Sự cai trị của các đồng chí
Một phần tư thế kỷ sau khi Đông Dương thuộc Liên Hiệp Pháp giải thể để trả độc lập cho các nước Lào, Kampuchia và Việt Nam, ý nghĩ về một “Khối Đông Dương đoàn kết” dưới sự lãnh đạo của Hà Nội bây giờ lại nổi lên. Có phải Cọng Sản Việt Nam cố gắng tiếp tục kềm giữ biên cương thuộc địa cũ và như thế “hoàn thành mục tiêu văn hóa và chính trị của Việt Nam?” Có phải khái niệm “Liên Bang Đông Dương” do Cọng Sản Việt Nam đề khởi hồi thập niên 1930 mà nay là sự diễn dịch về kỳ vọng của triều đại nhà Nguyễn ngày xưa? Một bản nghiên cứu về sự phát triển chính sách Việt Nam với Đông Dương trong vòng năm chục năm qua cho thấy sự kế tục đáng lưu ý trong tư tưởng chiến lược của họ -được tăng cường với những kinh nghiệm hiện đại - Nhưng nó cũng chứng tỏ cho thấy sự tán thưởng sức mạnh chủ nghĩa quốc gia và sự cân bằng địa lý chính trị là hai lực song song, đơn giản giữa chính sách của Hà Nội và sự yếu thế của Việt Nam.
Không như huyền thoại trong dân chúng về giấc mơ của Hồ Chí Minh xây dựng một “Liên Bang Đông Dương” do Hà Nội kiểm soát, điều đưa ông tiến tới việc thành lập đảng Cọng Sản Đông Dương, ý niệm về trách nhiệm rộng rãi hơn đói với toàn bộ khu vực nầy khởi nguyên từ Quốc Tế Cọng Sản tại Moscow hay Đệ Tam Quốc Tế. Các nhà nghiên cứu mới đây cho thấy hồi thập niên 1930 nhóm Cọng Sản Việt Nam tập họp tại Hồng-Kông để thành lập đảng Cọng Sản lấy tên là Việt Nam Cọng Sản đảng (VCP). Quyết định đó đã bị Đệ Tam Quốc Tế khiển trách vì theo đuổi một chính sách quốc gia hẹp hòi và không lưu tâm tới chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sau đó, lệnh của Đệ Tam Quốc tế đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản đảng (ICP). Việc đổi tên này được lý luận rằng thực dân Pháp ở Đông Dương là kẻ thù chung của dân tộc ba nước Đông Dương. Do đó, cần tổ chức chung một lực lượng để chống lại nó. Một tạp chí của đảng Cọng Sản Đông Dương giải thích hồi năm 1932: “Mặc dù ba nước (Lào, Kampuchia và Việt Nam) là ba dân tộc khác nhau, ngôn ngữ và truyền thống cũng như cá tính khác nhau, họ kết thành một xứ... Không thể thực hiện các cuộc cách mạng riêng rẽ cho Việt Nam, Kampuchia và Lào. Để chống lại kẻ thù, cách mạng thống nhất lực lượng toàn cõi Đông Dương, đảng Cọng Sản Đông Dương cũng phải tập trung lực lượng của giai cấp vô sản ba nước này thành một mặt trận chung dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản do đảng Cộng Sản Đông Dương dại diện.”
