Gìn giữ hòa bình giữa những bộ tộc man rợ phía Nam
Chuẩn bị “định luật” này lại là phục vụ cho người Việt. Lịch sử và địa lý chính trị, dù sao, cũng chỉ cho thấy một điều không thể tránh được vị thế của Trung Hoa đối với Việt Nam để trả giá cho quyền bá chủ ở Đông Dương. Một đặc điểm nổi bật trong lịch sử quan hệ Trung Hoa với Đông Nam Á là tự coi mình như một người bảo hộ chính trực đối với trật tự và ổn định trong khu vực. Đó là sự thực nhưng cuộc xâm lược của nhà Minh với Việt Nam hồi năm 1407 là ngoại lệ. Trung Hoa không dùng sức mạnh quân sự để đóng vai trò một tên hiến binh. Tuy nhiên, nhiều lần các nước triều cống trong khu vực này đã kêu gọi Trung Hoa ngăn chận các nước láng giềng hay xâm lược. Thiên triều vẫn luôn quở trách các nước hay xâm lược nầy.
Theo đường lối Khổng Tử, như lời rầy la của một người cha, vua Yongle trách cứ vua Xiêm (Thái lan - nd) có hành động xâm lược các nước Chiêm Thành, Malacca (một vương quốc trên bán đảo Mã Lai), và Sumatra, và ra lệnh “Từ nay, nhà người phải theo luật lệ của ta, giữ phận bề tôi, giữ gìn biên cương nhà ngươi, thành thật với các nước lân bang, vậy ngươi có thể vui hưởng đời đời và an toàn mãi mãi.”
Đằng sau vai trò công chính của vai bá chủ là tham vọng của Trung Hoa muốn có một miền Nam an bình - một sự cân bằng quyền lực giữa các nước nhỏ, không tạo ra đe dọa nào cho chính sự ổn định của họ - Những lời quở mắng đặc biệt này của Thiên triều chẳng ngăn cản được Việt Nam lấy đấy Chiêm Thành hay Thái xâm lược Malacca. Tuy nhiên, sự bành trướng đất đai của các chư hầu phía Nam Trung Hoa chẳng đe dọa gì đến nền an ninh của Thiên triều và cũng chẳng hại gì tới ưu thế của Trung Hoa cả. Dù các nước chư hầu có làm gì với nhau chăng nữa rồi họ cũng làm dịu cơn thịnh nộ của Thiên triều bằng cách tạ tội và gởi sứ bộ đến triều cống.
Lý do quan trọng tại sao Trung Hoa ít can thiệp quân sự vào các nước phía nam là vì họ phải tập trung vào vùng Tây Bắc. Từ hàng mấy thế kỷ, các bộ tộc du mục ở Trung Á - Mông Cổ và Khitans - sau này là người Nga, thường đe dọa Trung Hoa một cách nghiêm trọng. Thực ra, Hongwu, vị hoàng đế sáng lập nhà Minh, sau khi đánh bại nhà Nguyên, cấm chỉ các người kế nghiệp ông không được xâm lăng mà không có lý do chính đáng đối với các bộ tộc nhỏ ngoài biển khơi hay các nước trong vùng núi non hiểm trở. Năm 1371, ông ta viết: “Nếu chúng không gây khó khăn cho ta thì nhứt quyết đừng tấn công chúng. Đối với các bộ tộc ở phía Tây-Bắc, nhiều đời nay chúng thường gây nguy hiểm cho ta. Ta phải cẩn thận, sẵn sàng chống lại.”
Môt cuộc thử nghiệm về điều này đã xảy ra khi hoàng đế Trung Hoa chọn một quyết định giữa những mối đe dọa từ phía Bắc và từ phía Nam hồi cuối thế kỷ 19. Năm 1882, một tài liệu của Trung Hoa mô tả Việt Nam là “phiên ly của Trung Hoa” có thể bảo vệ Hoa Nam. Mặc dù nó (Viêt Nam) ở ngoài biên thùy, chúng ta “cũng không thể bỏ rơi” (Việt Nam). Tuy nhiên, hai năm sau, khi đối đầu với áp lực Pháp từ phía Nam và sự đe dọa gây ra do chiến tranh Nga-Nhật ở phía Bắc, triều đình Trung Hoa yếu kém đành từ bỏ trách nhiệm như trong trật tự Khổng Tử đã có từ xưa đối với việc bảo vệ vua nước Việt Nam chư hầu. Năm 1884, một quan chức nhà Thanh viết: “Việc bảo bọc cho các nước triều cống từ xưa là chuyện nhỏ. Việc củng cố, bảo vệ toàn Trung Hoa lớn hơn nhiều.” Vì chính sự an toàn của họ đang bị lung lay, trong thời gian chiến tranh Nga Nhật xảy ra, năm 1885, Trung Hoa đã ký hòa ước Thiên Tân với Pháp và từ bỏ quyền bá chủ ở Việt Nam.
