← Quay lại trang sách

Đánh để cho dài tóc

Sau cuộc xâm lược năm 1407, trong khoảng 20 năm, các người cai trị hàng đầu ở Việt Nam là những người Tàu. Họ tiêu hủy hết sách của Việt Nam hoặc đem về Trung Hoa và hầu hết bị mất mát. Đó là điều đau đớn nhất của người Việt đối với văn học của họ sau này. Họ áp dụng thuế khóa theo cách của nhà Minh. Trường học chỉ dạy cổ văn Trung Hoa. Các quan cai trị buộc người Việt phải theo phong tục, truyền thống và an vận để tóc theo lối Tàu. Tục xăm mình, nhuộm răng và ăn trầu - tục truyền thống của người Việt - bị cấm chỉ. Trong thời kỳ đầu của cuộc chiếm đóng, quan lại Trung Hoa bắt người Việt đi tìm vàng, bạc, đồng và mỏ sắt, săn voi để lấy ngà, sừng tê giác và xuống biển mò ngọc trai.

Lê Lợi mở cuộc kháng chiến lâu dài và chấm dứt nền đô hộ của người Trung Hoa vào năm 1427. Trong vòng 450 năm sau đó, mãi đến khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, Việt Nam giữ được nền tự chủ. Một đe dọa lớn xảy đến cho họ năm 1788, khi nhà Thanh đem quân sang xâm lược, muốn đô hộ Việt Nam trở lại. Cuôc xâm lược đó bị đại bại vì một nhà chiến lược sáng chói Việt Nam: vua Quang Trung và vì tinh thần quốc gia độc lập đã bùng lên từ mấy trăm năm nay. Nguyễn Huệ (vua Quang Trung - ngd) có một bài hịch cho binh lính ông:

Đánh cho để dài tóc,

Đánh cho để trắng răng

Đánh cho để chích luân bất phản

Đánh cho không còn manh giáp

Đánh cho Nam quốc tri hữu chủ

Cuộc chiến đấu chống lại ách đô hộ Trung Hoa trở thành một động lực cho chủ nghĩa quốc gia Việt Nam được tôn giáo nâng cao.

Ngay trong cao điểm chiến tranh chống Mỹ, khi viện trợ Trung Hoa có tính cách quyết định cho sự sống còn của Việt Nam (CS) thì tinh thần tôn giáo đó lại âm thầm đóng một vai trò thực tiễn. Trong thời gian thăm viếng Bắc Việt Nam hồi tháng 10/ 1972, học giả Mỹ George Kahin tò mò khám phá ra sự tự do tôn giáo có mức độ. Sau khi quan sát một đám đông người ngoan đạo ở nhà thờ chánh tòa Hà Nội, người tùy tùng Việt Nam của ông hỏi: “Ông có muốn xem vài điểm về tôn giáo của chúng tôi không?” Kahin nhận lời mời nên được đưa đi xem một ngôi đền giữa hồ Hoàn Kiếm. Tại đền này có ba bàn thờ: Một thờ Phật, một thờ Thủy Thần và giữa thì thờ Đức Trần Hưng Đạo, một vị tướng đánh bại (3 lần - nd) quân Mông cổ hồi thế kỷ thứ 13. Do yêu cầu, Kahin tìm thấy ở Hà Nội có khoảng 6 ngôi đền người Việt Nam dùng để thờ lạy các vị nam nữ anh hùng như Lê Lợi, hai bà Trưng, những người đã chống lại Trung Hoa xâm lược.

Trong khi chiến đấu để giành độc lập, người Việt Nam phát triển một kiểu mẫu chính trị pha trộn giữa hai tính bền vững và uyển chuyển. Sự bền vững bảo tồn tính khác biệt và độc lập, sự uyển chuyển là tính thỏa hiệp với Trung Hoa. Tính độc đáo này cũng phản ảnh quan điểm hai mặt với Trung Hoa, đánh dấu sự yêu mến và thù ghét, thua kém và tự hào, lòng can đảm anh dũng và sự tự đắc. Điều ấy lại được củng cố bởi tinh thần làm chủ của mình, luôn luôn được tài bồi bởi ý thức về sức mạnh Trung Hoa và lòng khâm phục của họ đối với quốc gia nầy. Các nhà lãnh đạo Việt Nam hiểu rất rõ rằng ngay từ khi mới giành được độc lập, tinh thần anh dũng của dân tộc họ, đất đai thuận lợi, và chiến lược hay có thể đánh bại các cuộc xâm lược, nhưng Trung Hoa là một nước quá đông dân, và tiềm năng của họ rất phong phú. Việt Nam phải đối đầu với Trung Hoa biết tới bao giờ mới thôi. Chấp thuận bá quyền của Trung Hoa, các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể tránh được sự can thiệp của quốc gia này. Có nhà viết sử Việt Nam nói rằng: “Nhượng bớt quyền hành cho Trung Hoa có lợi hơn cho các vị vua Việt Nam, có thể bảo đảm an toàn được trong khi loạn lạc có Trung Hoa che chở còn trong thời bình thì không bị Trung Hoa chiếm đóng hoặc cai trị trực tiếp.” Thông thường, sau khi đánh bại quân Trung Hoa xâm lược, vua Việt Nam thường phái sứ bộ sang Tàu xin lỗi và đem đồ cống sứ qua cho Thiên Tử. Thường thì việc ấy được vua Trung Hoa chuẩn nhận.