Tuy nhiên, dù có sự chỉ đạo như thế, những người Cọng Sản Việt Nam chỉ có một phần cố gắng để động viên “giai cấp vô sản Đông Đương” - một thực thể không hiện hữu - hoặc chiêu tập các thành viên Lào và Kampuchia vào trong đảng. Không kể tới việc Việt Nam đánh giá thấp tiềm năng cách mạng Lào và Kampuchia, họ cũng đánh giá thấp khả năng dân tộc hai nước này. Nhìn chung, trong đảng Cọng Sản Đông Dương toàn bộ là Việt Nam ngoại trừ danh xưng, và ngay cả những người Việt Nam sinh sống tại hai nước này là thành phần nồng cốt để thành lập các chi bộ Cọng Sản tại đây. Ưu thế triết lý Cọng Sản Quốc Tế của Đệ Tam (QT) và lòng trung thành với Liên Xô, dù sao cũng đã dẫn dắt đảng Cọng Sản Đông Dương thông qua một nghị quyết trong đại hội đảng lần đầu tiên hồi tháng 3/ 1935, khơi dậy khả năng của toàn liên bang. Nghị quyết nói rằng: “Mỗi nước có quyền tự trị, có thể tham gia vào Liên Bang Đông Dương hoặc đứng riêng rẽ. Tự do tham gia hay rút lui khỏi liên bang hoặc có thể theo đuổi bất cứ phương hướng nào.” Tới đầu thập niên 1940, người Việt Nam thấy được sự phấn khởi và tinh thần quốc gia trong các dân tộc Lào và Kampuchia, đặc biệt sức lôi cuốn càng ngày càng tăng trong phong trào Khmer Issarak. Một nghị quyết của đảng Cọng Sản Đông Dương năm 1941 nhấn mạnh nhu cầu “điều chỉnh việc thực hiện chính sách quốc gia tự quyết sau khi Pháp buộc phải nhả Đông Dương”. “Các dân tộc sinh sống trên bán đảo Đông Dương có thể tham gia Liên Bang Cọng Hòa Dân Chủ Đông Dương hoặc trở thành một nước riêng biệt.” Mười năm sau, khái niệm mơ hồ về một Liên Bang Đông Dương như thế bị thả nổi. Quan ngại Pháp có thể thúc đẩy lòng ganh ghét Việt Nam trong số những người Lào và Kampuchia, đảng Cọng Sản Đông Dương giải thể thành ba đảng của ba nước. Ý niệm về một liên bang không được nhắc đến nữa. Tuy nhiên, vai trò lãnh đạo ý thức hệ của Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương đã có dấu ấn sâu sắc. Điều đó lại được nuôi dưỡng thêm vì những kinh nghiệm trong cuộc chiến tranh chống Pháp vừa qua.
Việt Nam từ bỏ khái niệm liên bang do Đệ Tam Quốc Tế thúc đẩy, tuy nhiên, trong thực tế, kinh nghiệm quân sự lèo lái họ vào một hướng khác: đoàn kết Đông Dương về mặt chiến lược: Họ đã hiện đại truyền thống quân sự, rút từ trong truyền thống anh hùng chống Trung Hoa trong một thời gian lâu dài và tôi luyện bằng những khái niệm về chiến tranh nhân dân do Mao phát triển. Tuy nhiên, không giống như Cọng Sản Trung Hoa, người Việt Nam không có những vùng đất rộng lớn để rút lui, hàn gắn vết thương, xây dựng căn cứ địa trước khi thách thức với kẻ thù có ưu thế hơn. Họ chẳng có thời gian. Sự yếu kém đó lộ rõ khi Pháp xử dụng toàn cõi Đông Dương. Năm 1947, Pháp mở một cuộc tấn công lớn vào các cứ điểm Việt Minh ở Lào và Kampuchia. Như nhà sử học quân sự William Turley ghi nhận: “buộc Việt Nam thấy rằng hiệu năng cách mạng ở Lào và Kampuchia có ý nghĩa tấn công và đánh sụp Pháp từ phía sau”.
Năm 1950, Việt Minh chuẩn bị cuộc tổng phản công để đánh Pháp. Tướng Giáp, chỉ huy quân sự, viết trong một cuốn sách nhỏ truyền bá quan điểm chiến lược Đông Dương: “Đông Dương đơn thuần chỉ là một đơn vị chiến lược, một mặt trận mà thôi. Vì lý do này, và đặc biệt vì đây là một vùng đất chiến lược, chúng ta không thể quan niệm Việt Nam được độc lập trong khi Lào và Kampuchia còn dưới ách thống trị của đế quốc. Bọn thực dân dùng Kampuchia để tấn công Việt Nam, Lào và Kampuchia, tạm thời là hậu cần an toàn của kẻ thù, đồng thời là khu vực trọng yếu của toàn bộ chiến trường Đông Dương. Vì vậy, chúng ta cần mở các mặt trận Lào và Kampuchia một cách cương quyết và mạnh mẽ.”
Việt Minh đã làm như thế thật. Trước khi đẩy Pháp vào bẫy sập Điện Biên Phủ (một thung lũng trên biên giới Lào Việt), lực lượng Việt Minh thắng lợi ở Bắc, Trung và Nam Lào và ở Trung phần Việt Nam trong khi một lực lượng nhỏ Việt Minh và đồng minh Khmer Issarak của họ quấy rối Pháp ở Kampuchia. Khi quân Pháp ở cứ điểm Điện Biên phủ giương cờ trắng đầu hàng là lúc có dấu hiệu họ phải rời bỏ không những chỉ ở Việt Nam mà toàn cõi Đông Dương.