(Chiến tranh Hoa Nhật xảy ra năm 1895 và chiến tranh Nga Nhật xảy ra năm 1905. Có thể tác giả nhầm lẫn về niên đại. - người dịch)
Khi nước Cọng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (PRC) thành lập năm 1949, Trung Hoa không những chỉ là kẻ tiên phong bước vào thời đại mới để giữ các mối quan hệ bình đẳng mà, như một nhà Mácxít nói “cũng là một sự bắt buộc để duy trì quan điểm về “chủ nghĩa quốc tế vô sản”. Tuy nhiên, trong tiến trình thực hiện chính sách ngoại giao, sức nặng lịch sử và những quan điểm xa xưa về an toàn của Trung Hoa tạo ra những xung khắc lớn hơn. Đằng sau sự khoa trương cách mạng Trung Hoa hiện ra rõ ràng sự nối tiếp tiến tình bảo vệ an ninh cho Trung Hoa, một tiến trình mang tính di sản từ thời phong kiến cũ. Sự tương quan lý thuyết giữa Trung Hoa Cọng sản và Bắc Việt Nam chỉ hữu hiệu trong mục đích bảo vệ quyền lợi của mỗi nước qua từng thời kỳ.
Từ khi bắt đầu có phong trào Cọng Sản Việt Nam, Hồ chí Minh và những đồng chí của ông duy trì quan hệ chặt chẽ với đảng Cọng sản Trung Hoa. Một số lớn cán bộ Cọng Sản Việt Nam được huấn luyện quân sự và học tập chính trị ở Trung Hoa và có thời gian sinh hoạt trong quân giải phóng của Mao. Một thời gian ngắn sau khi giành được chính quyền ở Hoa Lục, Bắc Kinh thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc ấy đang đặt căn cứ trong rừng rừng rậm là chính phủ của nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa. Lần thứ hai trong lịch sử (lần thứ nhất là khi quân cờ đen qua giúp Việt Nam chống Pháp hồi thập niên 1880) vũ khí và bộ đội Trung Hoa vượt qua biên giới vào Việt Nam để giúp Việt Nam (CS) chống lại kẻ thù. Nói rõ ra là những vũ khí đó đã giúp Giáp gặt hái chiến thắng lịch sử ở Điện biên phủ (1954). Về sau, Bắc Kinh nói rằng những tướng lãnh hàng đầu của Trung Hoa như tướng Trần Canh (Chen Kang) có trách nhiệm trong việc vạch kế hoạch cho trận đánh này - người Việt Nam (CS) cười ngạo nghễ trước luận cứ này -. Dù vai trò thực của Trung Hoa trong trận đánh đó như thế nào đi nữa, về sau, nhiều sự việc cho người ta thấy rằng hợp đồng của Trung Hoa chính là quan tâm của họ (nếu không là nhiều quá) về sự an toàn dọc theo biên giới phía Nam của nước họ với Việt Minh đặt trên tình cảm và hữu nghị giữa hai bên vậy.
Do sự giải tỏa một số tài kiệu đáng tin về hội nghị Genève Đông Dương 1954 - lần đầu tiên đánh đấu sự xuất hiện Trung Hoa của Mao trên chính trường quốc tế, người ta biết tính chất truyền thống của Trung Hoa Cọng sản trong tiến trình quan hệ với Đông Dương như thế nào ngay từ lúc bắt đầu. Paul Mus, một học giả về Việt Nam và nguyên là cố vấn của cao ủy Pháp ở Đông Dương, năm 1965 nói rằng Trung Hoa nhượng bộ Pháp ở hội nghị Genève để ngăn chận Việt Nam chiếm toàn cõi Đông Dương. Mười bốn năm sau, Mus giải thích thêm rằng, điều quan tâm trước nhất của Trung Hoa trong hội nghị này, căn cứ trên hồ sơ lưu trữ là an ninh của họ - Nhà sử học pháp Francoise Joyaux cũng đồng quan điểm.