Chương 13
Phải, tôi đã thấy Katla, nhưng tôi không biết sau đó chuyện gì đã xảy ra. Tôi bị rơi vào nơi sâu thẳm tối đen và chỉ tỉnh dậy sau khi bão tố đã qua và ánh sáng bắt đầu xuất hiện phía sau những đỉnh núi. Tôi đang nằm, đầu gối vào lòng Jonathan, và nỗi kinh hoàng lại tràn ngập tôi ngay khi tôi nhớ lại - ở đó, mãi phía bên kia sông, Katla đứng trên một mỏm đá, cao phía trên Thác Karma. Tôi khẽ rên khi nhớ lại chuyện đó, và Jonathan cố làm cho tôi bớt sợ.
- Nó không còn ở đó nữa đâu. Nó đi rồi.
Nhưng tôi khóc và hỏi anh:
- Tại sao những thứ quái đản như Katla lại tồn tại được? Đó có phải là...là một con quỉ không? Hay là cái gì?
- Đúng, đó là một con quỉ, - Jonathan trả lời. - Một con rồng cái, hiện lên từ thuở xa xưa; nó đấy, và nó cũng tàn ác như chính Tengil vậy.
- Tengil kiếm đâu ra nó? - Tôi hỏi.
- Nó từ Hang Katla chui ra, mọi người nghĩ như vậy. - Jonathan giải thích. Một đêm từ ngày xửa ngày xưa nó ngủ gục trong đó, rồi ngủ hết ngàn năm này sang ngàn năm khác, và không ai biết rằng có nó tồn tại trên đời. Nhưng một buổi sáng, nó thức giấc; một buổi sáng hãi hùng, nó bò tới lâu đài của Tengil, phun ngọn lửa chết chóc vào tất cả mọi người, và nó đi đến đâu, người gục chết đến đó.
- Thế sao nó không giết Tengil? - Tôi lại hỏi.
- Tengil chạy tháo thân qua những gian phòng lớn trong lâu đài của hắn. Khi nó tới gần hắn, hắn vớ được một chiếc tù và to dùng để thổi gọi lính, và khi hắn thổi tù và...
- Thì sao? - Tôi hỏi.
- Thì Katla bò rạp đến chỗ hắn như một con chó. Từ đó trở đi, nó phục tùng Tengil. Và chỉ một mình Tengil. Nó sợ chiếc tù và của hắn. Khi hắn thổi, nó phục tùng một cách mù quáng.
Trời càng sáng hơn. Những đỉnh núi bên Karmanyaka rực lên như ngọn lửa của Katla, mà chúng tôi lại phải chuẩn bị sang Karmanyaka bây giờ! Tôi sợ vô cùng, ôi, sợ đến hãi hùng! Ai biết đâu là liệu Katla có đang nằm chờ hay không? Nó đang ở đâu, nó sống ở đâu, nó có sống trong Hang Katla không, và như vậy thì làm sao Orvar có thể ở đó được? Tôi hỏi Jonathan và anh kể cho tôi nghe hết.
Katla không sống trong Hang Katla. Sau khi ngủ giấc ngủ ngàn xưa dậy, nó không bao giờ quay về đó nữa; không bao giờ, Tengil xiềng nó trong một cái hang gần Thác Karma. Trong hang đó, nó bị xiềng bằng một chiếc xích vàng, Jonathan kể, và nó phải ở đó, trừ khi Tengil đem nó đi cùng để gieo rắc nỗi kinh hoàng cho những người hắn muốn.
- Anh thấy nó một lần trong Thung lũng Bông hồng Dại, - Jonathan nói.
- Anh có kêu không? - Tôi hỏi.
- Có, anh đã hét lên - anh đáp.
Nỗi kinh sợ đang dâng lên trong tôi.
- Em sợ lắm, Jonathan ạ. Katla sẽ giết chết chúng mình mất.
Anh lại cố sức trấn an cho tôi.
- Nhưng nó bị xiềng lại rồi. Nó không thể đi xa hơn chiều dài chiếc xích được, không đi quá mỏm núi mà em thấy nó đâu. Gần như lúc nào nó cũng ở đó và nhìn chằm chặp xuống Thác Karma.
- Tại sao vậy? - Tôi hỏi.
- Anh không biết, - Jonathan nói. - Có thể nó tìm kiếm Karm.
- Karm là ai? - Tôi hỏi.
- Chà, đó là theo chuyện kể của bác Elfrida, - Jonathan kể. - Chưa ai nhìn thấy Karm bao giờ. Nó không tồn tại. Nhưng bác Elfrida bảo rằng ngày xưa nó từng sống ở Thác Karma, và rằng Katla rất ghét nó và không thể quên chuyện cũ. Vì thế, nó cứ đứng đó nhìn xuống.
