Chương 14
Đêm đó, chúng tôi đưa Orvar qua núi. Thực ra chỉ có Jonathan làm. Anh ấy kéo lê Orvar qua địa ngục; không còn cách nào khác mô tả việc này. Tôi chỉ gắng kéo lê chính mình, và chỉ có thế.
- Nó chuồn rồi! Nó chuồn mất rồi! - Chúng kêu lên, rồi sau đó im ắng, chúng tôi tưởng chúng sẽ đuổi theo, nhưng không. Ngay chính bọn lính Tengil chắc hẳn cũng phải nhận ra rằng có một con đường thoát khỏi Hang Katla, và rằng chẳng khó khăn gì để tìm ra con đường đó. Nhưng lũ lính Tengil ấy là một lũ hèn, chỉ dám đối chọi với quân địch khi mình có cả một đàn một lũ, nhưng không dám là thằng đầu tiên bò lên một con đường ngách nhỏ hẹp có quân địch bí mật đang phục kích. Đúng vậy, chúng hẳn phải hèn nhát lắm, chứ nếu không thì vì sao chúng để chúng tôi thoát dễ dàng đến vậy? Xưa nay chưa từng có ai thoát khỏi Hang Katla, và tôi tự hỏi không biết rồi chúng nó sẽ giải thích với Tengil thế nào về việc Orvar trốn thoát? Nhưng đấy là chuyện của chúng nó; chúng tôi lo chuyện của mình cũng quá đủ rồi.
Chúng tôi phải cố lê lết qua khỏi con đường dài và hẹp đó rồi mới dám dừng lại một lát để lấy lại hơi thở, mà thế chính là vì Orvar.
Jonathan đưa chú uống chỗ sữa dê đã bị chua và chỗ bánh mì đã bị ướt, thế mà chú vẫn bảo:
- Chú chưa bao giờ được ăn bữa nào ngon như bữa này.
Jonathan xoa bóp đôi chân khẳng khiu của chú để cho chúng hoạt động trở lại, và chú đã bắt đầu nhúc nhích, nhưng chưa đi được, mà chỉ bò được. Jonathan tả cho chú nghe chặng đường chúng tôi phải đi, và chúng tôi hỏi chú xem chú còn muốn đi tiếp đêm đó không.
- Có, có, có chứ, - Orvar đáp. - Nếu cần, chú sẽ bò từ đây về đến Thung lũng Bông hồng Dại. Chú không muốn nằm đây chờ lũ sói lang khát máu của Tengil tru hú dọc đường đuổi theo mấy chú cháu mình.
Đó là điều có thể nhận thấy ngay ở chú; không phải một tù nhân đã bị khuất phục, mà là một người nổi dậy, một chiến sĩ vì tự do, Orvar của Thung lũng Bông hồng Dại. Khi tôi thấy ánh mắt chú dưới ánh đèn bão, tôi hiểu vì sao Tengil sợ chú. Ốm yếu như vậy mà trong chú vẫn như có một ngọn lửa đang cháy, và có lẽ chính ngọn lửa đó đã đưa chú qua được cái đêm địa ngục ấy, bởi trong tất cả các đêm trên đời, không thể có đêm nào khốn khổ hơn thế.
Dường như đó là cả một cõi vĩnh hằng, đầy những điều khủng khiếp, những khi nguời ta đã quá mệt mỏi, kiệt sức, thì người ta chẳng còn cần để ý gì nữa, thậm chí cả đến việc liệu có bọn sói lang khát máu đang lần theo mình hay không; có đấy, chúng tôi có nghe thấy lũ lang sói đó lần theo, tru hú, la hét, nhưng tôi không còn sức mà sợ nữa. Dẫu sao, những tiếng đó cũng nhanh chóng lắng đi, vì ngay đến lũ lang sói khát máu cũng không dám mò sâu mãi tận nơi chúng tôi đang bò toài.
Chúng tôi cứ thế bò toài, lâu, lâu lắm, và cuối cùng khi chúng tôi chui ra ngoài ánh sáng ban ngày bên cạnh Grim và Fyalar, rã rời và đau nhức, bết máu và sũng người, kiệt quệ đến muốn chết, thì đêm đã qua, và ngày đã tới. Orvar dang rộng hai cánh tay như muốn ôm lấy cả đất trời cùng những gì chú trông thấy, nhưng rồi tay chú thõng xuống và chú ngủ gục. Chúng tôi không còn biết gì nữa, cả ba chúng tôi, ngủ thỉu đi không biết gì cho đến khi trời gần tối. Tôi thức giấc. Đó là nhờ Fyalar dùng mũi của nó dụi dụi vào tôi. Chắc nó cho rằng tôi ngủ như vậy đã đủ rồi.
