Một môn đồ Khổng giáo ở Genève
Một trong những bế tắc đầu tiên của hội nghị được phá vở là khi Trung Hoa gây áp lực với Việt Nam buộc nước này không được hỗ trợ cho chính phủ kháng chiến Lào và Khmer do Việt Nam dựng nên. Các chính phủ đó được Việt Nam giúp đỡ để tham gia hội nghị. Không riêng gì Chu Ân Lai, trưởng đoàn Trung Hoa, thất bại trong việc ủng hộ quan điểm của Việt Nam, chủ trương rằng các chính phủ kháng chiến này mới thực sự đại diện cho dân tộc họ. Chu cũng thuyết phục Cọng Sản VN đừng mở những cuộc tấn công vào Kampuchia để tăng cường vị trí của chính phủ kháng chiến Khmer. Quan tâm chính của Chu là ngăn Mỹ can thiệp vào Đông Dương. Sự can thiệp này có thể lôi kéo Trung Hoa vào một cuộc xung đột rộng lớn hơn. Chu Ân Lai nói riêng với trưởng phái đoàn Pháp là Trung Hoa chấp thuận các chính phủ Đông Dương thân Tây phương được tồn tại. Ông ta nói với Pháp: “Nếu các chính phủ vương triều này được nhân dân họ ủng hộ thì tôi thấy chẳng có lý do gì để họ không được tồn tại.” Ông ta nói Trung Hoa muốn hai vương quốc này trở thành những quốc gia hòa bình, dân chủ giống như Nam Dương, Miến Điện hay Ấn Độ. Ngay cả ba nước cũng có thể tham gia vào khối Liên Hiệp Pháp. Tuy nhiên, ông ta cảnh cáo “Nhưng chúng tôi không muốn các nước này trở thành căn cứ của Mỹ. Điều này đe dọa an ninh của Trung Hoa. Chúng tôi tự thấy chẳng ích lợi gì cho chúng tôi khi việc ấy xảy ra.”
Tuy nhiên, không hẵn vì mối đe dọa của Mỹ hiện diện ở vùng biên giới phía Nam Trung Hoa mà Chu Ân Lai công nhận hai vương quốc Lào và Kampuchia và thúc đẩy Việt Minh rút quân của họ khỏi hai nước này. Dù hiệp định Genève không làm cho Việt Minh hoàn toàn thỏa mãn đòi hỏi độc lập toàn bộ cho cả nước và tạm thời chia cắt đất nước chờ tổng tuyển cử, Chu nói với Pháp trong cuộc thảo luận rằng Trung Hoa muốn kéo dài sự hiện hữu hai nước Việt Nam, và, một cách tổng quát, nhiều quốc gia liên hệ tới biên giới của Trung Hoa. Trong một điệu bộ bất thường, biểu lộ sự công minh của một người cha trong cung cách cai trị theo kiểu Khổng giáo hơn là với tinh thần quốc tế vô sản, Chu mời thủ tướng Phạm Văn Đồng (thực ra lúc đó PVĐ là bộ trưởng Ngoại giao - nd) của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà (DRV) dự tiệc tối với các nhà ngoại giao khác của Đông Dương, gồm luôn cả đại biểu Mỹ và Pháp đang hỗ trợ cho chính phủ Bảo Đại. Trong bữa tiệc, Chu đề nghị đại biểu chính phủ Quốc gia (Bảo Đại - nd) thiết lập một văn phòng đại diện tại Bắc Kinh. Thấy sự ngạc nhiên hiện ra trên mặt Đồng vì đề nghị này, Chu giải thích, “Dĩ nhiên, về ý thức hệ, Phạm Văn Đồng gần gủi với chúng tôi hơn. Tuy nhiên điều ấy không thể loại trừ đại diện của miền Nam. Suy cho cùng thì cả hai phía Việt Nam của các ông và chúng ta không phải là người châu Á cả hay sao?”
Hai thập niên sau hội nghị Genève này, Bắc Kinh vẫn tiếp tục theo đuổi chính sách bằng mọi cách duy trì một Đông Dương manh mún không có một sức mạnh nào vượt trội. Âm mưu đó hiện hữu trong chính sách ngoại giao âm thầm, thuyết phục về kinh tế, và dĩ nhiên, cả sức mạnh quân sự... Mãi đến khi Mỹ bắt đầu can thiệp trực tiếp vào Lào năm 1963, Bắc Kinh không chỉ đề nghị với các đồng chí Pathet Lào của họ mà cả các chính phủ liên minh trung lập có thể tạo ra một vùng đệm ở phía nam Trung Hoa. Trung Hoa, cũng giống như Liên Xô, chẳng nhiệt tình gì lắm với việc xử dụng võ trang như là một phương cách để tái thống nhất Việt Nam.
Việc Bắc Kinh hỗ trợ quân sự cho những nổ lực của Hà Nội ở Lào và ở Nam Việt Nam vượt quá mối quan tâm của họ để đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương và tranh thủ với Liên Xô nhằm thu phục ý chí và tình cảm của những người Cọng Sản Đông Dương, đặc biệt với Viêt Nam (CS). Tự coi mình là kẻ chiếm hàng đầu trong các cuộc đấu tranh giải phóng quốc gia chống đế quốc Mỹ và tay sai, Trung Hoa tự cho họ có bổn phận ủng hộ cuộc chiến đấu của Việt Nam (CS). Khi Mỹ bắt đầu oanh tạc Bắc Việt hồi năm 1964, việc thiết lập hàng loạt căn cứ quân sự Mỹ và đưa 5 trăm ngàn quân Mỹ vào Miền Nam VN trong những năm tiếp sau, thì đó một trong những lý do căn bản để Trung Hoa đóng vai trò điều hòa trong hội nghị Genève 1954 không còn nữa. Đối đầu với đe dọa Mỹ có thể đưa quân bộ chiến vào Bắc Việt và với những cuộc oanh tạc của Mỹ sát biên giới Trung Hoa, Bắc Kinh không chỉ hy sinh một cách vô cùng to lớn cho Việt Nam để ủng hộ nước này, mà còn muốn Hà Nội nắm giữ vai trò lãnh đạo Đông Dương.
Bởi chiến tranh gia tăng cường độ ở Việt Nam, mà Hoa Thịnh Đốn cho rằng đó là do “chủ nghĩa bành trướng” của Trung Hoa ở vùng Đông Nam Á, lo lắng Trung Hoa có thể bị tấn công trực tiếp gia tăng một cách đáng ngại. Việc Trung Hoa viện trợ cho cuộc chiến đấu của Cọng sản VN vượt quá trách nhiệm của tình đồng chí. Đó là sự kiện bắt buộc vì chính an toàn của Trung Hoa. Vợ Mao, Giang Thanh, nói với phái viên nhiếp ảnh người Mỹ của bà “Nếu Bắc Việt Nam không chiến đấu thì kẻ thù sẽ tấn công vào Trung Hoa.”