ngoèo trong núi: Những Ngọn núi Cổ xưa của Karmanyaka.
- Cứ đi theo con đưòng đó sẽ tới lâu đài của Tengil, - Jonathan nói.
Tôi lại rùng mình, nhưng tôi nghĩ ngày mai có chuyện của ngày mai - còn tối nay, tôi được lần đầu tiên trong đời ngồi cùng Jonathan bên ngọn lửa trại.
Chúng tôi đốt lửa trong một hõm đá cao trên thác nước, chỗ gần cầu. Nhưng tôi ngồi quay lưng lại tất cả, vì tôi không muốn trông thấy chiếc cầu bắc qua xứ sở của Tengil, cũng chẳng thiết nhìn bất kì cái gì khác nữa. Tôi chỉ nhìn ánh sáng ngọn lửa bập bùng giữa các vách núi, và thế cũng đủ đẹp và có phần hơi khủng khiếp rồi. Rồi tôi nhìn khuôn mặt đẹp và đôn hậu của Jonathan trong ánh lửa, và hai chú ngựa đang đứng nghỉ cách đó một quãng.
- Ngọn lửa trại này đẹp hơn ngọn lửa trước của em nhiều. Vì bây giờ em được ở bên anh, Jonathan ạ. - tôi nói.
Dù đang ở đâu, cứ có Jonathan ở bên là tôi luôn cảm thấy vững dạ, và tôi rất sung sướng khi cuối cùng tôi đã được ngồi bên ngọn lửa trại cùng anh, điều chúng tôi đã từng nói đến không biết bao nhiêu lần khi chúng tôi còn sống dưới trần.
- Những ngày của lửa trại và truyền thuyết, anh có nhớ là đã nói câu đó không? - Tôi hỏi Jonathan.
- Có chứ, anh nhớ chứ, - Jonathan đáp. - Nhưng khi đó anh chưa biết rằng ở Nangiyala này lại có những huyền thoại xấu xa như vậy.
- Không lẽ lúc nào cũng phải thế này sao? - Tôi hỏi.
Anh ngồi lặng một lúc, đăm đăm nhìn ngọn lửa, rồi nói:
- Không. Sau khi đánh trận cuối cùng, Nangiyala có thể sẽ lại trở thành một xứ sở của những truyền thuyết đẹp đẽ, và cuộc sống rồi sẽ dễ dàng và giản dị, như trước đây vậy.
Ngọn lửa chợt bừng lên, và trong ánh sáng, tôi thấy anh mệt mỏi và buồn bã biết nhường nào.
- Nhưng trận đánh cuối cùng ấy, Qui Ròn có biết không, đó chỉ có thể là một truyền thuyết ác quỉ với toàn cái chết, cái chết và cái chết. Nên Orvar phải chỉ huy trận đó, anh chịu thôi. Vì anh có giỏi giang gì chuyện giết chóc đâu.
Đúng, em hiểu, tôi nghĩ bụng. Sau đó tôi hỏi anh:
- Tại sao anh cứu mạng cho cái gã Park đó? Như thế có phải việc tốt không?
- Anh không biết đó có phải là việc tốt hay không, - Jonathan trả lời. - Nhưng có những việc mình cần phải làm, nếu không mình không còn là thằng người, mà chỉ còn là một mớ rác rưởi. Anh đã nói với em trước đây như vậy rồi.
- Nhưng giả sử hắn nhận ra anh là ai, - tôi hỏi tiếp. - Và bọn chúng bắt anh?
- Thì lúc đó chúng bắt được Tim Sư tử chứ không phải một mớ rác rưởi, - Jonathan đáp.
Ngọn lửa đang lụi dần, và bóng tối đã phủ xuống các ngọn núi, lúc đầu một thoáng hoàng hôn làm cho mọi cái đều gần như trở nên dịu dàng, thân thiện, mềm mại, rồi sau đó là một màn tối đen ào ào, trong đó ta không còn nghe thấy gì khác ngoài Thác Karma, và chẳng còn nhìn thấy mảy may một tia sáng nào nữa.
Tôi nép sát vào Jonathan, và chúng tôi ngồi đó, lưng tựa vào vách núi, chuyện trò với nhau trong bóng đêm. Tôi không sợ hãi, nhưng một cảm giác bứt rứt là lạ đang lan khắp người tôi. Chúng tôi cần đi ngủ, Jonathan bảo thế, nhưng tôi biết rằng tôi không thể ngủ được. Tôi cũng không nói được, vì cái cảm giác lo lắng bứt rứt ấy, mà nó không liên quan gì tới bóng tối, mà tới cái gì đó khác cơ, tôi không biết cụ thể đó là gì. Nhưng dù sao tôi đang có Jonathan bên cạnh.
Có một tia chớp, rồi một tiếng sấm, âm thanh ấy đập vào vách núi, dội đến chỗ chúng tôi, một trận bão ngoài mọi sự tưởng tượng, tiếng sấm cứ lan khắp các ngọn núi, rền lên thậm chí nhấn chìm cả âm thanh của Thác Karma và chớp loè liên tiếp. Thỉnh thoảng, ánh sáng loé lên và một khoảnh khắc sau trời lại tối hơn trước; dường như một đêm của thời cổ xưa đang trùm lên chúng tôi.
Rồi một tia chớp nữa, kinh khủng hơn tất cả các tia chớp khác, trong một tích tắc chiếu rực và rọi sáng tất cả.
Và lúc ấy, trong ánh sáng ấy, tôi thấy Katla. Tôi đã thấy Katla.