Sự hình thành Quân Giải Phóng Khmer
Bộ chính trị họp một lần nữa hồi giữa tháng Hai ở vùng ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, tại một vùng biệt lập trước kia là Học viện Cảnh sát của chế độ Thiệu. Cuộc họp nhằm nghiên cứu những vấn đề then chốt trong kế hoạch thành lập đảng Cọng sản Kampuchia và tổ chức kháng chiến chống Pol Pot. Một thời gian ngắn sau cuộc họp, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ họp riêng với nhhững cán bộ đảng Cọng sản Kampuchia sống lưu vong ở Việt Nam từ năm 1954 và những người mới trốn khỏi các cuôc thanh trừng của Pol Pot đang nương náu ở Việt Nam. (49)
Theo Hiệp định Genève, khoảng vài ngàn người Khmer tập hợp tại Hà Nội. Số đông đã trở lại Kampuchia tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cở một chục người còn ở lại Bắc Việt Nam. Một số ít sống sót sau chiến tranh và sau các cuộc thanh trừng. Vì thế, số ứng viên được nhắm để đóng vai trò lãnh đạo hồi tháng Hai chỉ là một nhóm nhỏ sống sót. Đó là các ông Pen Sovan, một cán bộ 45 tuổi, năm 1954 đến Bắc Việt Nam cùng với hàng ngàn người khác, theo học trường đảng và quân sự ở Hà Nội và đóng lon thiếu tá trong quân đội Việt Nam CS. Chan Si và Khang Sarin, những thiếu tá trong quân đội Việt Nam CS; Tang Saroem, một người Khmer lưu vong, đang làm giám thị ở mỏ than Hòn Gay, Keo Chanda, phát ngôn viên chương trình Khmer của đài phát thanh Hà Nội; Chea Soth, biên tập viên Thông tấn xã Việt Nam. Cùng với họ là những người trốn từ Kampuchia sang, các cán bộ chính trị như Heng Samrin, Yos Por, Hun Sen và Bou Thang.
Lôi ra từ những văn phòng vô danh và từ trong trại tỵ nạn, bất thần họ được trình diện trước các nhà lãnh đạo chóp bu Việt Nam, những người trước kia họ chỉ thấy trên tranh ảnh mà thôi. Nhờ vận may, họ trở thành những nhà lãnh đạo của nước Kampuchia mới đang còn trong bào thai. Lê Đức Thọ nói với họ rằng đã đến lúc phục hồi quan hệ và hợp tác đã có giữa hai đảng Cọng sản Việt Nam và Kampuchia, phát triển cấu trúc chính trị và quân sự của phong trào kháng chiến mới cho Kampuchia. (50)
Suốt trong tháng Ba/1978, thăm trại tỵ nạn Khmer, tôi gặp một trong những người lãnh đạo như thế mà không rõ vai trò của họ trong chiến lược của Việt Nam. Khi đoàn truyền hình đang quay phim một phụ nữ nói về đời sống dưới chế độ Pol Pot; hàng trăm đồng bào của bà ta đang tụ tập chung quanh, tôi lẻn ra ngoài nói chuyện với vài người Khmer mà không có người Việt Nam đi kèm tôi. Thong Pak, một quan chức của chế độ Lon Nol cũ, nói thầm vào tai tôi về một khóa học chính trị buổi tối để chuẩn bị chiến đấu chống lại Pol Pot. Ông này chỉ cho tôi thấy một người lùn, mập, đội cái mũ cối quân đội: “Chính ông ta, ông Đức. Ông ta là giảng viên chính trị.”