- Nhưng Karm là ai mà lại sống được trong một thác nước kinh khủng đến vậy? - Tôi hỏi.
- Nó cũng là một con quỉ, - Jonathan trả lời. - Một con rắn biển, dài đúng bằng chiều rộng của con sông này, bác Elfrida bảo thế. Nhưng có thể đó chỉ là một trong những truyền thuyết từ xưa.
- Nhưng có khi nó cũng là một truyền thuyết như Katla thì sao?
Anh không trả lời câu hỏi đó, mà nói:
- Em có biết lúc em vào rừng nhặt dâu dại, bác Elfrida nói gì với anh không? Bác ấy nói rằng khi bác còn bé, mọi người thường đem chuyện Karm và Katla ra doạ trẻ con. Truyền thuyết về con rồng trong Hang Katla và về con rắn biển dưới Thác Karma - khi bé bác ấy được nghe rất nhiều lần, và bác ấy rất thích, vì chuyện thật kinh khủng. Đó là một trong những truyền thuyết cổ mà mọi người lúc nào cũng đem ra dọa trẻ con, bác Elfrida nói thế.
- Không lẽ Katla không thể tiếp tục ở trong hang của nó và tiếp tục chỉ là một truyền thuyết? - tôi hỏi.
- Ừ, bác Elfrida cũng tưởng đúng như vậy, - Jonathan trả lời.
Tôi rùng mình và tự hỏi phải chăng Karmanyaka là một xứ sở đầy quỉ dữ; tôi không muốn tới đó. Nhưng bây giờ thì tôi phải đi rồi.
Chúng tôi trước hết tăng sức bằng đồ ăn trong chiếc bị, để dành thức ăn cho Orvar, vì Jonathan nói trong Hang Katla thì chỉ có đói khát mà thôi.
Grim và Fyalar uống nước mưa đọng lại trên các khe đá. Ở chỗ núi non này không có cỏ tốt cho chúng gặm, nhưng cạnh cầu có ít cỏ, nên tôi nghĩ chúng cũng đã ăn tạm đủ no khi chúng tôi lên đường.
Chúng tôi phi ngựa qua cầu sang Karmanyaka, xứ sở của Tengil, và xứ sở của quỉ dữ. Tôi sợ hãi tới mức lúc nào người cũng run rẩy. Cái con rắn biển ấy, có lẽ tôi không tin một cách nghiêm túc rằng nó có thật, nhưng đồng thời, giả sử bất chợt nó vùng dậy khỏi vực sâu và lôi tuột chúng tôi khỏi cầu biến mất dưới Thác Karma thì sao? Và còn Katla nữa; tôi sợ nó hơn tất cả mọi thứ. Có lẽ bây giờ nó đang rình chúng tôi, ngay bên kia, trên bờ đất của Tengil, với những chiếc răng nanh độc và ngọn lửa chết người của nó; ôi, sao tôi sợ thế.
Nhưng chúng tôi qua cầu, và tôi không thấy Katla đâu. Nó không có mặt trên mỏm đá của nó, và tôi nói với Jonathan:
- Đúng, nó không có đây thật.
Thế nhưng nó lại vẫn ở đó. Không ở trên mỏm đá, nhưng cái đầu khủng khiếp của nó đang nhô ra từ sau một khối đá khổng lồ bên đường tới lâu đài của Tengil. Chúng tôi thấy nó ở đó. Và nó cũng thấy chúng tôi, nó gầm lên một tiếng tưởng sụp cả núi, những luồng khói lửa từ mũi nó phun ra phì phì khi nó đang giận sôi lên và nhảy chồm chồm quanh chỗ xiềng, cứ thế, vừa nhảy lên nhảy xuống vừa gầm thét.
Grim và Fyalar rúm vào nhau vì sợ, đến mức chúng tôi không thể giữ nổi, mà tôi cũng đang sợ hãi đâu có kém chúng. Tôi van vỉ Jonathan nên quay về Nangiyala, nhưng anh nói:
- Chúng mình không được làm cho chú Orvar thất vọng. Đừng sợ. Katla không vươn đến chỗ mình được đâu, dù nó có giằng đi giật lại xiềng của nó đến thế nào đi chăng nữa.
Còn chúng ta cũng phải nhanh lên, anh nói, vì tiếng gào thét của Katla chính là một tín hiệu mà ở mãi lâu đài Tengil cũng nghe thấy, và chẳng mấy chốc lại có một đàn lính của Tengil đuổi theo chúng tôi nếu chúng tôi không mau mau chạy vào núi tìm nơi ẩn náu.