Jonathan cũng thức dậy.
- Chúng ta cần ra khỏi Karmanyaka trước khi trời tối vì sau khi tối, chúng mình sẽ không tìm thấy đuờng. - anh nói.
Anh đánh thức Orvar, và khi Orvar tỉnh hẳn, ngồi dậy, nhìn quanh, và nhận ra rằng mình không còn trong hang Katla nữa, chú rơi nước mắt.
- Tự do rồi, tự do rồi. - chú lẩm bẩm.
Chú nắm tay Jonathan, giữ trong tay chú một lúc lâu.
- Cuộc đời của chú, tự do của chú - chính cháu đã giành lại cho chú - chú nói, và chú cũng cảm ơn tôi, mặc dù tôi chẳng làm gì gần như suốt đến tận bây giờ.
Hẳn Orvar cũng có cảm giác như tôi khi tôi được thoát khỏi mọi đau đớn và đến được Thung lũng Hoa Anh đào. Tôi mong mỏi sao cho chú được về tới thung lũng của chú, còn sống và tự do, nhưng chúng tôi vẫn chưa tới đó. Chúng tôi vẫn đang trong vùng núi Karmanyaka, bây giờ chắc đang đầy rẫy bọn lính Tengil tìm kiếm chú. Cũng may là bọn chúng chưa thấy chúng tôi ngủ trong khe hẻm ấy.
Chúng tôi ngồi đó, ăn nốt chỗ bánh mì còn lại, và sau một lúc, Orvar nói:
- Thử nghĩ xem, chú vẫn còn sống! Chú đã được tự do!
Vì chú là tù nhân duy nhất ở Hang Katla còn sống sót; tất cả những ngưòi khác đã bị lần lượt dâng nộp cho Katla.
- Nhưng hãy tin rằng thằng Tengil ấy, chú cam đoan là nó sẽ không để cho Hang Katla trống không lâu đâu.
Đôi mắt chú lại nhoè lệ.
- Ôi, Thung lũng Bông hồng Dại của ta. Người sẽ còn phải than thở bao lâu nữa dưói ách Tengil? - chú nói.
Chú muốn biết mọi điều đã xảy ra trong những thung lũng của Nangiyala trong thời gian chú bị cầm tù; về cô Sofia và về ông Mathias, và về tất cả những việc Jonathan đã làm. Jonathan còn kể cho chú nghe về Jossi.
Tôi tưởng chừng Orvar có thể chết ngay lúc đó, trước mặt chúng tôi khi chú nghe nói rằng mọi nỗi thống khổ suốt bao lâu nay của chú trong Hang Katla chính là do Jossi gây ra. Phải một lúc lâu sau, chú mới trở lại bình thường và nói năng lại được, và khi đó, chú nói:
- Cuộc đời của chú không có nghĩa gì cả. Nhưng những điều Jossi đã làm đối với Thung lũng Bông hồng Dại thì không bao giờ có thể trả giá hoặc được tha thứ.
- Có tha thứ hay không thì có lẽ bây giờ hắn ta cũng đã bị trừng trị rồi, - Jonathan nói. - Cháu nghĩ rằng chú sẽ không bao giờ gặp lại Jossi nữa đâu.
Nhưng cơn uất hận đang dâng đầy trong Orvar. Chú ấy muốn về ngay, dường như chú muốn bắt đầu cuộc đấu tranh vì tự do ngay tối hôm đó, và chú nguyền rủa đôi chân không đưa chú đi được, nhung chú cứ cố, cố mãi, cuối cùng cũng đứng lên được. Chú rất tự hào khi cho chúng tôi thấy điều đó, và chắc chú chỉ như một cái bóng khi chú đứng đó, đung đưa, lắc lư như có thể bị thổi bay bất kì lúc nào. Chúng tôi vừa nhìn chú vừa cười.
- Chú Orvar này, Ai từ xa cũng biết ngay chú là một tù nhân từ Hang Katla ra - Jonathan bảo.
Đúng vậy. Cả ba chúng tôi người đều bết máu và đất, nhưng trông Orvar thảm hại nhất, quần áo rách tả tơi, mặt gần như bị râu và tóc che kín. Chỉ còn nhận ra đôi mắt; đôi mắt lạ lùng, cháy bỏng của chú.
