Moscow đề phòng chủ nghĩa cơ hội
Hồ Chí Minh theo chủ nghĩa Mác-Lênin và hướng về Liên Xô vì tuồng như diều nầy hứa hẹn độc lập cho đất nước ông ta. Cùng một ý tưởng đơn giản như thế để tái thống nhất đất nước, dưới sự chỉ đạo của Cọng Sản, thúc đẩy Việt Nam tiến gần hơn các nước anh em xã hội chủ nghĩa sau hội nghị Genève 1954. Mặc dù có sự khác biệt về ý thức hệ, Việt Nam không bao giờ thân Liên Xô hay thân Bắc Kinh mà chỉ kiên trì với quyền lợi của nước họ. Với trường hợp ngoại lệ Hoàng Minh Chính năm 1967, khi Chính là giám đốc trường đảng, và một số đảng viên khác bị bắt vì bị gán tội làm gián điệp cho Liên Xô. Người ta biết rằng ở Việt Nam không có trường hợp nào thanh trừng thẳng thừng những người trung thành với ngoại quốc. Cuộc thanh trừng những phần tử thân Trung Hoa ra khỏi đảng chỉ xảy ra sau năm 1975 mà thôi.
Không hẵn chính sách của Hà Nội không đứng vào vị thế trung lập, nhưng khi thì nghiêng bên nầy, khi thì nghiêng bên kia trên căn bản hiệu quả mối quan hệ đó có làm cho họ đạt được mục tiêu cao nhất hay không. Năm 1963, khi Khrushchev đã kích chiến tranh giải phóng có hại cho hòa bình thế giới thì Việt Nam nghiêng về phía Trung Hoa, thóa mạ việc làm giảm căng thẳng thế giới và hiệp ước hạn chế võ khí nguyên tử. Nhưng năm 1972, khi Richard Nixon thăm Mosocw và Bắc Kinh trong khi Hoa Kỳ vẫn tiếp tục oanh tạc Bắc Việt, Hà Nội lên án bọn theo đuổi “chủ nghĩa cơ hội” của các nước Cọng sản vì quyền lợi ích kỷ, hẹp hòi mà hy sinh quyền lợi của giai cấp vô sản thế giới, trong trường hợp Việt Nam thì hy sinh nổ lực thống nhất khối Cọng Sản.
Moscow, muốn làm giảm căng thẳng với Hoa Kỳ và lo ngại bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh phiêu lưu của Việt Nam CS ngày càng mở rộng hơn nên lạnh nhạt trong quan hệ với Việt Nam CSsau mùa xuân năm 1968, sau cuộc tổng tấn công của Cọng sản ở Miền Nam Việt Nam. Moscow bị kẹt giữa cơ hội Việt Nam thống nhất và hiểm họa do các hoạt động quân sự của Việt Nam CS. Liên Xô không muốn Mỹ quay trở lại Việt Nam làm cho họ phải đối đầu với những khó khăn mà họ không thể giải quyết được, để phải hàng phục hay leo thang xung đột. Khi Hoa Thịnh Đốn bắt tay với Moscow để ngăn chận Hà Nội, Liên Xô không nhiệt tình lắm khi cảnh giác Hà Nội, nhưng lại lợi dụng cơ hội nầy để trấn an Mỹ: “Việt Nam không có ý làm hại uy danh Hoa Kỳ.” Đó là một phần nội dung trong bức điện trấn an tổng thống Ford một tuần lễ trước khi Sàigon sụp đổ.” Quả thật Việt Nam không tôn trọng lời hứa của họ. Bằng việc tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất, họ đã chấm dứt con đường di tản bằng phi cơ thường và buộc Hoa Kỳ phải vội vàng thoát ra khỏi Việt Nam bằng phi cơ trực thăng đậu trên sân thượng các cao ốc là con đường không vẽ vang gì cho lắm. Không những Liên Xô