← Quay lại trang sách

Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ở phố Tàu

Sự căng thẳng giữa Trung Hoa và Việt Nam bùng phát từ mùa hè năm 1978 thể hiện qua vài hình thức, phải kể lại từ thuở Việt Nam hình thành quốc gia. Di dân Trung Hoa bắt đầu đến Việt Nam từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch. Từ đó, trong khoảng hai ngàn năm (gồm cả chín trăm năm bị Tàu đô hộ) những làn sóng người liên tục này gồm những đạo binh tan rã, viên chức chính quyền, tội phạm và những kẻ nổi loạn, đã tới Việt Nam. Thái độ vua chúa của một nước Việt Nam độc lập là kình địch -Họ có thể củng cố chế độ cũng như có khả năng tiềm tàng. Là nhóm người cần mẫn và kỷ luật, di dân Trung Hoa cải hóa đất đai, thành lập những khu dân cư mới, phát triển thương mại, và mở rộng vùng cai trị của Viêt Nam. Hồi thế kỷ 17, vài ngàn người theo nhà Minh bị người Mãn châu đánh đuổi, đến Saigon. Chính quyền Khmer hữu danh vô thực không biết đối phó với những di dân này ra làm sao, bèn xin hoàng đế nhà Nguyễn giúp đỡ. Nhà Nguyễn mau chóng đưa họ vào vòng trật tự và định cư họ ở một vùng gần Saigon, sau này là Chợ Lớn. Cái giá của sự giúp đỡ này là Kampuchia chấp thuận quyền cai trị của Việt Nam ở khu vực Saigon. Mặc Cửu (trong nguyên tác là Mặc Cu - nd) lãnh đạo một nhóm khác định cư ở Hà Tiên. Khu vực này, hồi thế kỷ 17 là lãnh thổ của Kampuchia. Tự đặt mình như là “vua của Hà Tiên” theo kiểu Trung Hoa, Mạc Cửu làm thay đổi phần đất này thành nơi buôn bán thịnh vượng, mở rộng quyền cai trị của ông tới các tỉnh lân cận, và vì trung thành với hoàng đế Việt Nam, do đó đã mở rộng biên giới Việt Nam tới ranh giới hiện nay. (3)

Trong khi xử dụng người Trung Hoa tới định cư, các vua nhà Nguyễn không bao giờ thoải mái với lòng trung thành của họ. Thật ra vì họ tới từ nước Tàu rộng lớn, mà nước này không bao giờ ngưng cố gắng xâm lược và cai trị Việt Nam, do đó, những di dân này trở thành những đối tượng bị ngờ vực. Trong mối quan hệ này, có một lần tệ hại nhất là khi Tây Sơn khởi nghĩa chống lại chúa Nguyễn hồi thế kỷ 18, mười ngàn người ở Chợ Lớn đã bi tàn sát vì tham gia việc khởi loạn. Cũng nhiều lúc họ được tự do và phồn thịnh. Tuy nhiên họ luôn luôn biệt lập với dân chúng Việt Nam. Năm 1840, hoàng dế Minh Mạng của triều Nguyễn ngạc nhiên vì chính sách phóng khoáng của triều đình Xiêm La (Thái Lan) cho phép người Hoa được chung sống với dân địa phương. Ông ta tiên đoán không có chính sách cô lập người Hoa sẽ dẫn tới việc Xiêm La sụp đổ. (4)

Như một nhà bác học Nhật Bản ghi nhận, “Người Hoa ở Việt Nam là bác sĩ Jekyll và ông Hyde của Việt Nam, một nửa có hại phải để mắt vào đó, và một nửa thì có ích...” Ngay cả trong trường hợp nhà Nguyễn, có chính sách ưu đãi họ, nhà Nguyễn vẫn lo lắng về quan hệ với Trung Hoa. Họ thường dùng người Hoa để tìm hiểu tình hình thực tế Trung Hoa và cố gắng cải thiện quan hệ với nước này. (5)