Có một dòng suối chạy qua chỗ khe hẻm chúng tôi đang ở, nên chúng tôi gột sạch đất và máu ở đó. Tôi cứ vục đi vục lại đầu vào trong nước lạnh. Thật tuyệt vời, cứ như chúng tôi đang gột đi toàn bộ Hang Katla.
Sau đó, Orvar mượn con dao của tôi, cắt đi bao nhiêu râu tóc, trông cho đỡ giống tù nhân trốn trại, còn Jonathan lôi trong túi khoác chiếc mũ sắt và áo khoác của lính Tengil mà anh đã kiếm được trong Thung lũng Bông hồng Dại.
- Đây, chú Orvar, chú mặc mấy thứ này vào đi, anh nói. - Rồi chúng sẽ tưởng chú là một tên lính Tengil đang trên đường đưa hai tù nhân đi đâu đó.
Orvnr đội mũ, mặc áo, nhưng chú không thích bộ đồ ấy.
- Đây là lần đầu tiên, cũng là lần cuối cùng tớ mặc thứ quần áo này. Nó sặc mùi áp bức và tàn bạo. - chú bảo.
Đã đến lúc lên đường. Chỉ một hai giờ đồng hồ nữa là mặt trời sẽ lặn và khi đó trời sẽ tối mịt, không ai có thể thoát ra khỏi những con đường nguy hiểm này.
Trông Jonathan thật nghiêm trọng. Anh biết chúng tôi sắp phải đối chọi với cái gì, và tôi nghe tiếng anh nói với chú Orvar:
- Cháu nghĩ rằng hai giờ đồng hồ nữa sẽ quyết định số phận của Thung lũng Bông hồng Dại. Liệu chú có cưỡi nổi ngựa lâu như vậy không?
- Có, có, có chứ, - Orvar trả lời. - Cưỡi mười tiếng cũng được nếu cháu muốn.
Chú cưỡi con Fyalar. Jonathan đỡ chú lên ngựa, và lập tức, chú đã biến thành một Orvar hoàn toàn khác, cao lớn hẳn lên trên yên ngựa và khoẻ hẳn ra; thật thế, chú Orvar đã là một trong những người hùng dũng, y như Jonathan. Tôi là người duy nhất không được hùng dũng như vậy. Nhưng khi chúng tôi lên ngựa, tôi ngồi đó, hai tay ôm lấy thắt lưng Jonathan, trán áp vào lưng anh, thì hình như một phần sức mạnh của anh truyền sang tôi, và tôi bớt sợ hãi hơn. Thế nhưng tôi vẫn không thể không nghĩ rằng sẽ tuyệt vời biết bao nhiêu nếu người ta không cần lúc nào cũng phải hùng dũng như vậy. Giá như chúng tôi lại được đoàn tụ với nhau như mấy ngày đầu ở Thung lũng Hoa Anh đào; ôi, dường như chuyện đó đã xảy ra cách đây lâu lắm rồi ấy.
Rồi chúng tôi lên đường. Chúng tôi phóng theo hướng mặt trời lặn, vì cầu nằm ở hướng đó. Có biết bao nhiêu con đường nhằng nhịt trong vùng núi Karmanyaka, và chẳng có ai ngoài Jonathan có thể tìm đúng đường trong một trận đồ bát quái như vậy, mà anh ấy tìm ra đuờng một cách rất lạ, thật may cho chúng tôi.
Tôi cảnh giới xem có tên lính Tengil nào không đến tận khi nhức mắt, mà chẳng thấy tên nào. Chỉ có Orvar đang phi phía sau chúng tôi trong bộ đồ mũ sắt và áo choàng đen kinh khủng. Tôi cứ giật mình phát hoảng mỗi lần tôi bất chợt quay đầu lại và trông thấy chú ấy, như tôi vẫn hoảng hồn mỗi khi trông thấy những chiếc mũ sắt và những kẻ đội chúng.
Chúng tôi cứ phi đi mãi, và không có chuyện gì xảy ra. Suốt dọc đường, mọi sự đều yên tĩnh, thanh bình và tươi đẹp. Tôi nghĩ bụng, mình có gọi đây là một tối tĩnh mịch miền núi thì cũng được. Giá như đây là điều có thật. Mọi điều đều có thể xuất hiện trong toàn bộ cái tịch mịch, thanh bình ấy, và chúng tôi đều cảm thấy một chuyện rờn rợn kinh người, đến Jonathan cũng bồn chồn và tự mình luôn luôn cảnh giới.
- Bao giờ mình đến được cầu thì điều tồi tệ nhất mới qua.- anh nói.