Chúng tôi phóng đi; chúng tôi cứ phóng theo những con đường tồi tàn, nhỏ hẹp lại dốc trên núi, phóng tới mức bắn ra những tia lửa, phóng quanh đi quanh lại lòng vòng giữa những tảng đá để đánh lạc hướng kẻ nào định đuổi theo. Cứ chốc chốc, tôi lại tưởng như nghe thấy tiếng ngựa phi đuổi phía sau cùng những tiếng hò hét của bọn lính Tengil đang nào gươm giáo, nào tên nỏ đuổi bắt chúng tôi. Nhưng có ai đâu. Có lẽ đuổi bắt ai giữa vùng núi non lởm chởm của Karmanyaka này là điều khó khăn, còn kẻ bị săn đuổi lại dễ thoát khỏi tay kẻ săn đuổi.
Khi chúng tôi phóng được một lúc lâu, tôi hỏi Jonathan:
- Chúng mình đang đi đâu đây?
- Tất nhiên là tới Hang Katla, - anh trả lời. - Chúng mình sắp tới nơi rồi. Núi Katla ở ngay trước mũi em đó.
Phải rồi. Trước mặt chúng tôi là một quả núi thấp, bằng phẳng với sườn dốc thoai thoải xuống. Chỉ ở phía chúng tôi là ít dốc hơn, và từ đó chúng tôi có thể đi ngược lên dễ dàng, nếu chúng tôi muốn; mà chúng tôi muốn thế thật, vì Jonathan bảo rằng chúng tôi phải băng qua quả núi đó ngay.
- Cửa vào hang nằm ở phía bên kia núi, quay mặt ra phía sông, - anh nói. - Và anh phải xem xem điều gì xảy ra ở đó.
- Jonathan này, có thật anh nghĩ rằng chúng mình có thể vào trong Hang Katla được không? - Tôi hỏi.
Anh đã từng kể với tôi về chiếc cổng đồ sộ bằng đồng chắn ngang cửa vào hang, và về những tên lính Tengil ngày đêm đứng gác ngoài hang. Thế thì làm thế quái nào mà chúng tôi lọt vào hang được?
Anh không trả lời tôi, chỉ nói rằng chúng tôi bây giờ phải giấu ngựa đi đã, vì ngựa không biết trèo núi. Chúng tôi dắt chúng vào một hẻm có mái che ngay dưới chân Núi Katla và để chúng ở đó, cả ngựa, đồ đạc, mọi thứ. Jonathan vỗ về Grim và dặn:
- Chờ ở đây nhé. Chúng tớ chỉ đi thám thính thôi.
Tôi không thích cái ý nghĩ ấy, vì tôi không muốn rời khỏi Fyalar, nhưng thích hay không thích thì cũng chẳng ích gì.
Phải mất một lúc lâu chúng tôi mới trèo lên tới mặt bằng trên đỉnh núi, và khi tới nơi tôi mệt rã rời. Jonathan nói chúng tôi có thể nghỉ một lát, thế là tôi nằm xoài ngay ra đất. Jonathan cũng vậy. Chúng tôi nằm đó, trên đỉnh núi Katla, phía trên là bầu trời rộng lớn và ngay phía dưới là Hang Katla. Ừ, nghĩ mà lạ: trong lòng núi, ở chỗ nào đó phía dưới chúng tôi chính là cái hang khủng khiếp với bao ngóc ngách và hang hốc, nơi bao người đã trở nên tàn tạ và chết đi. Còn ở ngoài này, bướm đang tung cánh dưới ánh mặt trời, bầu trời trên đầu chúng tôi xanh cao với những tảng mây trắng, và hoa cỏ đang lớn lên xung quanh chúng tôi.
Thật lạ là hoa cỏ lớn lên trên nóc Hang Katla.
Tôi băn khoăn tự hỏi rằng nếu bao nhiêu người đã chết trong Hang Katla, thì biết đâu Orvar cũng đã chết rồi, và tôi hỏi xem Jonathan có cùng nghĩ như vậy không. Anh không trả lời. Anh chỉ nằm đó, nhìn đăm đăm lên trời, nghĩ về chuyện gì đó, tôi thấy như vậy. Cuối cùng, anh nói:
- Nếu đúng là Katla ngủ giấc ngủ ngàn xưa trong Hang Katla, thì khi tỉnh giấc nó đi ra theo đường nào? Khi đó, chiếc cổng đồng đã có ở đấy rồi. Tengil vẫn thường dùng Hang Katla làm trại giam của hắn.
- Trong khi Katla vẫn đang ngủ trong đó ư? - Tôi hỏi.
- Đúng vậy, trong khi Katla vẫn đang ngủ trong đó, - Jonathan đáp. - Không ai biết cả.
