← Quay lại trang sách

Nền Độc lập đắt giá

Trong niềm hân hoan chiến thắng đến một cách bất thình lình, Hà Nội thấy phấn chấn. Nếu họ thắng được một kẻ thù hùng mạnh nhất thì chẳng có gì mà họ không làm được. Tại sao họ không thể có dồi dào công nhân có tài năng, nông nghiệp phong phú, có đủ các loại mỏ cần thiết, có lẽ bao gồm cả dầu lửa, và biển nhiều tôm cá. Xây dựng một nền kinh tế mạnh trên những điều kiện đó chắc chắn là một nhiệm vụ dễ dàng hơn chiến đấu chống lại nước Mỹ không lồ. Ít ra, đây cũng là điều những nhà lãnh đạo nghĩ tới. Nhưng điều phấn chấn ấy bay vọt mất khi họ phải đối đầu với thực tế của một nền kinh tế lún sâu dần. Nhu cầu viện trợ kinh tế và kỷ thuật để xây dựng một đất nước bị tàn phá vì chiến tranh cùng với gánh nặng do hậu quả thống nhất đất nước tạo ra cho Việt Nam mới giành được độc lập. Trong khi thảo luận riêng với Moscow về chính sách tương lai, Hà Nội thỏa thuận mọi đòi hỏi của Liên Xô. Không giống như trong chuyến đi Bắc Kinh hồi tháng Chín, trong chuyến đi Moscow tháng Mười, Lê Duẩn đưa ra một bản thông báo nói về việc hợp tác lâu dài, trong đó, ông ta nói rằng Việt Nam “ủng hộ chính sách ngoại giao” của Liên Xô và nói tới “khúc quanh làm suy giảm căng thẳng để bước vào tiến trình không thể đão ngược được.” Giảm thiểu căng thẳng chỉ là một danh từ làm dơ bẩn tai người Trung Hoa. Hồi tháng Mười/ 1974, Việt Nam cũng tố cáo âm mưu của Hoa Kỳ nhằm chia rẽ các nước khối Cọng sản và che dấu mục đích thực sự của Mỹ là “đè bẹp các phong trào giải phóng dân tộc.” Nhiều tháng sau, một viên chức Việt Nam giải thích sự thay đổi đột ngột này cho một du khách có cảm tình với Việt Nam CS. Ông nầy nói với Peter Limqueco, giám đốc Nhật báo Châu Á Ngày Nay (Journal of Contemporary Asia): “Cái giá của độc lập thực mắc mỏ. Mỗi lúc chúng tôi bày tỏ độc lập là chúng tôi phải thắt lưng buộc bụng. Số lượng viện trợ từ các nước “anh em” hao dần đi cùng với cái thế đứng hiểm nghèo của chúng tôi.”

Sau khi Duẩn đi Moscow về được một tháng, một tờ báo biếm họa nhắc cho độc giả biết rằng chiến thắng có nghĩa là chấm dứt lòng hào hiệp của bằng hữu. “Trong chiến tranh, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ đầy ơn nghĩa từ phía bạn bè. Tuy nhiên, từ bây giờ trở đi, mối quan hệ kinh tế của chúng tôi với các nước anh em nằm trong tiến trình như sau: Mượn gì thì phải trả lại, tính lời trên vốn mua bán -tất cả đều ở trên nguyên tắc viện trợ hỗ tương và lợi ích cho cả hai bên.”

Nhìn vào nhu cầu khối lượng viện trợ đồ sộ để xây dựng Việt Nam thời hậu chiến, Hà Nội bị cuốn hút vào viện trợ của Tây phương nhiều hơn. Viện trợ nầy cũng có nghĩa là kỹ thuật cao hơn khối Cọng sản. Tuy nhiên, Hà Nội trù tính để giữ cân bằng khi theo đuổi chính sách ngoại giao không liên kết. Như sau nầy Việt Nam giải thích cho đại sứ Pháp ở Hà Nội, Philippe Richer, về mặt lý thuyết, họ muốn củng cố nền độc lập chính trị bằng một thỏa hiệp viện trợ “bốn đảng”, khối Liên Xô và Trung Hoa cung cấp một nửa viện trợ và Tây Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada cung cấp nửa còn lại. Tuy nhiên, họ muốn có sự quan hệ cân bằng với cả Moscow và Bắc Kinh. Dù vậy, khi họ nghiêng quan điểm của họ về phía nào để được viện trợ, thì Hà Nội cho thấy họ phải đi tới một kết luận: Nghiêng về phía Moscow thì tốt hơn. Liên Xô không những giàu mạnh hơn Trung Hoa mà còn muốn Việt Nam trở thành một nước hùng cường. Người ta không thấy ngạc nhiên, vì đối nghịch với Trung Hoa nên Trung Hoa từ chối bất cứ một lời cam kết viện trợ lâu dài nào cho Việt Nam, còn Moscow thì hứa viện trợ cho kế hoạch 5 năm của Việt Nam (1976-1980) và sự tín dụng dễ dãi. Tháng Mười/ 1975, Moscow ký thỏa ước viện trợ đầu tiên thời hậu chiến hứa đóng góp 60 phần trăm -tính khoảng 2 tỷ rưởi- cho kế hoạch kinh tế 1976-1980 của Việt Nam.