Mặc áo trắng ngắn tay, quần kaki, dép nhựa, khuôn mặt tròn. “Ông Đức” hơi có vẻ e ngại một chút khi tôi tới gần để hỏi về cuộc đời của ông. Ông ta ngại ngùng khi nói chuyện với người lạ. Mặc dù ông ta có vẻ là người Việt và có bộ tịch như cán bộ Cọng sản Bắc Việt Nam, nhưng ông ta là người có dòng máu Khmer trăm phần trăm, một cán bộ cũ của đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia. Giống như hàng ngàn cán bộ đảng khác, ông ta tới Hà Nội năm 1954 theo Hiệp định Genève. Năm 1971, ông ta trở lại Kampuchia tham gia cuộc kháng chiến chống Lon Nol. Tuy nhiên, chỉ trong vòng 3 năm ông ta phải chạy trở lại Việt Nam để trốn tránh cuộc thanh trừng của Pol Pot. Sau ba năm sống như một nông dân trong một làng ở đồng bằng sông Cửu Long, “Đức” nói, ông ta quay trở lại theo tiếng gọi của Cách mạng. Nhiệm vụ của ông ta là huấn luyện các tân binh và cán bộ trong số những người tỵ nạn để chống lại chế độ Pol Pot. Ba năm sau nữa, ở Phnom Pênh, tôi khám phá ra Yos Por, người lãnh đạo ỏMặt trận Đoàn kết Cứu nguy Quốc gia Kampuchiaõ mới (Kampuchean National United Front for Salvation- KNUFNS), người có nụ cười cương quyết, mặc bộ quần áo màu sáng, đeo cái đồng hồ vàng to, chẳng ai khác hơn là “Ông Đức” ở trại Bến Sanh; khác hẵn với điều mong muốn trở thành một nông dân trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, ông ta trãi qua ba năm ở Hà Nội trước khi nhận nhiệm vụ này.
Chỉ bốn tháng sau khi ngoại giao với Kampuchia bị cắt đứt, một loạt các trại bí mật được dựng lên ở miền Nam Việt Nam để huấn luyện cho du kích Khmer. Các nhà lãnh đạo ở Hà Nội thực hiện những điều họ cho là tốt đẹp nhất. Có điều mai mỉa là trong khi chuẩn bị cuộc “giải phóng” thứ hai cho Kampuchia, họ đã làm đầy đủ những điều mà kẻ cựu thù họ đã làm - Hoa Kỳ và chế độ Thiệu để lại. Học viện cảnh sát Thủ Đức, cách ly bởi những bức tường cao có rào kẽm gai ở vùng ngoại ô thành phố Hồ Chí Minh, trở thành căn cứ chính và bí mật khi đảng Cọng sản Khmer còn sơ sinh. Những căn cứ quân sự cũ của Mỹ ở Xuân Lộc và Long Giao gần thành phố Hồ Chí Minh và căn cứ trực thăng Vị Thanh ở đồng bằng sông Cửu Long, bí mật trở thành những căn cứ mới để mở ra cuộc chiến bí mật chống Pol Pot.(51). Ngày 22 tháng Tư/1978, Binh đoàn thứ nhất của quân đội kháng chiến được trao quyền trong một buổi lễ bí mật. (52) Tới cuối năm 1978, vài binh đoàn như thế sẵn sàng tham gia với quân đội Việt Nam trong cuộc tiến công chống lại Kampuchia.
Cùng với sự chuẩn bị bí mật, Hà Nội cũng gia tăng bộ máy tuyên truyền. Trong khi báo chí và đài phát thanh Việt Nam đưa ra vô số bản tường trình về những hành động sai lầm của Khmer Đỏ, mở rộng cửa cho báo chí ngoại quốc. Trong khoảng hai năm sau khi tôi rời Saigon, chỉ có hai lần tôi tới Việt Nam vì thơ mời và điện tín của nước chủ nhà. Bây giờ thì mới có ba tháng tôi lại được mời trở lại đây. Chẳng bao lâu sau khi tôi tới Hà Nội, ngày 4 tháng Ba/ 1978, các quan chức Việt Nam cho tôi thấy rõ mục đích của chuyến đi này là để biết toàn bộ vấn đề Kampuchia. Tôi không muốn tìm thăm các quan chức trong Ủy ban Kế hoạch Nhà nước hoặc thăm viếng các hợp tác xã ở lưu vực sông Hồng Hà. Phạm văn Cương, một quan chức có nhiệm vụ hướng dẫn các đoàn báo chí thăm viếng Việt Nam nói với tôi: “Anh phải hiểu một cách rõ ràng nguồn gốc vấn đề của chúng tôi với Kampuchia.”
Người được Hà Nội chọn để dùng mưu mẹo trong việc xử dụng chiến tranh tuyên truyền chẳng ai khác hơn là thứ trưởng bộ Ngoại giao. Ngày 5 tháng Ba, ông ta mời tôi và hai nhà báo châu Âu -Roland Pierre Paringaux của báo Le Monde và Karel Van Wolferen của NBC Handelsblad tới ăn cơm riêng và nói chuyện. Lời mời này làm tôi nhớ lại những kỷ niệm cũ vào một sáng thứ bảy năm 1974-75, tôi tìm đường lẻn vào trại David ở trong phi trường Tân Sơn Nhứt ở Saigon có lính gác rất chặt chẽ. Theo Hiệp định Paris 1973, các cuộc họp báo được tổ chức hằng tuần do một đại tá Việt Cọng mặc bộ đồ xanh lá cây chủ tọa. Mặc dù đại diện Việt Cọng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Saigon khó khăn trong việc duy trì cuộc ngưng bắn - mục tiêu giả của họ - báo chí được mời đến uống trà, nước ngọt, và đôi khi đưọc uống rượu đế hiệu “Lúa Mới”. Người thường họp và uống rượu với báo chí là đại tá Giang, chủ nhân bữa tiệc mời chúng tôi tối hôm đó.