Tôi lạnh cả người. Tôi không thể nghĩ ra chuyện gì tồi tệ hơn thế; cứ thử nghĩ đến cảnh bị ngồi tù trong Hang Katla rồi trông thấy một con rồng bò ra như vậy mà xem!
Nhưng Jonathan lại đang nghĩ chuyện khác.
- Nó phải đi ra theo đường khác, - anh nói. - Và anh phải tìm thấy con đường đó, cho dù có mất một năm.
Chúng tôi không thể nghỉ ngơi thêm nữa, vì Jonathan đang sốt ruột lắm rồi. Chúng tôi đi tới phía Hang Katla, chỉ qua núi một quãng ngắn đi bộ. Chúng tôi đã thấy con sông mãi tít phía dưới chúng tôi, còn Nangiyala ở phía bên kia; ôi, sao tôi thèm được về bên ấy thế.
- Jonathan ơi, trông kìa. Em nhìn thấy cây liễu cạnh chỗ bọn mình tắm kìa. Kia kìa, phía bên kia sông ấy.
Nhưng Jonathan ra hiệu cho tôi im lặng, sợ rằng có người nghe thấy chúng tôi vì lúc này chúng tôi đã gần lắm rồi. Đây là nơi Núi Katla kết thúc bằng một mỏm đá chạy vuông góc, và nơi sườn núi phía dưới chúng tôi là chiếc cổng đồng ngăn đường vào Hang Katla, Jonathan nói thế, mặc dù chúng tôi không nhìn thấy nó ở đó.
Nhưng chúng tôi có thể thấy bọn lính gác, ba tên lính Tengil; tôi chỉ cần nhìn thấy mũ sắt đen của chúng là tim đã đập thình thịch rồi.
Chúng tôi phải gập bụng sát góc cạnh của mỏm đá thì mới nhìn xuống chỗ chúng được, nhưng chúng chỉ cần ngước mặt lên là thấy chúng tôi ngay. Nhưng không bọn lính gác nào lại vô dụng hơn bọn này, vì chúng chẳng nhìn đi đâu cả, mà chỉ ngồi đánh bài xúc xắc, không bận tâm về bất kì chuyện gì khác. Vì có kẻ thù nào chui được qua cổng đồng, nên canh gác để làm gì?
Ngay lúc đó chúng tôi thấy cánh cổng bật mở, rồi có một người bước ra khỏi hang - một tên lính Tengil nữa. Hắn cầm theo một chiếc bát ăn cơm không đựng gì; hắn quẳng chiếc bát xuống đất. Cánh cửa khép lại phía sau hắn, và chúng tôi nghe tiếng hắn khóa cổng.
- Xong, con lợn ấy đã được cho ăn lần cuối cùng rồi, - hắn nói.
Bọn kia cười, và một tên trong bọn nói:
- Thế mày có cho nó biết hôm nay là một ngày đặc biệt không - ngày chót của đời hắn? Tao chắc mày đã cho nó biết rằng Katla đang chờ nó tối nay, khi màn đêm buông xuống chứ?
- Có, và bọn mày có biết nó nói sao không? "Ừ, thì chết. Cuối cùng cũng xong", nó nói vậy. Và nó yêu cầu được gửi một bức thư cho Thung lũng Bông hồng Dại. Thư viết gì nào? "Orvar có thể chết, nhưng tự do thì không bao giờ!"
- Xì! - Một thằng khác nói. - Tối nay, nó đi mà nói câu đó với Katla, để xem con rồng cái ấy nói gì.
Tôi quay sang Jonathan; mặt anh tái xanh.
- Đi thôi, chúng mình phải đi khỏi chỗ này ngay.
Chúng tôi rời khỏi mỏm đá đó hết sức nhanh và êm, và khi biết rằng không ai trông thấy chúng tôi nữa, chúng tôi chạy. Suốt quãng đường quay lại, chúng tôi chạy không dừng, cho tới khi về đến chỗ Grim và Fyalar.
Chúng tôi ngồi cùng hai con ngựa trong hẻm đá, vi chẳng biết phải làm gì bây giờ. Jonathan thì buồn, mà tôi thì không biết làm gì để an ủi anh, nên cũng chỉ biết buồn nốt. Tôi thấy anh ấy thương xót Orvar biết bao. Anh tưởng rằng anh có thể giúp được chú ấy, và bây giờ thì không còn tin như vậy nữa rồi.
- Chú Orvar ơi, người thân của cháu ơi, cháu chưa bao giờ gặp chú, - anh nói. - Đêm nay, chú sẽ chết, và rồi điều gì sẽ xảy ra với những thung lũng xanh của Nangiyala?