Dĩ nhiên, sự cao thượng của Moscow là phải có một cái giá. Việt Nam bỏ đi danh tiếng của mình và ủng hộ chính sách ngoại giao của Liên Xô. Việt Nam được yêu cầu phải ủng hộ sự giảm thiểu căng thẳng Xô-Mỹ, nhưng các nhà lãnh đạo Liên xô không hoan nghinh cố gắng nào của Hà Nội để mở rộng và đảo ngược quan hệ của chính họ. Điều đó chỉ có nghĩa là làm giảm thiểu sức nặng đối với ý nghĩ độc lập. Trong suốt năm 1976, Liên Xô chú tâm quan sát những cố gắng của Hà Nội nhằm phát triễn giao hảo kinh tế và chính trị với Tây phương và đạt tới vị thế không liên kết. Nhiệt tình ban đầu coi Việt Nam như là một “tiền đồn của khối xã hội chủ nghĩa” bắt đầu phai mờ ngay trong những tháng mới ký thỏa hiệp viện trợ Việt Nam.

Về ý thức hệ thì Hà Nội gần Moscow hơn Bắc Kinh nhưng họ thấy chẳng lợi lộc gì khi dính líu vào cuộc tranh cải của hai nước lớn nầy. Theo một bản báo cáo nội bộ về hội nghị thượng đỉnh Xô-Việt hồi tháng Mười/1976, ghi nhận là Việt Nam chẳng “quan tâm đến sự thích ứng nào với tình trạng hiện tại để giữ một vị thế trực tiếp với các dị biệt” giữa Trung Hoa và Liên xô. Nói cách khác, những người lãnh đạo Việt Nam lo lắng không muốn để cho miền Nam mới giải phóng biến thành một đấu trường cho hai kẻ thù địch Liên Xô và Trung Hoa. Việt Nam CS mời một số nưóc như Pháp, Na Uy, Ấn Độ và Nhật Bản đảm nhận một số chương trình kinh tế ở phía Nam, nhưng một cách có hệ thống, gạt Trung Hoa và Liên Xô ra ngoài. Thất bại trong việc bị Việt Nam từ chối mở tòa lãnh sự ở thành phố Hồ Chí Minh, Liên Xô đe dọa không cho tàu bè họ tới thủ đô miền Nam. Nhưng để biểu lộ sự công bằng, Việt Nam từ chối cả Liên xô lẫn Trung Hoa mở tòa lãnh sự tại thành phố Hồ Chí Minh và từ chối cả việc để cho họ hoạt động ở phía Nam. Tuy nhiên, Pháp thì được tiếp tục giữ tòa lãnh sự, các nhà ngoại giao và báo chí phương Tây đều được tự do đi lại vùng nầy.

Hồi tháng Năm/ 1975, một thông tín viên của hãng thông tấn Tass Liên Xô ở Hà Nội đi thăm phía Nam cùng với các bạn đồng nghiệp trong khối Cọng sản, than phiền một cách chua chát về sự “bất công” trong việc để cho các hãng thông tấn đế quốc như France-Presse, Associated-Press, Reuters, và United Press International đặt trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh trong khi ông ta thì bị từ chối. Mùa xuân năm 1976, một nhà ngoại giao Ấn Độ nói với tôi ở Hà Nội: “Thiệt đáng thương cho các nhà ngoại giao Liên Xô bị ngăn cản, các nhà ngoại giao khác thì từ Saigon về mang theo tin tức phía Nam.”