đã không thúc ép Bắc Việt hoạt động quân sự chừng mực mà còn gởi điện văn chúc mừng Hà Nội, chẳng màng gì tới Hoa Kỳ, điều đó còn được xem như là xát muối vào vết thương của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, Liên Xô cũng lưu tâm tới sự kiện Việt Nam xung đột với Trung Hoa qua hàng ngàn năm lịch sử và nay có thể chuyển hướng qua phía Liên Xô. Việt Nam chứng tỏ là một đồng minh vô giá trong việc ngăn chặn Trung Hoa tiến về phía Nam, đặt từng bước vững chắc có ảnh hưởng và có sức mạnh đối với vùng Đông Nam Á. Liên Xô cũng có thể xử dụng các hải cảng Việt Nam và có cơ hội mới để tăng cường sức mạnh của họ ở vùng nầy. Chỉ mấy ngày sau khi Saigon sụp đổ, hàng loạt đại biểu Liên Xô tới Hà Nội để giúp đỡ và chia xẻ vinh quang với Cọng sản Việt Nam. Sau nhiều năm chần chừ và lưu tâm tới việc hỗ trợ cho Việt Nam, giờ đây, Liên Xô sẵn sàng ôm hôn kẻ chiến thắng. Tuy nhiên, họ phải miễn cưỡng trả một giá cần thiết. Một viên chức Liên Xô phàn nàn với Ngoại trưởng Liên Xô Andrei Gromyko hồi tháng 9/ 1975: “Vấn đề là, chúng ta không thấy làm thế nào mà chúng ta nói Không. Những thằng con hoang nầy bắt đầu làm như chúng tự làm hết mọi sự và bây giờ chúng ta nợ chúng nó mặt trăng.” (13)
Ngày 4 tháng 5, chỉ 4 ngày sau khi xe tăng Liên Xô chế tạo húc đổ cổng dinh Độc lập, tàu chở hàng Liên Xô Nina Sagaida và tàu dầu Komsomolets Primorya tới cảng Đà Nẵng ở Nam Việt Nam. Hai tuần sau, nhiều tàu Liên Xô cập cảng Saigon đem theo thực phẩm và dầu. Những “hoạt động nhân đạo” này không phải để gặt hái lòng biết ơn của Việt Nam. Nó nhằm tạo ra một con đường thường xuyên hơn và xử dụng các hải cảng phía Nam VN. Nhiều năm sau, một viên chức Việt Nam nói với tôi là chỉ một thời gian ngắn sau khi chiến thắng Miền Nam, Liên Xô đòi xử dụng các phương tiện hải quân ở phía Nam VN - và đã bị từ chối một cách lịch sự. Mặc dù nhận được viện trợ kinh tế và kỷ thuật có giá trị, Hà Nội vẫn muốn tự mình vạch ra đường lối ngoại giao cho chính họ. Cùng với yêu cầu xử dụng các hải cảng, Việt Nam cũng có khuynh hướng ký một thỏa ước hữu nghị với Liên Xô. Mặc dù về mặt ý thức hệ, Hà Nội gần gủi với Moscow hơn Bắc Kinh, Việt Nam không muốn từ bỏ vị trí trung lập trong cuộc xung đột của hai nước nầy. Tham gia vào một liên minh công khai với Liên Xô mà không tuyên bố công khai cho Liên Xô xử dụng các hải cảng, có thể là hành động khiêu khích Trung Hoa, đó là điều Hà Nội không muốn.
Dù Trung Hoa có biết việc từ chối đó hay không, họ vẫn còn ngờ vực những gì các nhà cách mạng Việt Nam có thể thỏa thuận với Liên Xô. Vài tuần sau khi Saigon sụp đổ, chủ tịch Mao được báo cáo cuộc viếng thăm của thủ tướng Thái Lan, Kukrit Pramoj, kế hoạch của Việt Nam chiếm đóng cả khu vực, nơi họ sẽ hành động như “biên giới của đế quốc Liên Xô ở Á châu.”