Hai gò má sâu, mắt nhỏ như hột nút và sáng, Giang có vẽ hơi ốm, mặc áo trắng, trông già dặn. Ông ta nói thông thạo cả ba thứ tiếng Pháp, Anh và Tây Ban Nha - một thời ông ta phục vụ tại tòa đại sứ chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Cuba. Ông ta có vẻ dịu dàng, che dấu được nét hốc hác trong cuộc đời cách mạng gian khổ. Rõ ràng đây là cơ hội gặp “người bạn cũ tại những ngày ở Tân Sơn Nhứt”. Trong ba giờ liền, một mình ông ta nói tới những điều đáng buồn về cuộc xung đột huynh đệ tương tàn và những lời đã kích chua cay Pol Pot, và cả những người ngoại quốc đứng đàng sau ủng hộ ông này. Giang tiết lộ một số sự việc xung đột mà trước kia chưa ai nói tới.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, một người có nhiệm vụ tiếp xúc với báo chí ngoại quốc, Bùi hữu Nhân, đưa ra tấm vé du lịch để trống: “Ông có thể đi bất cứ nơi đâu dọc theo biên giới Miên Việt, đến khi ông thỏa mãn những điều ông biết về vấn đề này thì thôi.” Những lời mời công khai như vậy, rõ ràng là muốn đạt kết quả tới mức tối đa đối với những nhà báo còn bi quan, để biết rằng Việt Nam chẳng có gì dấu họ hết, cho họ biết sự thực về những nạn nhân của các cuộc tấn công của Khmer Đỏ, và không như Pol Pot tố cáo, không có gì gọi là Việt Nam muốn bành trướng cả.
Tỉnh Tây Ninh là nơi đáng nôn nóng để tới hơn hết. Thành phố rải rác với những chòi tạm trú -sát trên vỉa hè thành phố, kề những công thự, và trên đất tư của nhà dân. Phía bắc thành phố, cách biên giới Kampuchia vài dặm là làng Tân Lập, với những dãy nhà tranh vách đất bị cháy rụi, nằm dọc hai bên con đường đất. Đây là chứng cớ cuộc tấn công của Khmer Đỏ sáu tháng trước. Đây là cái làng Sandor Gyori đã bị tịch thu phim ảnh chụp về cuộc tàn sát của Khmer Đỏ. Bây giờ chúng tôi nói chuyện với bà Nguyễn Thi Cư không khó khăn gì, bà là một trong sô ít người sống sót ở trong làng. Bà ta khóc nức nở khi kể lại cuộc tàn sát. Ngoại trừ người anh (em) bị thương trong cuộc tấn công, bảy người trong gia đình bà đều bị giết. Bà cũng như người anh (em) nằm chui vào đống xác người và giả vờ chết.
Dọc theo biên giới, chúng tôi còn thấy nhiều làng mạc hoang tàn, những ruộng lúa bỏ hoang, và hàng trăm ngôi mộ. Chúng tôi nghe những người sống sót thuật lại những câu chuyện dông dài về những tội ác như thời trung cổ. Trí óc tôi chẳng còn nghi ngờ gì về sự thực cuộc xung đột cay đắng mà đã lâu, Việt Nam muốn dấu kín thế giới. Dù có cho rằng Hà Nội sắp đặt để chưng bày cho báo giới thì những chứng cớ này cũng đã quá rõ ràng.