Mặc dù đảng Cọng Sản Việt Nam thừa hưởng một di sản cùng trên căn bản với cộng đồng người Hoa, việc đối xử của họ với người Hoa đặt trên căn bản ý thức hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong các thập niên 1950-60, và nhu cầu thực tế viện trợ của Trung Hoa cho Việt Nam chiến đấu thống nhứt đất nước. Thực ra, chỉ có 15 phần trăm người Hoa sinh sống ở miền Bắc đa số là công nhân kỷ nghệ, thợ mõ, và ngư dân, và đảng điều hành họ không mấy khó khăn. Vì họ thuộc về một nước anh em xã hội chủ nghĩa nên không có vấn đề tình trạng luật pháp mà chỉ cần một sự sắp xếp giữa hai đảng với nhau. Bằng một thỏa ước ký vào năm 1955 giữa hai đảng Cọng sản Trung hoa và Việt Nam, trú dân Trung Hoa ở Việt Nam được đặt dưới sự “lãnh đạo của đảng Lao Động (cọng sản) Việt Nam”. Nhờ thỏa ước đặc biệt này, người Hoa ở Việt Nam (thực ra là Bắc VN - nd) không giống như đồng bào của họ ở các nước Đông Nam Á vừa giành được độc lập, buộc họ phải thay đổi quốc tịch ngay. Họ vẫn sống ở Việt Nam và giữ quốc tịch Trung Hoa một thời gian tạm cho đến cuối cùng, trở thành công dân Việt Nam.

Hai mươi ba năm qua, kể từ khi có khẩu ước, Hà Nội không có một cố gắng công khai nào để áp đặt quốc tịch Việt Nam trên số trú dân Trung Hoa này. Năm 1961, Trung Hoa thỏa thuận một đề nghị của Việt Nam, trên căn bản, người Hoa cư trú ở miền Bắc phải nhập Việt tịch. Bắc Kinh đồng ý chỉ cấp chiếu khán cho người Việt gốc Hoa có thân nhân ở Trung Hoa mà thôi. (7)

Tuy nhiên, dần dần tình trạng hai mặt làm cho Hoa kiều có nhiều ưu đãi. Ke Xuan, 71 tuổi, nguyên cư trú ở Hà Nội, nói: “Chúng tôi được lợi cả hai phía. Người Hoa (thật ra là sinh đẻ ở VN, hậu duệ người Hoa di dân -) ở miền Bắc có đủ mọi quyền công dân và ưu đãi, không có gì bất lợi cả. Khoảng năm 1970, Việt Nam cố buộc chúng tôi phải trở thành công dân Việt Nam. Một số ít trong chúng tôi thấy đó là có lợi nhất. Chúng tôi có thể tham gia các cuộc bầu cử. Chúng tôi được mọi điều ngoại trừ việc chúng tôi phải đi lính” (nghĩa vũ quân sự - nd) (8)

Điều ưu đãi cuối cùng là điều rất có giá trị đối với một nước mà hầu hết gia đình nào cũng có người chết trong chiến tranh. Giống như đồng hương họ ở Trung Hoa những người làm nghề buôn bán ở miền Bắc lo lắng trước động cơ cải cách xã hội chủ nghĩa nhưng lại không bị kỳ thị. Thực ra có một số cán bộ người Hoa giữ những nhiệm vụ mẫn cảm trong đảng và trong chính quyền. Đồng hương của họ dưới chế độ chống Cọng ở miền Nam thì giàu có nhưng bị chính quyền Ngô Đình Diệm buộc nhập Việt tịch. Bắc Kinh phản kháng hành động này. Hà Nội thì mượn tiếng nói của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam do họ kiểm soát cũng phản kháng và hứa hẹn với người Hoa ở miền Nam sẽ cho họ quyền chọn quốc tịch sau khi giải phóng xong.

Tuy nhiên thái độ của Cọng sản Việt Nam bắt đầu thay đổi hồi cuối năm 1960 khi ngọn triều Cách mạng Văn hóa bắt đầu có ảnh hưởng trên cộng đồng người Hoa ở phía Bắc. Trong khi Hồng Vệ binh đã kích Hà Nội và ngăn cản việc chuyển vận vũ khí cho Việt Nam thì những người theo Mao trong cộng đồng người Hoa ở Bắc Việt Nam thực hiện cuộc Cách mạng Văn hóa cho chính họ, tố cáo đảng Cọng sản Việt Nam là bọn xét lại. (9)