Trong đại hội lần thứ 25 đảng Cọng sản Liên Xô tháng Ba/1976, Lê Duẩn làm cho người Nga phát giận bằng cách ông ta nhấn mạnh đến hai chữ độc lập. Một ngày sau khi lý thuyết gia Liên Xô Mikhail Suslov tố cáo tính không chính thống của đảng Cọng sản Pháp, Lê Duẩn thẳng thừng dùng cơm trưa với nhà lãnh đạo Cọng sản Pháp Georges Marchaise. Trong bài diễn văn, Duẩn nhấn mạnh rằng những người Cọng sản có thể tìm ra những “phương cách đảo ngược, hình thức và đường hướng cho cuộc đấu tranh thích ứng với điều kiện của mỗi nước.”

Tháng Tám năm 1976, Phạm Văn Đồng đại diện cho Việt Nam tại hội nghị thượng đỉnh các nước không liên kết ở Colombo. Lần đầu tiên gặp số đông đại biểu các nước trong Khối Thứ Ba, Việt Nam rất được hoan hô, nhưng họ cũng phải đối đầu với đại biểu Liên Xô không được các nước nầy ngưỡng mộ lắm. Sau khi từ Colombo về, Ngô Điền nói với một nhà lãnh đạo Cọng Sản Ý: “Liên Xô phải cố gắng nhiều lắm để cải thiện hình ảnh của họ”

Tháng Chín/ 1976, Hà Nội được Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund) chuẩn nhận, và tháng Giêng tiếp đó, họ được giúp 36 triệu đôla. Việt Nam là nước Xã Hội Chủ nghĩa đầu tiên quan hệ với tổ chức nầy. Moscow coi IMF như là “phương tiện chính của đế quốc nhằm bóc lột các nước đang phát triển.”

Bắc Kinh, Moscow, và các nước cọng sản khác không tham gia vào tổ chức IMF nầy vì một lý do khác: các thành viên buộc phải trình bày cán cân chi phó và nguồn dự trữ ngoại tệ, điều đó có khác chi đem điều bí mật quốc gia ra mà nói cho kẻ thù.

Không có gì ngạc nhiên khi Liên Xô phê bình Việt Nam tham gia Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế và quan tâm về phương hướng lý thuyết khi Việt Nam mở cửa cho ngoại quốc đầu tư và kêu gọi các nhà đầu tư phương Tây đến hợp tác. Các nhà ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội không che dấu sự bất mãn của họ. Họ cay đắng cho rằng những cố gắng của Hà Nội nhằm lôi cuốn vốn Tây phương để xây dựng xã hội chủ nghĩa rồi ra sẽ thất bại. Một nhân viên ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội nói với một đồng sự người Ấn: “Tôi đã thấy Nam Tư thực hiện nhiều việc với vốn đầu tư của phương Tây.”

Liên Xô bất mãn Việt Nam vì Việt Nam từ chối tham gia vào Hội Đồng Hợp Tác Kinh Tế (CMEA), khối Xã Hội Chủ Nghĩa, thường gọi là COMECON. Hồi đầu năm 1977, một nhà ngoại giao Việt Nam nói với tôi: “Liên Xô nhấn mạnh rằng tất cả các nước Xã hội chũ nghĩa phải tham gia vào Comecon. Nhưng ngoại trừ Cuba, không một nước nào ở châu Âu chịu làm việc ấy. Chắc chắn chúng tôi cũng chẳng muốn tham gia vào đấy. Nếu chúng tôi vào hiệp hội nầy, Trung Hoa sẽ không vui.”

Hồi mùa hè năm 1976, tuồng như Liên Xô muốn rút lui một đề nghị trước kia về việc xây dựng một nhà máy thép hoàn chỉnh và một xí nghiệp quân nhu cho Việt Nam. Bất thình lình họ khám phá ra rằng Việt Nam không đủ than cốc và mỏ sắt có giá trị cao để có thể làm cho nhà máy hoạt động. Đồ tiếp liệu quân sự cũng thưa dần đi. Công tác thủy điện ở Bắc Việt Nam do Liên Xô đảm trách bị ngưng trệ. Hà Nội tức giận công bố một đề mục trong chương trình thủy điện sông Đà mà không tham khảo ý kiến với Liên Xô. Việt Nam lặng lẽ bắt đầu thăm dò Ngân hàng Phát triển Châu Á và các nước Tây phương, khả năng giúp họ tự xây dựng lấy chương trình thủy điện nầy. Một phái đoàn kinh tế Úc đến thăm Việt Nam hồi cuối năm 1976 ngạc nhiên vì các viên chức Hà Nội hỏi họ rất kỷ về phí tổn việc xây dựng một nhà máy thủy điện như ở Úc. Việt Nam không nói rõ họ đang có chương trình nào trong trí nhưng rõ ràng họ đang tìm một nguồn tài trợ thay thế cho chương trình sông Đà. Họ cũng công khai tìm kiếm một nguồn tài trợ khác thay thế Liên Xô trong chương trình nhà máy thép hoàn chỉnh. Trong khi tự kềm không tuyên bố công khai về những điều Liên Xô từ chối, họ đã yêu cầu nhà máy luyện kim Creusot-Loire của Pháp đảm nhận việc nghiên cứu để xây dựng một nhà máy như vậy.