- Bao lâu nữa mình mới tới đó? - Tôi hỏi.
- Nửa tiếng nữa nếu không có gì trục trặc, - Jonathan trả lời.
Nhưng chúng tôi đã thấy bọn chúng, một tốp lính Tengil, sáu tên, mang giáo, cưỡi ngựa đen, nhô ra ở chỗ đưòng rẽ ngoặt vào sườn núi, đang phi đến chỗ chúng tôi.
- Nguy rồi đây, - Jonathan nói. - Vọt lên đi, chú Orvar!
Orvar phi nhanh lên ngang chúng tôi, và Jonathan quăng dây cương sang cho chú, để rồi chúng tôi trông giống hai tù nhân hơn một chút.
Chúng chưa trông thấy chúng tôi, nhưng chậm quá không trốn kịp nữa rồi. Mà cũng có chỗ nào để trốn đâu. Tất cả những gì chúng tôi làm được lúc này là cứ phi tiếp, hi vọng rằng chiếc áo khoác và chiếc mũ sắt của Orvar có thể đánh lừa được chúng.
- Tớ còn sống thì không khi nào chịu thua đâụ, - chú Orvar nói. - Tớ muốn cậu hiểu điều đó, Tim Sư tử ạ.
Chúng tôi hết sức bình tĩnh phi về phía bọn địch, ngày càng gần nhau hơn. Tôi lạnh hết cột sống, và tôi có đủ thời gian để nghĩ rằng nếu bị bắt bây giờ, thì chẳng thà ở lại luôn trong Hang Katla và khỏi phải vất vả gian truân suốt một đêm dài mà chẳng ăn thua gì.
Rồi chúng tôi chạm trán. Chúng ghìm bớt cương ngựa để lách qua chúng tôi trên con đường nhỏ hẹp, và tôi trông thấy tên toán trưởng kị mã là một ngưòi quen; Park chứ ai khác đâu.
Nhưng Park không nhìn chúng tôi. Hắn chỉ nhìn Orvar, và khi hai người vừa đi qua nhau, hắn hỏi:
- Mày đã nghe tin gì về việc đã tìm thấy nó hay chưa?
- Chưa, tao chưa nghe gì cả, - Orvar đáp.
- Bọn mày đi đâu đấy? - Park lại hỏi.
- Tao tóm được hai thằng tù - Orvar trả lời. Chú không nói thêm gì nữa, và chúng tôi phóng nhanh một cách thận trọng.
- Qui Ròn, cẩn thận quay đầu lại xem chúng nó làm gì, - Jonathan ra lệnh, và tôi làm theo đúng như vậy.
- Chúng đang phi đi, - tôi đáp.
- Ơn trời, - Jonathan nói.
Nhưng anh nói quá sớm, vì bây giờ tôi thấy chúng đã dừng lại và cùng quay nhìn chúng tôi.
- Chúng bắt đầu sinh nghi đấy, - Jonathan nhận xét.
Đúng là như vậy.
- Đứng lại một tí xem nào! - Park quát to. - Lại đây, tao muốn xem mặt mày và hai thằng tù của mày một chút.
Orvar nghiến răng.
- Phóng đi, Jonathan. Nếu không thì chú cháu mình chỉ còn là bọn chết rồi. - chú nói. Và chúng tôi phi đi.
Khi đó, Park cùng cả toán lính quay lại; đúng, chúng quay lại và đuổi theo chúng tôi nhanh đến nỗi bờm ngựa của chúng bay cả lên.
- Nào, Grim, cho chúng nó biết tay đi nào, - Jonathan nói.
- Cả mày nữa, Fyalar của tao, - tôi thầm nghĩ, ước ao giá như mình đang cưỡi nó.
Không ai có được những con tuấn mã như Grim và Fyalar, đang bay trên đường vì hiểu rằng đây là chuyện sống chết. Lũ lính ở sau chúng tôi; chúng tôi nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, lúc gần lúc xa, nhưng bám riết; chúng không bỏ đi, vì nay Park đã biết chúng đang đuổi theo ai rồi, và không tên lính Tengil nào lại cho phép một con mồi như vậy chạy thoát. Đem con mồi này lại cho Tengil ở lâu đài của hắn chắc phải được trọng thưởng.
Trong khi chúng đuổi theo sát như vậy, chúng tôi phi qua cầu, và hai mũi giáo lao vèo vèo theo chúng tôi, nhưng không tới.