Chúng tôi ăn chút bánh mì, chia cho cả Grim và Fyalar. Tôi cũng muốn làm một hai ngụm sữa dê, vì chúng tôi có để dành được một ít.
- Chưa được đâu, Qui Ròn, - Jonathan nói. - Đêm nay, khi trời tối hẳn, anh sẽ cho em uống hết. Nhưng trước đó thì chưa được.
Suốt một lúc lâu, anh ngồi thật im lặng, chán nản, nhưng cuối cùng anh nói:
- Anh biết là cũng sẽ như tìm kim đáy bể thôi. Nhưng chúng mình cứ thử xem, đằng nào cũng thế.
- Thử cái gì? - Tôi hỏi.
- Thử tìm xem Katla đã chui ra theo hướng nào - anh đáp.
Nhưng tôi có thể thấy chính anh cũng chẳng tin vào chuyện đó.
- Giá chúng mình có một năm, thì chúng mình có thể. Nhưng chúng mình lại chỉ có mỗi một ngày. - anh nói.
Ngay khi anh còn đang nói như vậy, thì có một chuyện xảy ra. Trong một hẻm nhỏ nơi chúng tôi đang ngồi, có vài bụi cây mọc ở phía cuối sườn núi, và từ trong những bụi cây ấy, một con cáo nhớn nhác đột nhiên xuất hiện, chạy vụt qua chỗ chúng tôi và gần như mất hút trước khi chúng tôi kịp nhìn thấy nó.
- Con cáo này chui từ chỗ quái nào ra thế nhỉ? - Jonathan thắc mắc. - Mình phải tìm ra mới được.
Anh biến mất sau bụi cây. Tôi vẫn ở nguyên chỗ cũ chờ đợi, nhưng anh biến đi lâu quá, im ắng quá, nên về sau tôi thấy không yên tâm.
- Jonathan ơi, anh đâu rồi?
Và tôi nghe tiếng trả lời thật. Tiếng anh nghe như dại đi.
- Em có biết con cáo từ đâu ra không? Từ trong lòng núi! Em biết không, Qui Ròn, từ trong lòng Núi Katla! Đây có cái hang to lắm.
Có lẽ mọi chuyện đã được định trước từ ngàn xưa trong các truyền thuyết. Có lẽ ngay từ khi đó Jonathan đã được chỉ định làm người cứu mạng cho Orvar vì Thung lũng Bông hồng Dại. Và có lẽ đã có những nhân vật bí mật nào đó trong các truyền thuyết có đưa đường dẫn lối cho chúng tôi mà chúng tôi không hay biết gì. Chứ không thì làm sao Jonathan lại có thể tìm được đường tới Hang Katla đúng ngay tại nơi chúng tôi vô tình buộc ngựa? Chuyện này cũng kì lạ y như chuyện tôi vô tình tìm đến đúng nhà ông Mathias chứ không phải nhà ai khác giữa tất cả những ngôi nhà ở Thung lũng Bông hồng Dại.
Lối ra của Katla từ Hang Katla; hẳn đó chính là nơi Jonathan vừa tìm ra; chúng tôi không thể tin khác được. Đó là một ngách xuyên thẳng vào sườn núi, không rộng chút nào, nhưng vừa đủ cho một con rồng cái đói bụng đi qua, Jonathan tả cho tôi nghe, nếu nó tỉnh dậy sau giấc ngủ ngàn năm và thấy đường đi bình thường của nó đã bị chiếc cổng đồng chặn lại.
Và đủ rộng cho chúng tôi nữa. Tôi nhìn vào hang tối. Liệu trong đó còn bao nhiêu con rồng đang ngủ nữa, có con nào sẽ tỉnh giấc khi mình chui vào và vô tình dẫm chân lên nó? Tôi băn khoăn tự hỏi. Khi ấy, tôi cảm thấy cánh tay Jonathan đang choàng lên vai tôi.
- Qui Ròn này, - anh nói. - Anh chẳng biết có gì đang đợi anh trong bóng tối trong đó, nhưng anh phải vào đấy đây.
- Em cũng vậy, - tôi đáp, giọng hơi run.
Jonathan dứ dứ ngón tay trỏ vào má tôi, như đôi khi anh vẫn làm.
- Em có chắc là em không muốn ở ngoài này cùng mấy con ngựa chờ anh không?
- Em đã chẳng nói với anh rằng anh đi đâu thì em cũng đi đó sao? - Tôi hỏi lại.
- Nhớ chứ, đúng là em có nói như thế, - Jonathan đáp và giọng anh thật vui.
- Vì em muốn được bên anh, - tôi nói tiếp. Cho dù có phải xuống bảy tầng địa ngục cũng vậy.