Tuy nhiên, tất cả những điều tôi thấy hôm đó cũng không cho tôi biết mới đây có những cuộc tấn công lớn bằng mức độ cuộc tấn công năm ngoái. Sự thực, tôi thêm nghi ngờ bây giờ chủ động là phía Việt Nam. Dầu sao, ai có thể giải thích được tại sao bây giờ chúng tôi có thể thảnh thơi khi đứng sát biên giới. Những dấu xích chiến xa trên con đường đất gần biên giới tỉnh Tây Ninh với Kampuchia và một chiếc xe vận tải nhà binh chở đầy bắp cải đậu sát biên giới - rõ ràng là chở đồ tiếp liệu cho binh sĩ- những thứ đó cho thấy quân đội Việt Nam đã tiến sâu vào nội địa Kampuchia ở những nơi có thể tiến được, họ đã đẩy một “cordon sanitaire” -hàng rào y tế - vào bên trong lãnh thổ Kampuchia. Tình hình này tạo cho người ta lòng tin về an ninh, để có thể đưa giới báo chí quốc tế ra tận biên giới xem xét chứng cớ sự cướp bóc của Khmer Đỏ.
Điều nghi ngờ Việt Nam ngưng chiến tranh tuyên truyền đã được chứng minh trong chuyến thăm làng An Phú thuộc tỉnh Châu Đốc. Rõ ràng là làng vừa bị Khmer Đỏ pháo kích và tấn công hai ngày trước đó. Dấu hiệu của sự tàn phá còn rõ. Dân làng đang kiếm tìm đồ đạc của họ trong những căn nhà bỏ hoang sau khi được đưa đến nơi tạm trú.
Tuy nhiên, có ai đó quyết định cho các nhà báo tiểu tư sản ưa đi tìm cảm giác, biết một chút hành động của họ. Một vài người trong số chúng tôi hơi bi quan về việc các trái pháo đang rít ở trên đầu khi nó từ bên phía lãnh thổ Kampuchia bắn sang. Một lúc sau, người thông dịch viên của tôi - đi theo từ Hà Nội, tên Huỳnh văn Tâm - gọi: “Chúng ta tới bìa làng, có thể thấy họ đang đánh nhau.” Chúng tôi được cho mượn ống nhòm và biểu hãy nhìn vào hàng cây bên kia cánh đồng lúa. Chỗ đó là biên giới với Kampuchia. Một người lính Việt Nam đi theo chúng tôi đứng bên bụi tre, nói vào máy truyền tin ông ta mang trên lưng. Bỗng nhiên, ông ta la to lên: “Xuống hầm ngay.” Mấy giây sau có tiếng trái pháo bắn đi từ phía sau lưng chúng tôi, tiếp sau là tiếng đạn rít và có tiếng nổ ở phía hàng cây chúng tôi đang quan sát. Tiếng người sĩ quan cau có: “Bọn Khmer đang tấn công.” Ông ta chẳng lưu tâm núp đạn. Rồi vài loạt đạn bắn tới và tiếng súng nổ. Chúng tôi lại được yêu cầu núp đạn. Một trái đạn khác rít trên đầu chúng tôi và nổ ở phía hàng cây.
Chúng tôi cười vì cho rằng đó là cố gắng của họ muốn gây ấn tuợng cho chúng tôi. Một quan chức đi theo chúng tôi từ thành phố Hồ Chí Minh mặt dài ra. Tình hình thiệt là tệ hại vì Pol Pot chẳng phản ứng gì để bên phía Việt Nam có cớ mở một cuộc tấn công khác trong khi các nhà báo đang có mặt ở đây. Chúng tôi biết ra điều ấy thì đã quá trễ.
Chưa tới một trăm dặm phía trước, ở một chỗ khác trên biên giới, một trận chiến thực sự đang xẩy ra để đánh đuổi quân Khmer Đỏ đang mở cuộc tấn công.
Ba ngày sau, tại khách sạn ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi lại được Tâm đánh thức dậy bất thường. Tâm báo cho tôi biết trong vòng một giờ nữa, các nhà báo phải có mặt tại phi trưòng Tân Sơn Nhứt để đi thăm một chỗ chưa được thông báo.