Bây giờ chúng tôi đã sang địa phận Nangiyala, và Jonathan đã từng nói rằng điều tồi tệ nhất sẽ qua, nhưng ngược lại, tôi không thấy như vậy. Cuộc săn đuổi tiếp tục dọc theo con sông. Trên bờ sông, đường đua dẫn tới Thung lũng Bông hồng Dại chạy ngoằn ngoèo, quanh co, và chúng tôi đua trên con đường ấy. Chính trên con đường này, chúng tôi đã từng phi tới vào một tối mùa hè, cách đây dường như đã cả ngàn năm, khi chúng tôi phi bên nhau lúc hoàng hôn, Jonathan và tôi, thong dong trên đường tới nơi đốt lửa trại đầu tiên. Thế mới đúng kiểu phi ngựa dọc theo bờ sông, chứ không phải như bây giờ, đua cho ngựa gần như ngã quị.
Orvar phi điên nhất, vì chú ấy đang phi về nhà trong Thung lũng Bông hồng Dại. Jonathan không thể đuổi kịp chú, và Park cũng sắp đuổi kịp chúng tôi rồi; tôi không biết tại sao như vậy cho đến khi tôi nhận ra chính là tại tôi. Không ai có thể phi ngon lành bằng Jonathan, và sẽ chẳng bao giờ có ai đuổi kịp anh ấy, nếu anh ấy chỉ có một mình trên mình ngựa, nhưng bây giờ anh đang phải luôn lo cho tôi và chính điều đó đã cản bước phi của ngựa anh.
Cuộc đua này sẽ quyết định số phận của Thung lũng Bông hồng Dại, Jonathan chẳng đã từng nói thế là gì. Và chính tôi là người sẽ quyết định số phận đó như thế nào, thật kinh khủng. Có thể kết cục sẽ rất tồi; tôi ngày càng tin chắc như vậy. Mỗi lần tôi quay lại nhìn, những cái bóng mũ đen lại gần hơn một chút, đôi khi khuất sau một mỏm đồi, hoặc mấy rặng cây nhưng sau đó thật oái oăm lại gần hơn nữa khi hiện ra.
Jonathan cũng hiểu rõ như tôi rằng hai chúng tôi không thể thoát được, không thoát được cả hai, và điều cần thiết là Jonathan phải thoát đi. Tôi không thể để anh bị bắt chỉ vì tôi. Vì thế, tôi nói:
- Jonathan, làm như em nói đây. Thả em xuống một góc nào chúng không trông thấy. Rồi đuổi kịp Orvar đi!
Tôi thấy anh ấy lúc đầu sững nguời, nhưng không gần sững người như tôi.
- Thật em dám làm thế sao? - Jonathan hỏi.
- Không dám, nhưng em lại muốn thế, - tôi đáp.
- Bé Qui Ròn dũng cảm. Anh sẽ quay lại đón em. Đưa Orvar về tới nhà ông Mathias an toàn xong, anh sẽ quay lại với em ngay.
- Anh hứa thế chứ? - tôi hỏi.
- Chứ em nghĩ gì khác? - anh hỏi lại.
Chúng tôi đã phi tới cây liễu, nơi chúng tôi cùng tắm, và tôi nói:
- Em sẽ nấp trên cây kia. Đón em ở đó nhé. Tôi không còn thời gian để nói gì thêm, vì lúc này chúng tôi đang khuất sau một mỏm đồi, và Jonathan ghìm cương ngựa cho tôi tụt xuống. Rồi anh phóng đi, còn tôi chuồn nhanh xuống một chỗ trũng. Tôi nằm đó nghe tiếng bọn lính ào ào phóng qua. Tôi có thoáng nhìn thấy nét mặt đuỗn của thằng Park. Nó gầm lên như sẵn sàng cắn xé - mà đấy là Jonathan đã cứu mạng nó đấy!
Nhưng Jonathan đã đuổi kịp Orvar. Tôi nhìn thấy hai người cùng biến mất và tôi thật hài lòng. Đuổi đi, thằng Park già, nếu mày tưởng rằng được việc, tôi nghĩ bụng. Mày sẽ không thể trông thấy Jonathan và Orvar đâu.
Tôi ngồi trong chỗ trũng đó cho tới khi Park và toán lính của hắn mất hút, sau đó dò dẫm xuống phía sông và lên cây. Thật là hay khi được bò vào giữa màu xanh cây cối và nghỉ ngơi giữa một chạc cây, vì lúc này tôi đã thấm mệt.