Hang Katla là một loại bảy tầng địa ngục. Trườn theo cái hang tối đen đó cũng y như trườn qua một cơn ác mộng tối đen mà mình không sao tỉnh dậy được; cũng y như đang đi từ ngoài ánh sáng mặt trời vào trong đêm đen vĩnh cửu.
Toàn bộ Hang Katla không là gì khác ngoài hang ổ của một con rồng già đã chết, tôi nghĩ bụng, bốc lên đầy mùi bệnh hoạn chết chóc từ ngàn xưa. Chắc chắn rằng hàng ngàn trứng rồng đã được ấp trong hang, và những con rồng tàn ác đã bò ra đàn đàn lũ lũ và giết chóc tất cả trên đường chúng đi.
Hang ổ của một con rồng già đúng là loại địa điểm mà Tengil có thể nghĩ là nơi thích hợp đặt trại giam. Tôi rùng mình khi nghĩ tới những gì hắn đã làm với mọi người ở đây. Tôi có cảm giác rằng không khí ỏ đây đặc sệt những mùi bệnh hoạn chết chóc đã khô cứng từ lâu, những tiếng thầm thì vọng tới từ đâu đó mãi sâu trong hang kể lể về mọi chuyện đày ải, nước mắt và chết chóc mà Hang Katla đã từng phải trải qua dưới sự cai trị của Tengil. Tôi muốn hỏi xem Jonathan có cũng nghe thấy những tiếng thầm thì đó không, nhưng lại thôi, vì có thể chỉ là tôi tưởng tượng ra.
- Qui Ròn này, chúng mình đang làm một chuyến đi mà em sẽ không bao giờ quên đấy, - Jonathan nói.
Đúng vậy. Chúng tôi phải xuyên qua lòng núi để đến được chỗ giam Orvar ngay sát phía trong cổng đồng. Khi nói tới Hang Katla, mọi người muốn nói đến đúng chỗ đó vì mọi người đâu có biết những ngóc ngách khác, Jonathan nói vậy. Thậm chí chúng tôi cũng không thực sự biết là liệu có thể xuống được dưới lòng đất không. Nhưng chúng tôi biết chắc rằng đường chúng tôi đang đi là con đường dài, như chúng tôi đã phải cuốc bộ một chặng trước khi lên tới đỉnh núi, mà dò dẫm tìm đường đi xuống giữa nơi tối tăm này, chỉ với ánh sáng của cây đuốc chúng tôi đang cầm trong tay.
Ôi, thật kinh khủng khi nhìn thấy ánh sáng đuốc chờn vờn trên tường hang, chỉ đủ chiếu sáng một phần nhỏ của cả cái bóng tối bao trùm xung quanh chúng tôi, còn những phần ngoài tầm ánh sáng trông có vẻ nguy hiểm hơn. Tôi nghĩ bụng, ai biết đâu được rằng có thể có vô số những con rồng, con rắn biển, rồi những con quỉ sứ đang nằm trong các ngóc ngách tối om chờ chúng tôi. Tôi còn lo sợ rằng biết đâu chúng tôi sẽ bị lạc đường, nhưng Jonathan đã đánh dấu đường bằng tàn than của bó đuốc trong khi chúng tôi đi, để chúng tôi có thể tìm được đường trở lại.
Đi bộ. Jonathan đã bảo như vậy, nhưng chúng tôi có đi được bao nhiêu đâu. Chúng tôi bò, rồi trườn, rồi trèo, rồi bơi, rồi nhảy, rồi toài, rồi cả vật lộn, trầy trật, té nhào, chúng tôi phải như vậy đấy. Thế cũng gọi là đi! Rồi còn những ngóc ngách hang động nữa chứ!
Thỉnh thoảng chúng tôi đi vào những chiếc động khổng lồ, đến mức không nhìn thấy đâu là cuối động, trừ những tiếng vọng cho thấy chúng rộng như thế nào. Có khi chúng tôi phải đi qua những chỗ không thể đứng thẳng người được, mà phải nằm bẹp xuống mà bò như mọi con rồng khác. Đôi lúc, đường đi bị chặn lại bởi những con suối ngầm mình phải bơi mới qua được, và tồi tệ nhất, có những khi những khe vực sâu há ngoác miệng hiện ra ngay dưới chân. Tôi đã suýt thì ngã xuống một khe vực như vậy. Tôi đang cầm đuốc thì bị vấp, đánh rơi cây đuốc.