Mặc dù bây giờ Pháp đã bị loại, không còn là kẻ thù chung của các phần tử quốc gia trên chính trường Đông Dương nữa, hậu quả cuộc chiến đấu của Việt Nam tái thống nhất tuồng như tăng cường giá trị lý thuyết của tướng Giáp. Những ai chống lại sự thống nhất Việt Nam đều cần tới lãnh thổ Lào và Kampuchia và làm sáng tỏ công trạng của Cọng Sản Hà Nội phải cố gắng thành công. Như William Turley đã nói ngay trước khi chiến tranh Đông Dương lần thứ hai xảy ra, Hoa Kỳ và đồng lõa Thái sẽ nắm cơ hội bất ổn ở Lào để bảo toàn cứ địa trong cùng một vùng bình nguyên mà Pháp đã tấn công Việt Minh. Việc phân chia Việt Nam tạm thời theo hiệp định Genève dọc theo vĩ tuyến 17, là buộc đảng Lao Động Việt Nam đang cầm quyền ở phía Bắc dùng lãnh thổ Lào làm hành lang để duy trì tiếp xúc với tổ chức của họ ở phía Nam. Với chiến tranh du kích ở Nam Việt Nam trên đà đi tới, một hệ thống đường mòn xuyên qua vùng rừng rậm trên vùng núi hẹp để tiến xuống Đông Bắc Kampuchia, sau này phát triển thành đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng - một hệ thống đường mòn phức tạp, xe hơi có thể xử dụng được, tính chung dài khoảng tám ngàn dặm. Con đường mòn này trở thành con đường sinh thời đi xuống phía Nam. Hoa Kỳ gia tăng cuộc chiến do họ hỗ trợ chống lại Việt Nam Cọng Sản bằng cách trang bị vũ khí cho lực lượng trung lập hoàng gia Lào và lực lượng quân sự của các bộ lạc Lào. Đối đầu với hiểm nguy đang gia tăng ở phía Nam, Việt Cọng dùng các vùng đất thánh và căn cứ bên kia biên giới Kampuchia trung lập.
Tháng Ba năm 1970, một cuộc đảo chánh xảy ra ở Phnom Pênh lật đổ thái tử Sihanouk và sau đó quân Mỹ xâm lăng Kampuchia, cuối cùng đã loại bỏ tất cả các chướng ngại. Toàn bộ Đông Dương, một lần nữa trở thành một vị trí chiến lược đấu tranh để tái thống nhất bằng những cuộc chiến đấu trong vùng rừng núi ở Kampuchia và đồi núi Lào. Nhờ đánh thắng Mỹ và quân đội Miền Nam Việt Nam trong cuộc xâm lược của Miền Nam VN vào Nam Lào với ý định cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh hồi tháng Hai/ 1971 và bằng việc đánh bại hai cuộc hành quân đầy tham vọng của Lon Nol ở Kampuchia trong cùng một năm, Bắc Việt Nam đã bảo vệ được một vị trí vững chắc ở Đông Dương. Nhờ số đông dân chúng ủng hộ, nhờ huấn luyện và viện trợ, Pathet Lào và Khmer Đỏ thêm vững mạnh mà nếu như họ chỉ có một mình thì không bao giờ có thể làm được. Tình hình thuận lợi đưa tới cuộc tấn công cuối cùng vào mùa xuân 75. Hai mươi lăm năm sau khi Giáp phát triển tư tưởng bàn về tình hình Đông Dương chỉ là “một mặt trận thống nhất”, nay sự thực đã chứng minh lời tiên đoán ấy. Trong một khoảng thời gian chỉ có 5 tháng, chiến thắng cách mạng đã hoàn thành trên cả ba nước Đông Dương.
Yếu tố chiến lược đạt tới đỉnh cao trong suy nghĩ của người Việt về Đông Dương - trong thời kỳ hậu chiến tái xây dựng, củng cố ý thức hệ và chính sách kinh tế mang tính cách quan trọng mới. Bây giờ, nền hòa bình đã đạt được. Việt Nam tìm cách xây dựng quan hệ đặc biệt về một cấu trúc liên minh có thể đảm bảo được tình hình an ninh Việt Nam và có thể thực hiện hợp tác kinh tế lâu dài giữa những quốc gia có căn bản ý thức hệ chung. Nhận thức được chủ nghĩa quốc gia cực đoan trong số Khmer Đỏ, gia tăng thù địch Việt Nam trong những năm cuối của cuộc chiến và chủ nghĩa cực đoan của họ, Hà Nội muốn tiến gần hơn với Kampuchia và xúc tiến liên hệ chặt chẽ hơn. Nếu Kampuchia làm gảy đổ liên hệ giữa hai nước thì kẻ thù cũ của họ sẽ xây dựng căn cứ địa tại đây và mối đe dọa mà Nguyễn Tri Phương và Võ Nguyên Giáp đã từng lo ngại sẽ có cơ sống lại. Chiến lược phát triển khác biệt của nhóm Kampuchia cực đoan làm đảo lộn kế hoạch của Việt Nam về hợp tác kinh tế và chia xẻ các nguồn lợi thiên nhiên.