Nếu quả thật Mao có tuyên bố như thế thì còn một điều quan trọng mà Việt Nam hiểu sai. Chiến thắng ở Saigon hoàn tất giấc mơ của Hồ Chí Minh và đồng chí ông ta nhưng gặp nhiều thử nghiệm và nghịch cảnh. Hơn bao giờ hết, đảng Cọng Sản VN giờ đây thấy tự do hơn trong việc chọn đuờng đi cho chính họ. Không ai bày tỏ rõ ràng niềm tự hào của Việt Nam và thấy được tính cách quan trọng của nó như Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân Dân. Là một cọng sự viên của Hồ Chí Minh, ông đã trãi qua suốt cuộc chiến đấu chống Pháp giành độc lập, trận Điện Biên Phủ và những năm dài đen tối trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tháng Bảy/ 1975, tôi đến gặp ông ta trong văn phòng nhỏ của ông tại một tòa nhà cũ ở Hà Nội. Từ cửa sổ, người ta có thể hóng mắt nhìn xuống những tàng lá cây xanh bên hồ Hoàn Kiếm. Hồ nầy có huyền thoại về một thanh kiếm của vị anh hùng lịch sử trong cuộc chiến đấu giành độc lập. Gương mặt phong sương của Hoàng Tùng hiện lên những vết nhăn khi Hoàng Tùng cười và nói: “So với bất cứ thời gian nào trong quá khứ, chúng tôi bây giờ tự do hơn và mạnh hơn. Chiến tranh kết thúc, cuối cùng loại trừ được những trở ngại trong việc vạch ra đường lối của chúng tôi”. Tùng chẳng cần giấu giếm sự thực là cuối cùng chiến thắng cũng tới, mặc dù có sức ép từ Bắc kinh và Moscow không muốn đẩy Hoa Kỳ vào góc tường. Ông ta nói Hà Nội đã thắng lợi và đang phải đối đầu với những khó khăn mới, không những từ phía kẻ thù mà còn từ phía bạn hữu nữa. Trong chỗ riêng tư, vài viên chức chân thật hơn, tự hào một cách rõ ràng hơn, nói rằng Hà Nội tự vạch chiến lược để đạt thắng lợi cuối cùng ở miền Nam mà không thông báo đầy đủ cho các đồng minh trong khối xã hội chủ nghĩa biết. Những ngày cuối cùng của tháng 4/75, Hà Nội không màng tới những lời khuyến cáo riêng từ phía Bắc Kinh cũng như Moscow chống lại việc chiếm đóng Saigon bằng vũ lực mà họ ngại rằng có thể làm cho Washington mở ra một sự can thiệp mới vào Đông Dương.
Đưa ra ví dụ về việc Hà Nội bây giờ tự do bày tỏ ý kiến mình, Tùng nói: “Bây giờ chúng tôi có thể công khai ủng hộ Ấn Độ chống lại âm mưu của phe tư bản, mặc dù điều đó làm cho Bắc Kinh không vui. Chúng tôi ủng hộ đảng Cọng Sản Bồ Đào Nha chống lại việc Liên Xô muốn chỉ đạo họ, có thể làm cho các đảng Cọng sản khác phê phán.” Ông ta nói tới việc chống đối của Bắc Kinh vì Ấn Độ tuyên bố tình trạng khẩn trương hồi tháng Sáu và việc Bắc Kinh đã kích đảng Cọng sản Bồ Đào Nha là tay sai của Liên Xô. Những quan chức Việt Nam khác nói với tôi rằng họ không đồng ý chính sách của Liên Xô cam kết vô nguyên tắc với Hoa Kỳ hay lời kêu gọi của Liên Xô tập họp một hệ thống an ninh ở Châu Á, chẳng có mục đích gì ngoài việc chống Trung Hoa. Một năm sau, trong cuộc phỏng vấn, tôi lại hỏi Hoàng Tùng ý kiến của Liên Xô, - thả nổi từ 1969 đến nay - về việc xây dựng một nền an ninh, được coi như là một hành động tập hợp các nước ở châu Á tham gia một thỏa hiệp chống Trung Hoa. Làm thế nào có thể tập họp họ lại thành một nhóm. Làm thế nào có thể tập hợp thành một tập thể với Suharto (của Indonesia) và Seni Pramoj (của Thái Lan)
Rõ ràng Hà Nội không sẵn sàng từ bỏ viện trợ cho các cuộc đấu tranh cách mạng tại các nước châu Á để giúp Liên Xô lôi kéo các nước phản động vào kế hoạch bao vây Trung Hoa. Hồi tháng Tư/1977, một nhà báo Việt Nam nói với tôi.: “Liên Xô mềm mỏng khéo léo. Họ muốn giảm căng thẳng với Hoa Kỳ để sản xuất thêm nhiều xe hơi và tủ lạnh cho dân họ. Ngoài việc chống Trung Hoa, họ chẳng có lợi gì khi hỗ trợ cho các phong trào đấu tranh giải phóng tại Thế giới Thứ Ba.”