Chúng tôi nhìn thấy nó rơi xuống như một dòng lửa, hun hút hun hút xuống, đến khi mất tăm, còn chúng tôi đứng trơ ra trong bóng tối; cái bóng tối tồi tệ nhất và đen đủi nhất trên đời. Tôi không dám động đậy, nói năng gì, thậm chí không dám cả nghĩ nữa. Tôi cố quên rằng mình đang tồn tại, đang đứng trong bóng tối đen ngòm bên mép một khe vực. Nhưng tôi nghe tiếng Jonathan ở bên. Anh đốt tiếp một cây đuốc khác trong lúc nói chuyện với tôi, anh cứ nói một cách thật điềm tĩnh, cho tôi khỏi điên vì sợ, chắc thế.
Thế là chúng tôi lại loay hoay đi tiếp, trong bao lâu, tôi không biết, vì giữa nơi thăm thẳm của Hang Katla này thì làm gì có thời gian. Cứ như thể chúng tôi đã quanh quẩn trong này đến hàng thiên niên kỉ, và tôi bắt đầu lo rằng khi chúng tôi vào đến nơi thì đã quá muộn mất rồi. Mà có khi bây giờ đã là quá muộn rồi, có lẽ bóng đêm đã buông xuống ở đó rồi, còn Orvar... Có khi chú ấy đã bị đưa đến bên Katla rồi?
Tôi hỏi Jonathan xem anh ấy có nghĩ như vậy không.
- Anh không biết, - anh đáp. - Nhưng chớ có nghĩ đến chuyện đó lúc này, nếu em không muốn điên.
Chúng tôi đi tới một con đưòng nhỏ, chạy ngoắt ngoéo, như không có cuối đường, mà cứ mỗi lúc một thu hẹp lại, bó nhỏ lại, từng tí một, cả về chiều rộng lẫn chiều cao, đến khi chúng tôi đi vô cùng chật vật, rồi cuối cùng tới một chiếc lỗ mà chúng tôi phải bò qua.
Nhưng sang bên kia chiếc lỗ đó, chúng tôi lọt vào một chiếc động lớn, lớn không tả nổi, vì ánh sáng đuốc không vươn xa nổi. Nhưng Jonathan thử tiếng vọng.
- Hô hô hô ô... - anh kêu to, và chúng tôi nghe thấy những tiếng vọng trả lời "Hô hô hô ô..." vang lên nhiều lần từ nhiều hướng.
Nhưng rồi chúng tôi còn nghe thấy một tiếng gì đó khác nữa: một tiếng nói xa xa trong bóng tối.
- Hô hô hô ô... - tiếng nói đầy vẻ giễu cợt. - Các người muốn gì, các người là ai mà lại đi theo con đường lạ lùng với đèn đuốc như vậy?
- Tôi đi tìm Orvar, - Jonathan đáp.
- Orvar đang ở đây, - tiếng nói đó trả lời. - Còn các người là ai?
- Tôi là Jonathan Tim Sư tử - Jonathan nói. - Và cùng đi với tôi là em trai tôi, Karl Tim Sư tử. Chúng tôi tới để cứu Orvar.
- Quá muộn rồi, - tiếng nói đó nói tiếp. - Quá muộn rồi, nhưng dầu sao thì cũng cám ơn.
Tiéng nói chưa dứt thì chúng tôi nghe tiếng cổng đồng ken két mở. Jonathan ném bó đuốc và di di cho tắt; rồi chúng tôi đứng im chờ đợi.
Một tên lính Tengil tay cầm chiếc đèn bão qua cổng đi vào. Tôi thầm kêu lên, không phải vì sợ, mà vì thương Orvar. Sao trời có thể tàn nhẫn để cho chúng đến bắt chú ấy đi đúng vào lúc này!
- Orvar của Thung lũng Bông hồng Dại, chuẩn bị sẵn sàng đi, - tên lính Tengil nói. - Chỉ giây lát nữa, nhà ngươi sẽ bị đưa đến chỗ Katla. Đội áp tải đen đang trên đường đến đây rồi.
Dưới ánh sáng của ngọn đèn bão, chúng tôi có thể thấy một chiếc cũi lớn làm bằng những súc gỗ rắn chắc, và chúng tôi cũng thấy trong chiếc cũi đó, Orvar đang bị nhốt như một con vật.
Tên lính Tengil đặt cây đèn bão xuống đất, cạnh cũi.
- Cho mày được có cây đèn này trong giờ phút cuối cùng. Vì lòng nhân từ, ngài Tengil đã quyết định như vậy, để mày được quen lại với ánh sáng và có thể nhìn thấy Katla khi mày gặp nó; tao chắc mày muốn được như vậy.
Hắn cười nhạt và biến ra khỏi cổng, đóng rầm cánh cổng lại phía sau hắn.