Giải thích về quan hệ đặc biệt này, khởi thủy Việt Nam nhấn mạnh đến tình hữu nghị đã được xây dựng trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung hơn là quan tâm về kinh tế và an ninh. Nghĩ rằng đã nhiều hy sinh trên chiến trường Đông Dương, Việt Nam (CS) cho đó là món “nợ máu” để Lào và Kampuchia giữ quan hệ gần gũi với Việt Nam. Võ Đông Giang, thứ trưởng Bộ Ngoại giao nói với tôi năm 1978: “Chúng tôi yêu cầu thiết lập quan hệ đặc biệt, vì trong toàn bộ lịch sử thế giới chưa bao giờ có quan hệ như thế của ba dân tộc, chia nhau từng hột gạo, từng hột muối, từng viên đạn trong cuộc chiến đấu chống quân thù. Mối quan hệ gần gũi đó phải được tiếp tục trong tinh thần xây dựng, bảo vệ và tôn trọng lẫn nhau.”
Việt Nam chẳng bao giờ nói một cách công khai ý kiến chia sẽ tài nguyên giữa ba nước Đông Dương - ngoài việc hợp tác xử dụng sông Mêkông. Tuy nhiên, một cách hợp lý hơn, người ta phải nghĩ rằng các nhà lập kế hoạch ở Hà Nội nhìn Đông Dương không đơn thuần trên mặt chiến lược sinh tử mà còn về mặt kinh tế nữa. Với khoảng 60 triệu dân (thời điểm tác giả viết sách này - người dịch) sống trên một giải đất hẹp có nhiều núi non (tổng cọng chỉ có 6 triệu hecta canh tác được) tỷ lệ đất canh tác so với dân số thì Việt Nam ở mức độ thấp nhất vùng Đông Nam Á. Tới năm 2000, Việt Nam có khoảng 90 triệu dân. Hà Nội thấy rằng việc hợp tác kinh tế với các nước láng giềng có mật độ dân số thấp nhưng đất đai giàu có ở là cần thiết. Cơ sở kỹ thuật và kỹ nghệ Việt Nam đang phát triển tốt đẹp, nông nghiệp và các nguồn lợi quặng mỏ ở Lào và Kampuchia ở ba nước sẽ bổ sung cho nhau.
Trong một cuộc họp mật để lập kế hoạch về Đông Dương, một viên chức cao cấp của Việt Nam, Chế Việt Tấn hồi đầu thập niên 1980 viết rằng “Trong vị trí chiến lược vững chắc, ba nước Lào, Kampuchia và Việt Nam ở vào thế liên lập. Đó là điều kiện cần thiết để phối hợp thế chiến lược của ba vùng với những khu vực kinh tế, điều hòa phân phối lực lượng lao động và dân chúng để xây dựng nền tảng sản xuất lúa gạo, khu vực kỹ nghệ và hạ tầng cơ sở...”
Chỉ sau khi mối căng thẳng Hoa Việt bùng nổ công khai thì Hà Nội mới công bố lý thuyết chiến lược quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương. Tờ Quân Đội Nhân Dân, hồi tháng Tư/ 79 viết “Từ hơn một thế kỷ nay, lịch sử bao giờ cũng nối liền số phận của ba nước Việt Nam, Lào và Kampuchia. Khi một trong ba nước bị xâm lăng, bị lệ thuộc, nền độc lập và an ninh của những nước còn lại cũng lâm vào tình thế nguy hiểm, không thể sống trong hòa bình. Vì vậy, kẻ thù của một nước cũng là kẻ thù của ba nước. Phải duy trì tinh thần đoàn kết giữa ba dân tộc và để đoàn kết chiến đấu và chiến thắng - đây là một định luật về sự thành công của cách mạng của ba nước”. Chuẩn bị kỷ vấn đề, Việt Nam cho rằng kinh nghiệm lịch sử chứng tỏ cho thấy đó là một định luật - một điều không thể tránh khỏi - trong phương cách kẻ thù đe dọa Đông Dương. Chính sự đoàn kết đã bảo vệ nền độc lập của ba nước. Sức mạnh bên ngoài muốn kiểm soát cả ba thì đầu tiên tạo ra sự phân rẽ giữa ba nước và chiếm đóng dần dần từng nước một. Một tướng lãnh Việt Nam (CS) tuyên bố năm 1984: “Trong âm mưu chiếm đoạt Đông Dương và bành trướng ra toàn vùng Đông Nam Á, bọn phản động Bắc Kinh chẳng có cách nào ngoài việc tuân theo định luật đó.”