Việt Nam cũng nói với Liên Xô họ cần viện trợ tức khắc trước khi hợp tác toàn vẹn với khối Xã hội chủ nghĩa và thực hiện đầy đủ yêu cầu của Liên Xô về việc gia tăng xuất cảng hàng hóa sang nước nầy. Hậu quả những công việc thăm dò như thế đã làm cho Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, hồi tháng Bảy/ 1976 thực hiện chuyến đi lâu dài ở Moscow và Bá Linh, nhưng không đạt được một thỏa hiệp viện trợ mới nào.

Sự bất mãn của Việt Nam với Moscow thường thường được các viên chức cấp thấp bày tỏ bằng cách châm chích việc thiếu lương thực và nguyên vật liệu ở trong nuớc, hậu quả của việc xuất cảng mà Liên Xô phải trả lại bằng hàng nhập cảng. Tháng Chín/1976, tờ báo “Học Tập”, cơ quan lý thuyết của đảng Cọng sản VN đã thúc đẩy nhân dân “nhận chân được sự thay đổi trong việc hợp tác quốc tế, và từ căn bản đó, cần hiểu rõ hơn nữa chính sách của chúng ta là tự lực, phải thực hiện nhiều cố gắng hơn nữa để sản xuất hàng xuất khẩu với số lượng lớn” Việt Nam trả đủa bằng các giảm bớt cố vấn quân sự Liên Xô từ 60 xuống còn 40 ngay sau đại hội đảng hồi tháng 12 và tới tháng Tư/ 1977 chỉ còn lại có 25. Viện trợ quân sự hàng năm của Liên Xô cho Việt Nam xuống còn 20 triệu. Quan hệ Việt-Xô tụt xuống tới mức khiến các nhà ngoại giao Liên Xô ở Hà Nội công khai than phiền rằng “Việt Nam vô ơn.” Mùa xuân năm 1977, một nhà ngoại giao châu Á có quan hệ rất gần gủi với Liên Xô ngạc nhiên về mức độ quan tâm của nước nầy đối với việc Việt Nam càng lúc càng đi sâu vào thế giới tư bản. Hơn bất cứ nước nào khác, Nhật bản lo lắng cho Việt Nam. Một nước Việt Nam tiềm tàng nguyên liệu và là một thị trường, có thể làm lợi đáng kể cho Nhật Bản. Đối thủ chính của Moscow là các nước Đông Á không cọng sản. Do đó, họ thấy sự quan hệ mật thiết Nhật bản và Việt Nam là một mối nguy, có thể làm cho Hà Nội quay lưng lại với khối Xã hội Chủ nghĩa và rơi vào cạm bẩy: vốn và kỹ thuật của phương Tây.

Cuối năm 1976, sự bất mãn của Việt Nam đối với thái độ của Liên Xô gia tăng vì sự hấp dẫn do nhiều cơ hội hợp tác mà Tây phương đề nghị. Việt Nam thương nghị bí mật với Nhật bản để yêu cầu viện trợ kinh tế. Các viên chức ở Hà Nội và Paris chuẩn bị cho cuộc thăm viếng của Phạm văn Đồng. Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền thành công trong chuyến đi thăm các nước không Cọng sản trong vùng Đông Nam Á hồi tháng Bảy/1976; tháng Mười Hoa Kỳ đề nghị bắt đầu thảo luận với Việt Nam và cuối cùng là chiến thắng của Jimmy Carter trong cuộc bầu cử tổng thống đem lại tin tưởng và nguồn hy vọng mới cho Hà Nội. Những điều nầy chứng minh thêm việc Đồng có hành động coi thường đại sứ Liên Xô tại Hà Nội trong buổi tiệc chiêu đãi hằng năm của Liên Xô.