← Quay lại trang sách

Bây giờ chiến đấu, triều cống sau

Sau khi đánh thắng quân Minh năm 1427, một số dân chúng và binh lính yêu cầu vua Lê Lợi giết tất cả những binh lính nhà Minh bị bắt để trả thù họ đã giết hết tù binh họ bắt được. Nguyễn Trãi, nhà chiến lược mà cũng là một nhà thơ, một vị quân sư rất gần gũi với Lê Lợi chống lại ý kiến ấy. Nguyễn Trãi tâu: “Hiện tại, việc tấn công kẻ thù và uống máu chúng cho đã khát là việc không khó. Nhưng thần e rằng việc ấy sẽ gây lòng thù hận sâu xa đối với Minh triều. Để trả thù và để giữ uy danh một nước lớn, Minh triều lại đưa quân sang. Chiến tranh tàn hại kéo dài bao lâu nữa. Điều có lợi cho cả hai nước là nhân dịp này, kẻ thù đang thế cùng lực kiệt mà giải hòa với họ.” Lê Lợi nghe lời Nguyễn Trãi, bèn cho quân Minh năm trăm thuyền, vài ngàn ngựa và lương thực để họ kéo về nước.

Biết rất rõ tính hiếu đại và thể diện của hoàng đế Trung Hoa, người Việt Nam áp dụng nghệ thuật vuốt ve rất khéo và giả vờ ngoan ngoãn để thuận lòng hoàng đế, những điều hoàng đế không thể dùng vũ lực để chiếm được. Hồi đầu thế kỷ thứ 18, hoàng đế Trung Hoa giận muốn điên lên vì Việt Nam đòi một vùng đất dài 40 lý (bằng 13 miles) dọc theo biên giới Hoa Việt. Nhưng khi vua Việt Nam bày tỏ lòng ăn năn hối cải thì hoàng đế Trung Hoa nhân hậu thuận trao cho vùng đất tranh chấp được vĩnh viễn thuộc về Việt Nam. Sau khi đánh bại cuộc xâm lược nhà Thanh năm 1789, anh hùng Nguyễn Huệ gửi một lá thư xin lỗi hoàng đế Trung Hoa, việc ông ta chống lại quân đội thiên triều, theo ông ta khiêm tốn giải thích, là một tai nạn.

Để xoa dịu lòng tự phụ của hoàng đế Trung Hoa, Nguyễn Huệ nói ông ta sẽ tự thân mang đồ cống phẩm qua Tàu nhân dịp bát tuần của hoàng đế. Trong dịp này ông gởi một người cháu trông giống ông giả làm vua Việt Nam. Không biết hoàng đế Trung Hoa có biết trò hai mặt này của Nguyễn Huê hay không, người cháu đóng giả vai vua Quang Trung được tiếp đón một cách huy hoàng, xứng đáng với một vị khách của thiên triều đã biết hối cải.

Từ thế kỷ thứ 10, mặc dù Việt Nam theo đuổi một chính sách độc lập với các nước láng giềng như Chiêm Thành, Kampuchia, Thái Lan và Lào, họ vẫn thường cáo lên hoàng đế lý do hành động tại sao phải chinh phạt các chư hầu Trung Hoa. Năm 1044, vua Lý Thái Tông biện giải việc ông ta xâm lược Chiêm Thành bằng cách dẫn ra những lời giáo huấn của Khổng Tử nói rằng Chiêm Thành thiếu lòng tôn kính - một kiểu giải thích có thể làm vui lòng triều đình Trung Hoa. Năm 1446, Việt Nam kêu gọi triều đình nhà Minh chống lại Chiêm Thành cướp phá biên giới của họ. Kết quả, vua Minh buộc Chiêm Thành chấm dứt hành vi cướp phá đó. Hai mươi ba năm sau, trước khi mở một cuộc tấn công nghiêm trọng vào Chiêm Thành, hoàng đế Thánh Tông nhà Lê cho một sứ bộ qua Trung Hoa giải thích lý do mở cuộc phạt Chiêm để tránh cơn thịnh nộ của vua Tàu.