Ngay tức khắc, chúng tôi đã đến bên chiếc cũi và Orvar, và dưới ánh sáng của ngọn đèn bão, chúng tôi nhìn thấy chú, một bóng hình tiều tụy, khi chú ấy khó có thể di chuyển được, mà phải lết ra song cũi, với tay về phía chúng tôi qua những thanh gỗ.
- Jonathan Tim Sư tử, - chú nói. - Khi còn ở nhà trong Thung lũng Bông hồng Dại, chú đã nghe nói nhiều về cháu. Và giờ đây, cháu đã tới được đây.
- Vâng, giờ đây, cháu đã tới được đây, - Jonathan nói, và rồi tôi cũng nghe thấy anh rên lên vì thương Orvar và thân hình tiều tụy của chú. Nhưng anh rút phắt con dao con từ thắt lưng ra và bắt đầu chặt khung cũi.
- Làm đi, Qui Ròn! Giúp anh một tay đi nào! - Anh nói, và tôi cũng dùng dao con của tôi để chặt, nhưng chúng tôi làm được cái gì bằng hai con dao cơ chứ? Chúng tôi cần phải có môt chiếc rìu và một chiếc cưa.
Nhưng chúng tôi cứ chặt như vậy bằng dao đến khi tay bật máu. Chúng tôi vừa chặt vừa khóc vì biết rằng mình đã đến chậm. Orvar cũng biết vậy, nhưng có lẽ chú không muốn tin như vậy, nên từ trong cũi, chú cứ hổn hển, chốc chốc lại lẩm bẩm:
- Nhanh lên! Nhanh tay lên!
Chúng tôi làm nhanh nên máu chảy ròng ròng. Chúng tôi chặt như phát dại, vì bất cứ lúc nào cánh cổng cũng có thể mở và đám lính áp tải đen cũng có thể vào. Khi đó thì hết Orvar, hết chúng tôi, và hết cả Thung lũng Bông hồng Dại. Chúng sẽ không phải chỉ tóm được một, tôi nghĩ bụng. Katla đêm nay sẽ được xơi ba.
Tôi cảm thấy tôi không thể chịu đựng được hơn nữa; hai tay tôi run lên đến nỗi tôi khó mà cầm chắc nổi dao, còn Jonathan thì quát lên vì giận dữ, giận dữ với những súc gỗ không chịu thua, cho dù chúng tôi đã chặt bao nhiêu lần. Anh đá chân vào gỗ, quát lên, đá, rồi lại chặt, lại đá, và cuối cùng có một chỗ vỡ, đúng, cuối cùng một thanh gỗ đã chịu thua. Rồi một thanh nữa. Đủ rồi.
- Xong rồi, chú Orvar, xong rồi! - Jonathan nói, nhưng đáp lại anh chẳng có gì khác ngoài một tiếng rên. Thế là Jonathan bò vào trong cũi, kéo Orvar ra; chú không đứng lên được, cũng không đi nổi. Đến khi đó, chính tôi cũng vậy, nhưng tôi cố lết đi trước hai người, tay cầm chiếc đèn, còn Jonathan kéo Orvar về phía lỗ thoát thân của chúng tôi. Anh ấy cũng mệt và thở hổn hển; ồ, mà cả ba chúng tói đều đang thở hổn hển như mấy con vật bị săn đuổi, cả ba chúng tôi, đúng y như cảm giác của chúng tôi; hoặc ít nhất cũng đúng y như cảm giác của riêng tôi.
Nhưng dù có chật vật, Jonathan cũng kéo được Orvar qua chiếc động, chui vào trong chiếc lỗ, và thật kì diệu, kéo theo được cả Orvar, lúc này một phần sống thì ba phần chết, mà ngay tôi cũng vậy. Bây giờ đến lượt tôi chui qua chiếc lỗ đó, nhưng tôi còn đang loay hoay thì chúng tôi nghe tiếng ken két mở cổng, và thế là bao nhiêu sinh khí dường như biến tan trong tôi, và tôi không thể nhúc nhích được nữa.
- Mau, mau lên, đèn bão kìa! - Jonathan thở gấp, và tôi đưa đèn cho anh, cho dù tay đang run. Phải giấu đèn đi, vì chỉ cần một chút ánh sáng thôi cũng đủ để chúng tôi bị lộ.
Bọn áp giải đen - chúng đã vào trong hang, và thêm nhiều tên lính Tengil mang theo đèn bão. Hang sáng rực đến kinh hồn, nhưng trong góc chúng tôi vẫn tối, và Jonathan cúi xuống túm tay tôi, kéo tôi qua lỗ sang phía con đường tối đen phía bên kia, và chúng tôi nằm đó, cả ba người, vừa thở hổn hển vừa nghe bọn chúng kêu lên:
- Nó chuồn rồi! Nó chuồn rồi!