Có một chiếc thuyền nhỏ đang dập dềnh đập đập vào bờ sông, ngay bên cây của tôi. Hẳn nó đã bị đứt dây neo ở mạn trên ngược sông, vì tôi không thấy có neo. Ai bị mất thuyền giờ này chắc đang buồn lắm đây, tôi nghĩ vậy, và tôi ngồi đó, nhìn quanh, nghĩ vẩn vơ. Tôi nhìn dòng nước chảy xiết, rồi nhìn tảng đá của thằng Park, và nghĩ đó phải là chỗ hắn đang ngồi, cái thằng Park hèn nhát ấy. Rồi tôi nhìn thấy Núi Katla phía bên kia sông và tự hỏi làm sao mà một thằng người thôi lại có thể giam cầm những người khác trong vùng hang động kinh khủng như vậy được. Tôi nghĩ về Orvar và Jonathan và mong đến đau cả người rằng hai chú cháu có thể thoát được xuống đường hầm bí mật của chúng tôi trước khi Park đuổi kịp. Tôi cũng tự hỏi rằng ông Mathias sẽ nói gì khi ông thấy Orvar trong nơi ẩn náu. Ông hẳn phải mừng lắm. Đó là tất cả những điều tôi ngồi đó và nghĩ tới.
Nhưng hoàng hôn bắt đầu buông xuống, và tôi nhận thấy rằng có khi tôi phải ở lại đó cả đêm. Jonathan sẽ không còn thời gian để quay lại trước khi trời tối. Tôi lại thấy gai người và lo lắng khi hoàng hôn buông; và tôi cảm thấy thật cô đơn.
Rồi tôi chợt thấy một phụ nữ cưỡi ngựa đi dọc phía trên bờ sông, và đó không phải ai khác ngoài Sofia, đúng, chắc chắn thế mà, cô Sofia, và chưa bao giờ tôi sung sướng được gặp cô bằng vào lúc này.
- Sofia! - Tôi kêu lên. - Cô Sofia, cháu đây mà!
Tôi trườn xuống khỏi cây, vẫy tay rối rít, nhưng phải một lúc lâu cô mới thật tin rằng đó là tôi.
- Nhưng Karl, làm sao cháu tới được đây? Jonathan đâu? - cô gọi - Chờ đấy, bọn cô xuống ngay đây. Dù sao thì bọn cô cũng phải cho ngựa uống nước đã.
Sau đó, tôi thấy hai ngưòi đàn ông đi sau cô, cũng đang trên mình ngựa. Tôi nhận ra nguời đi trước - Hubert. Người thứ hai còn khuất, nhưng khi ông ta phóng ngựa lên, thì tôi đã thấy. Đó là Jossi.
Nhưng không thể là Jossi được - tôi nghĩ có lẽ mình đã phát điên và đang mơ thấy những chuyên này. Không thể nào Sofia lại tới đây cùng Jossi được! Có chuyện gì trục trặc thế này? Cô Sofia điên chăng, hay tôi chỉ ngủ mơ thấy Jossi là một tên phản bội? Không, không thể, tôi không thể ngủ mơ được; hắn là một tên phản bội mà! Tôi không hề tưởng tượng, hắn ta đó, và bây giờ thì sao?
Hắn phi ngựa xuống nước dưới ánh sáng lờ mờ và cất tiếng gọi từ xa:
- Trời ơi, xem ai đây nào, Karl Tim Sư tử tí hon này - thế là mình được gặp lại nhau!
Cả ba người cùng đi xuống, và tôi đứng như trời trồng chờ họ đến, trong đầu chỉ có một ý nghĩ. Giúp tôi với, phải làm gì bây giờ?
- Cậu lại đi săn chó sói đấy à? - Bác Hubert hỏi.
Nhưng tôi đứng đó, không nói được gì, chỉ nhìn chằm chằm.
- Thế mọi người đi đâu đấy? - Cuối cùng tôi cố bật ra một câu hỏi.
- Jossi sắp chỉ cho bọn cô lối tốt nhất để vào thành - cô Sofia nói, - Mọi người phải biết phòng khi chiến trận xảy ra.
- Phải như thế cháu ạ, - Jossi nói tiếp, - Quân ta phải có kế hoạch sẵn sàng trước khi tấn công.
Trong lòng tôi đang sôi lên. Tất nhiên là mày đã có kế hoạch sẵn sàng rồi, tôi nghĩ. Tôi hiểu vì sao hắn đi cùng. Hắn đang lừa cô Sofia và bác Hubert vào bẫy; hắn sẽ đưa họ vào thẳng chỗ chết, nếu không có ai chặn hắn lại. Và khi ấy tôi hiểu: chính tôi là người phải làm việc đó, và không thể chờ lâu hơn được nữa. Phải làm ngay. Dù tôi có không thích điều đó đến thế nào, tôi cũng phải làm ngay bây giờ.