Một số đông nhà báo đang ở phi trường Tân Sơn Nhứt, có các nhà báo phương Tây, Cuba, một toán quay phim người Ba lan, một số phóng viên nhiếp ảnh và quay phim Việt Nam. Tất cả đi Hà Tiên. Tim tôi muốn ngất xỉu khi thấy phương tiện di chuyển. Nó giống như một con quái vật thời tiền sử: Một chiếc trực thăng Chinook xơ xác. Màu sơn lá cây đã bạc. Chỉ có cái nét vẽ còn lại trên chiếc máy bay hạng nặng cũ kỷ này của quân đội Mỹ để lại sau khi rút đi là dấu hiện ngôi sao vàng đỏ của không quân Việt Nam trên thân máy bay. Hai cái cửa sổ là hai cái lỗ. Mấy sợ giây điện xoắn vào nhau treo lững lơ trong thân máy bay. Dù sao thì rồi máy cũng nổ, chúng tôi được nâng lên khỏi bãi đáp. Tôi nhìn xuống những hàng máy bay khác nhau còn lại, trông đen đủi và giống như loài thú ăn thịt. Đó là di sản chú Sam để lại cho nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Chẳng bao lâu chúng tôi bay trên cánh đồng sậy, lỗ chỗ những hố bom và đạn pháo, và màu xanh rợp của đồng bằng sông Cửu Long -chằng chịt những con kinh màu nâu. Gió mát từ các cửa sổ hư tạt vào. Những cửa sổ hư này giúp chúng tôi thấy mặt đất bên dưới rõ hơn là qua những cửa kiếng đầy vết bụi và dầu. Sau khi ngừng lấy thêm dầu xăng ở Cần Thơ, thủ phủ vùng đồng bằng, chúng tôi bay đi Hà Tiên.
Tôi nhìn xuống phi trường Cần Thơ hoang vắng, một trong những phi trường lớn nhất do Mỹ xây dựng ở Việt Nam. Những chiếc A-37 do Mỹ chế tạo chứa đầy bom, gầm thét rời khỏi phi đạo, chắc chắn là với nhiệm vụ tấn công Kampuchia. Tôi lại cảm thấy mai mỉa trước toàn bộ những việc như thế. Chỉ mới ba năm trước, Hoa Kỳ chiến đấu chống “Kampuchia đại điện cho Hà Nội”. Hồi ấy bộ trưởng Ngoại giao Kissinger chẳng tin Lê Đức Thọ khi Thọ nói rằng ông ta không đủ khả năng gây ảnh hưởng với Khmer Đỏ. (53) “Nói cho cùng, không phải là Cọng Sản Kampuchia do Việt Nam đẻ ra hay sao?”
Tóm tắt cuộc hành trình của chúng tôi, gồm cả trạm dừng chân ở Hà Tiên, được vẽ trên tấm bản đồ dã chiến Mỹ bọc plastic. Nhưng giờ đây thì không còn người sĩ quan Mỹ nói giọng rền rền của bang Texas hướng dẫn cuộc hành trình và vị trí địch quân được đánh dấu bằng bút chì không phải là Việt Cọng hay Cọng sản Khmer -nói theo kiểu các sĩ quan Mỹ thời đó- nhưng lại là quân Pol Pot của nước Kampuchia Dân chủ. Bây giờ là cuộc chiến mới nhưng người ta còn xử dụnh phương tiện chiến tranh cũ.
Phi trường Hà Tiên vắng ngắt. Cột khói trắng của nhà máy Xi măng bốc cao trong bầu trời xanh. Ở cuối đường băng, nước ngọt và bánh qui được bày ra trên một cái bàn phủ khăn trắng để mời báo chí. Tại nước Việt Nam Cọng sản, chẳng có việc gì được thực hiện mà không có sự tiếp đãi của địa phương. Vì ở dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, nên mấy chai nước cam lạt lẽo cũng được người ta hoan hô lắm.
Sau khi thiếu tá Hoàng Châu nói tóm tắt về cuộc tấn công của Khmer Đỏ, chúng tôi vào thành phố Hà Tiên. Trước kia, thị trấn này đông nghẹt với chừng ba mươi ngàn dân, thì nay hoàn toan trống không. Nhà cửa, tiệm quán đều khóa cửa hết. Mãnh đạn còn nằm rải rác chung quanh. Tại bến phà, một vài người đang chờ phà. Họ mang giỏ, bị bàng, hộp nhựa, treo tòn ten trên đòn gánh đặt trên vai, chất trên xe đạp hay xe đẩy. Đoàn xe buýt và xe thường chở báo chí và cán bộ dừng ở cuối thành phố, nơi các đám ruộng lúa xã Mỹ Đức kéo dài tới những ngọn đồi gần biên giới Kampuchia.