Kết quả, trong khi Việt Nam thừa nhận bá quyền Trung Hoa, họ cũng thiết lập một hệ thống chư hầu cho họ như kiểu Trung Hoa vậy. Các vua Việt Nam tự xưng Vương (king) khi tiếp xúc với Trung Hoa nhưng lại tự xưng mình là đế (emperor) khi tiếp xúc với những vua chúa cai trị vùng Đông Nam Á. Trong khi cố gắng bắt chước Trung Hoa, các vị vua Việt Nam cũng tự gọi nước họ là “Trung Quốc” - Middle Kingdom và xây dựng một hoàng thành ở Huế theo kiểu “Cấm thành” ở Bắc Kinh, cũng cùng với hào lũy, các cửa thành giống như Trung Hoa vậy. Từ đầu thế kỷ thứ 11, triều đình Huế (có lẽ tác giả nhầm lẫn. Thời điểm này thuộc nhà Lý, kinh đô còn đóng ở Thăng Long - người dịch) gởi cho vua Kampuchia - được xem là chư hầu của Việt Nam - một cái ấn bằng vàng chậm nổi hình con lạc đà - một kiểu mô phỏng đã được nhận từ Bắc Kinh, coi như một bằng chứng được thừa nhận là vua. Cái hình vật “lạ” trên cái ấn gây nên sự tò mò ở Phnom Pênh, họ thường coi biểu tượng Trung Hoa là con sư tử.

Trong khi vẫn giữ lòng trung thành với Trung Hoa về mặt tổ chức chính trị, (Alexander Woodside chỉ rõ ra rằng) hoàng đế Việt Nam và triều thần của ông bị buộc phải tin “Trung Hoa là kim chỉ nam văn hóa của một xã hội có các bộ tộc man rợ bao quanh”. Kỳ vọng văn hóa của triều đình Việt Nam cũng vĩ đại như Trung Hoa nhưng họ khác Trung Hoa ở chỗ chung quanh Việt Nam cũng là những dân tộc có nền văn hóa tương đương. Yếu tố này làm cho người Việt Nam không tự tin như người Trung Hoa. Kết quả là sự căng thẳng và bất ổn như trong một cố gắng thất bại của hoàng đế Minh Mạng nhằm Việt Nam hóa người Kampuchia hồi thập niên 1830.

Ngoài mặt văn hóa, Việt Nam biện giải việc họ giám hộ Kampuchia và Lào là vì lý do an ninh. Nguyễn Tri Phương, một vị quan lại của triều đình Huế, năm 1835 viết: “Việt Nam ở vào một vị trí tối nguy hiểm, liền với một nước lớn mà dân số đông hơn tới mấy chục lần, hiếu chiến, luôn luôn muốn bành trướng, sát nhập đất đai xứ mà họ cho là man rợ hơn. Đó là Trung Hoa. Phía đông và phía tây thì nối liền với các dân tộc cũng muốn bành trướng và quấy nhiễu chúng ta. Họ phải luôn luôn chống lại sự xâm lược của các dân tộc và các bộ lạc để giữ mình và để tấn bộ... Kampuchia thì yếu và thường khốn khổ vì các cuộc nội loạn, bị quân Xiêm La xâm lấn mà bọn này thường tàn sát hàng loạt. Bởi vậy, nước này đã nhiều lần yêu cầu quân ta đến để vãn hồi an ninh trật tự trong nước họ.” Dưới danh nghĩa bảo vệ Kampuchia khỏi bị Xiêm La xâm lấn, triều đình Huế kiểm soát toàn bộ nước này. Năm 1827, dưới danh nghĩa giúp Lào chống Xiêm La đe dọa, Việt Nam chiếm đóng một dãi đất dài ở phía Bắc và Trung Lào, bao gồm cả Sầm Nứa (một vùng đất 125 năm sau trở thành pháo đài của phong trào Pathet Lào do Việt Nam hỗ trợ). Hồi cuối thế kỷ 19, khi Pháp cai trị Lào, Kampuchia và Việt Nam, không những họ chỉ chấm dứt hàng ngàn năm bá quyền của Trung Hoa tại những xứ này mà còn làm cho các nước này trở thành các đơn vị chính trị và chiến lược -Liên bang Đông Dương - mà các vị hoàng đế nhà Nguyễn tuồng như đã thực hiện gần xong cho Việt Nam.