Nhưng bắt đầu thế nào?
- Bianca có khoẻ không, cô Sofia? - Cuối cùng tôi hỏi.
Trông cô buồn hẳn.
- Bianca không bao giờ còn từ Thung lũng Bông hồng Dại trở về được nữa, - cô đáp. - Nhưng cháu có biết tin tức gì về Jonathan không?
Cô ấy không muốn nói chuyện về Bianca, nhưng tôi đã nghe được điều cần nghe; Bianca chết rồi. Vì thế mà cô ấy tới đây cùng Jossi. Cô ấy có nhận được bức thư của chúng tôi đâu.
Jossi cũng muốn biết xem tôi có tin tức gì về Jonathan không.
- Chắc chắn anh cháu chưa bị bắt chứ? - Hắn hỏi.
- Chưa, anh ấy chưa, - tôi trả lời, nhìn thẳng vào mắt Jossi. - Anh ấy vừa cứu chú Orvar thoát khỏi Hang Katla.
Bộ mặt đỏ của Jossi tái xanh và hắn ta chết lặng. Nhưng cô Sofia và bác Hubert thì vui mừng, ôi, vui mừng đến mức cô Sofia lại ôm chầm lấy tôi còn bác Hubert thì bảo:
- Đó là tin tức tốt nhất mà cậu có thể cho chúng tôi.
Hai người muốn biết sự việc xảy ra như thế nào, nhưng Jossi thì không, vì hắn đang vội.
- Về sau nghe kể cũng được, - hắn nói. - Chúng ta phải tới mục tiêu đã, trước khi trời tối.
Phải, vì bọn lính Tengil chắc chắn đang phục kích rồi chứ gì, tôi nghĩ thầm.
- Lên đây đi Karl, - cô Sofia gọi. - Hai cô cháu mình có thể cùng cưỡi chung ngựa của cô.
- Không, - tôi nói. - Mọi ngưòi không được đi đâu với tên phản bội kia!
Tôi chỉ tay vào Jossi và tôi tưởng hắn sẽ giết tôi. Hắn dùng bàn tay hộ pháp nắm lấy cổ tôi và gầm lên:
- Mày nói cái gì thế? Nói thêm câu nữa là tao thịt mày liền đấy.
Sofia gỡ tay hắn ta ra, nhưng cô không bằng lòng với tôi.
- Karl, gọi sai một người là phản bội là một điều kinh khủng lắm đấy. Mà cháu bé quá chưa hiểu hết những điều cháu vừa nói đâu.
Bác Hubert lặng lẽ cười.
- Tôi tưởng tôi mới là tên phản bội chứ? Tôi là người biết quá nhiều, lại thích ngựa trắng, rồi còn những gì gì nữa mà cậu viết trên tường bếp ở nhà cậu ấy?
- Đúng thế Karl ạ, cháu cứ kết tội lung tung, - Sofia nói nghiêm khắc. - Cháu phải chấm dứt cách làm đó đi.
- Cháu xin lỗi bác Hubert, - tôi nói.
- Còn bác Jossi nữa chứ? - Sofia hỏi.
- Cháu không thể nói câu xin lỗi khi gọi một kẻ phản bội là phản bội, - tôi nói.
Nhưng tôi không thể làm cho hai ngưòi tin tôi. Thật đáng sợ khi tôi nhận ra điều đó. Họ muốn đi tiếp cùng Jossi. Họ chúc nhau không bị vận đen, bất chấp những gì tôi làm để ngăn lại.
- Hắn ta đưa hai người vào bẫy đấy! - Tôi kêu lên. - Cháu biết hắn là ai mà. Cháu biết mà! Hãy hỏi hắn về Veder và Kader mà xem, hắn đã gặp hai thằng đó trong núi, rồi hỏi xem hắn đã phản bội chú Orvar thế nào đi mà xem!
Jossi trông có vẻ như lại muốn xô vào tôi, nhưng hắn tự kiềm chế.
- Chúng ta có đi được ngay không nào, hay chúng ta bỏ liều mọi thứ chỉ vì những lời dối trá của thằng oắt con này? - Hắn nhìn tôi đầy căm thù.
- Thế mà tao đã có lần yêu quí mày đấy, - hắn nói.
- Tôi cũng đã có lần yêu quí ông đấy, - tôi đáp lại.