Chúng tôi đi băng qua một đám ruộng khô, chân làm tung lên những đám bụi trắng. Khi chúng tôi tới gần các túp lều tranh thì ngửi thấy mùi thối, rõ ràng là mùi người chết. Khoảng một chục người đang im lặng, toát mồ hôi đào huyệt. Mười lăm xác người, đàn ông, đàn bà, trẻ em nằm gần bên căn nhà trống trơn. Một vài xác người bị đánh cho tới chết nằm quanh quất. Một cái xác nằm giữa hai chân người đàn bà chết nằm giang tay chân ra. Hai đứa con của bà ta thì bị chặt khúc. Vài xác không có đầu, vài xác bị moi bụng, ruồi xanh bu đầy. Tôi thấy nôn mữa và phải ngồi nghỉ một chút dưới gốc cây. Rồi tôi đi xuyên vào làng. Nhà nào cũng cảnh máu me như vậy. Ngay cả súc vật cũng không khỏi bị giết. Xác bò, xác chó nằm dọc theo con đường đi bên cạnh đường mương. Trên một hố đất gần Hà Tiên mà người ta đã đào trong cuộc tấn công, có hai xác Khmer Đỏ. Những tên trốn chạy để lại súng AK-47, B-40 và súng không giật do Trung Hoa chế tạo.
Nguyễn Văn Hoan, 25 tuổi, cùng với vợ thức giấc vào lúc nửa khuya ngày 14 tháng Ba vì tiếng la Chone – Chone - (Vào đi, vào đi) của bọn Khmer Đỏ, và tiếng la hét của dân làng. Trong đêm tối, họ chạy trốn vào một ngọn đồi có rừng cây rậm. Họ trốn ở đó hai ngày. Sáng hôm sau, từ chỗ trốn trên đồi, Hoan thấy Khmer Đỏ mang gạo và những đồ dùng của dân làng đi. Nhìn những căn nhà tranh vách đất này, tôi không nghĩ có gì đáng giá để cướp bóc. Điều đáng nói ở đàng sau vụ tấn công giết người này là câu biểu ngữ tiếng Khmer viết nguệch ngoạc bằng than trên cửa: “Ti nih srok yoong”, (có nghĩa đây là đất chúng tao). Thật vậy, ba trăm năm trước, toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long, kể cả Hà Tiên, là vùng đất của người Kampuchia. Một số đông người ở xã Mỹ Đức này, và ngay số người chết ở đây, gốc là người Kampuchia.
Kinh nghiệm tê cứng lại. Người ta không thể nào hiểu để tìm đáp số cho cuộc tàn sát này. Giống như hầu hết thế giới bên ngoài, tôi không thể hiểu những gì đã xẩy ra ở khu phía Đông nước Kampuchia sau khi Việt Nam tấn công năm 1977. Tôi cũng không hiểu được tính khoa đại sức mạnh của Khmer Đỏ sau cái gọi là chiến thắng ngày 6 tháng Giêng 1978. Mấy tháng sau, Ieng Sary giải thích cho phóng viên ngoại quốc rằng vì Việt Nam xâm nhập vào lãnh thổ Kampuchia nên “chúng tôi phải tấn công họ để đẩy họ ra khỏi lãnh thổ chúng tôi và đẩy chúng sâu vào lãnh thổ của chúng. (54)
Chúng tôi quay trở lại thành phố Hồ Chí Minh, với nhiều chứng cớ ghê gớm của các đồng chí Đông Dương trong chiến tranh. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng biết quyết định gởi các phóng viên báo chí đi Hà Tiên bằng trực thăng trước khi các xác chết được chôn cất là của Lê Đức Thọ, người có nhiệm vụ thực hiện chính sách của Hà Nội đối với Kampuchia. Pol Pot tuyên truyền chống Thọ, và Thọ cũng chẳng để mất cơ hội. Tuy nhiên, Kampuchia cũng có chính phương cách của họ để giành sự hỗ trợ của ngoại quốc. Ngày chúng tôi thăm Hà Tiên là ngày Pol Pot tiếp đón đoàn báo chí Nam Tư tại nhà khách bên bờ sông ở Phnom Pênh - Lần đầu tiên các nhà báo chuyên nghiệp được phép đến Kampuchia kể từ khi Khmer Đỏ chiến thắng. Ông ta nói với các nhà báo Nam Tư là Kampuchia đang cố gắng giải quyết vấn đề với Việt Nam, “để giữ tình trạng cho được vững chắc. Nếu Việt Nam quả thật thân thiện với chúng tôi, thì vấn đề được giải quyết ngay, không có khó khăn gì.”
Võ Đông Giang nói vắn tắt với chúng tôi, trực tiếp hơn, là làm thế nào để gìn giữ mối quan hệ thân hữu đó. Ông ta nói: “Có hai cách kết thúc cuộc xung đột này: Hoặc là Kampuchia thay đổi chính sách của họ hoặc chính nhân dân Kampuchia thay đổi chế độ.”