Tôi thấy đằng sau cái vỏ giận dữ, hắn đang hoảng sợ đến thế nào. Hắn đang thực sự rất vội, vì hắn cần phải làm sao cho Sofia bị bắt và bị tống giam trước khi cô ấy biết rõ sự thật, nếu không tính mạng hắn sẽ có chuyện.
Hắn cảm thấy nhẹ người biết bao khi cô Sofia không muốn biết sự thật. Cô ấy tin cậy Jossi, và trước nay vẫn vậy. Còn tôi, tôi đã kết tội hết người này đến người khác, làm sao cô tin được tôi?
- Lên ngựa đi Karl, - cô giục. - Rồi hai cô cháu mình sẽ làm rõ chuyện này sau.
- Sẽ không có chuyện "về sau" đâu nếu cô đi cùng Jossi - tôi nói.
Rồi tôi khóc. Nangiyala không thể để mất Sofia được, thế mà ở đây, tôi không cứu được cô, vì cô không muốn được cứu.
- Lên ngựa đi, Karl, - cô nhắc lại, giọng cương quyết.
Nhưng tôi sực nhớ ra một điều. Tôi nói:
- Jossi! Ông cởi áo ra cho mọi người xem trên ngực ông có cái gì.
Jossi mặt mày tái xám như xác chết đến mức cô Sofia và bác Hubert cũng phải nhận ra, và hắn đưa tay lên ngực như muốn bảo vệ một vật gì đó.
Một lúc chết lặng, nhưng sau đó bác Hubert nói sẵng giọng:
- Jossi, hãy làm theo yêu cầu của thằng bé đi.
- Chúng ta đang vội, - hắn nói, đồng thời chạy về phía ngựa của hắn.
Cô Sofia trừng mắt.
- Không vội đến thế, - cô nói. - Tôi là chỉ huy, Jossi. Cởi áo ra xem.
Trông Jossi lúc ấy thật dễ sợ, đứng thở hổn hển, tê liệt, sợ hãi, không biết nên chuồn hay ở lại. Cô Soíìa tiến đến chỗ hắn, nhưng hắn dùng khuỷu tay gạt cô sang một bên. Lẽ ra hắn không được làm thế. Cô túm được hắn, và xé toạc áo hắn ra.
Thì kia, dấu Katla trên ngực hắn; một chiếc đầu rồng, vấy máu.
Mặt cô Sofia còn xanh xám hơn cả Jossi.
- Đồ phản tặc! - cô kêu lên. - Nguyền rủa chiếc đầu mi vì những việc mi đã làm đối với những thung lũng của Nangiyala.
Cuối cùng, Jossi chạy tháo thân. Hắn chửi thề rồi lao về phía ngựa của hắn, nhưng bác Hubert đã đứng đó trước hắn. Vì vậy, hắn quay lại, nhớn nhác nhìn quanh tìm lối thoát khác, và trông thấy chiếc thuyền. Bằng một bước sải, hắn đã ngồi trong thuyền, và ngay trước khi cô Sofia hoặc bác Hubert xuống tới bờ sông, dòng nước đã cuốn hắn ra ngoài tầm với.
Khi đó hắn cười, một tiếng cười rùng rợn.
- Sofia, tao sẽ trừng trrị mày! Hắn hét to. Khi tao làm trùm Thung lũng Hoa Anh đào, tao sẽ trừng trị mày!
Thương thay cho đồ ngu nhà mày, mày sẽ không bao giờ về tới được Thung lũng Hoa Anh đào đâu, tôi nghĩ bụng. Mày sẽ được về với Thác Karma chứ có nơi nào khác nữa.
Hắn cố sức chèo lái, nhưng những con sóng dữ dội và những luồng xoáy đã túm lấy thuyền, vặn xoắn chiếc thuyền, ra sức nghiến nát nó, giật mái chèo khỏi tay hắn, và rồi một con sóng bạc đầu lao tới nhấn chìm hắn xuống nước. Tôi khóc, muốn cứu hắn cho dù hắn là một tên phản bội, nhưng tôi biết rằng không có cách gì cứu được Jossi nữa. Thật kinh khủng và đáng buồn khi đứng đó trong hoàng hôn, nhìn và biết rằng Jossi đang đơn độc, vô vọng giữa con nước xoáy. Chúng tôi thấy hắn trồi lên ngọn sóng một lần, rồi chìm xuống, và không ai thấy gì nữa.
Trời đã gần tối hẳn, khi dòng sông của Những Dòng Sông Ngàn Xưa cuốn Jossi xuống Thác Karma.