← Quay lại trang sách

Sự quấy nhiễu tái sinh

Sau này, một quan chức Việt Nam nói với tôi, theo kinh nghiệm cuộc Cách mạng Văn hóa và đặc biệt việc Nixon tới thăm Trung Hoa hồi năm 1972, các nhân vật chóp bu trong đảng Cọng sản Việt Nam nhận ra rằng cần có “hành động chăm sóc” đối với cán bộ gốc Hoa. Sự cấu trúc ý thức hệ chung hai đảng với nhau xem ra đã hao mòn. Sau cuộc viếng thăm của Nixon, nếu không còn tin Trung Hoa nữa, thì cũng chẳng thể tin các cán bộ gốc Hoa, dù họ thuộc thế hệ thứ hai ở Việt-Nam. Với tình hình quan hệ đang suy yếu dần, sự quấy nhiễu của người Việt, bắt nguồn từ hai ngàn năm trước trong lịch sử, lại bắt đầu nổi lên. Một cách thận trọng, các cán bộ thuộc con cháu người Hoa được giao công việc mới, ít có nguy hiểm hơn.

Năm 1975, các nhà lãnh đạo Việt Nam cho rằng Bắc Kinh chẳng ưa gì một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh. Điều đó thấy rõ hơn vào mấy năm sau, ngay trong chiến thắng huy hoàng tháng Năm/1975, họ cũng không muốn có sự hiểm nguy tiềm ẩn khi đối diện với Trung Hoa. Ngay sau khi tới phi trường Tân Sơn Nhứt của thành phố Saigon, trong sự đón tiếp cảm động, tổng bí thư Lê Duẩn, như người ta báo cáo, có nói bây giờ đất nưóc phải lo đối phó với nhiều hiểm nguy lớn “bởi vì chúng ta chống lại hai sự đe dọa: nạn đói và bọn phản động Trung Hoa.” Ông ta không nói rõ khả năng xâm lược của Trung Hoa, như sau này một ủy viên bộ Chính trị có nhắc lại “vì sự kiện ấy không thể tồn tại nữa nhưng ông ta có nói phải cần hết sức lưu tâm đến họ.”

Trong các năm 1976-77 vì viện trợ của Trung Hoa cho Việt Nam ngày càng ít đi, và vì tình hình quan hệ càng lúc càng tồi tệ, Hà Nội càng lúc càng thấy ít cần đến cộng đồng người Hoa ở Việt Nam. Nếu có cần đến họ chăng thì, như Việt Nam nghĩ, cần xiết chặt hơn nữa việc kiểm soát họ. Từ ngày giải phóng, đảng Cọng sản Việt Nam nghi ngờ lòng trung thành của cộng đồng người Hoa có thế lực ở miền Nam Việt Nam. Cộng đồng này có đến hàng triệu người. Khó có thể có cảm tình với trú dân Trung Hoa ở Chợ Lớn, vì những ngày đầu giải phóng, người Hoa đã treo cờ Trung cọng và chưng ảnh Mao Trạch Đông. Đối với số người Hoa tư sản ở Chợ Lớn, -những người coi Đài Loan chống Cọng như là kẻ bảo trợ cho họ, thì hành động có tính chất thời cơ trấn an những người cai trị mới là trái tim họ đặt đúng chỗ, có lẽ cũng muốn cho thấy rằng bây giờ họ có một người bảo vệ hết sức mạnh, là Bắc Kinh. Dần dà họ biết rằng hành động như thế là xúc phạm đến các nhà lãnh đạo ở Hà Nội, và cái hố chia cách giữa Việt Nam và Trung Hoa, đằng sau những lời tuyên bố chính thức về tình hữu nghị, sâu đến bực nào!

Nhà cầm quyền bây giờ không muốn nhắc lại lời hứa của Mặt trận Giải phóng Dân tộc trước kia, cho họ tự do chọn quốc tịch. Nhiều năm sau, khi tôi hỏi một đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh về việc nước ông không giữ lời hứa của Mặt trận Giải phóng Dân tộc, ông ta gạt qua một bên, nói: “Thực tế lịch sử để lại cho chúng ta là tất cả những trú dân Trung Hoa ở Chợ Lớn là người Việt Nam. Chúng tôi thấy không cần thiết đão ngược tình thế. Xét cho cùng, lời tuyên bố là một chuyện mà thực tế là một chuyện khác”. (11)

Lòng tự tín của một nước Việt Nam tái thống nhất khác với những năm đầu ở Bắc Việt Nam, họ gần gủi và tùy thuộc vào Trung Hoa. Hà nội không sẵn sàng mở lại cái hộp của Pandora về quốc tịch, cũng không trao cán cân kiểm soát ở phía Nam bằng cách thuận cho Bắc Kinh quyền bảo vệ quốc tịch người Hoa ở vùng này. Đầu năm 1976, tất cả những người gốc Hoa ở miền Nam bị buộc nhập Việt tịch. Bắc Kinh không bày tỏ thái độ bất mãn, nhưng sau đó, ngày 10 tháng Sáu năm 1977, trong một cuộc họp với thủ tướng Phạm văn Đồng, phó thủ tướng Lý Tiên Niệm của Trung Hoa lên án Việt Nam không giữ lời hứa và buộc người Hoa phải nhập tịch. (12) Lý không chỉ than phiền về vấn đề người Hoa ở miền Nam. Mùa xuân năm 1977, Việt Nam bắt đầu làm sáng tỏ vấn đề quốc tịch của những người dân sống dọc theo biên giới với Trung Hoa. Gia đình những người dân ở trên vùng núi cao này có thân nhân ở cả hai bên biên giới và họ tự do. Nếu bị coi là cư trú bất hợp pháp, họ về bên này hay bên kia, đi qua đi lại buôn bán hoặc thăm viếng gia đình. Hà Nội sợ ảnh hưởng của Trung Hoa trên số người này và đặc biệt về sự lôi cuốn sức mạnh kinh tế của Bắc Kinh nên lặng lẽ trục xuất những ai có quốc tịch Trung Hoa. (13)

Chẳng bao lâu sau, việc quan tâm tới sức mạnh thương mại của Trung Hoa lại gia tăng bằng mối lo đã có từ lâu vì an ninh. Từ mùa hạ năm 1977, khi Cọng Sản bắt đầu áp dụng chương trình hợp tác nông nghiệp ở miền Nam, nhịp độ cải cách xã hội chủ nghĩa tiến nhanh hơn. Một ủy ban đặc trách công thương nghiệp tư nhân được thành lập để thi hành kế hoạch đè bẹp ngành công thương nghiệp tư bản. Việc sụt giảm nghiêm trọng sản xuất lúa năm 1977 và chợ đen lúa gạo làm gia tăng tình trạng khẩn cấp cần kiểm soát thị trường chặt chẽ hơn. Cùng thời, nền an ninh Việt Nam lại bị đe dọa vì những cuộc tấn công càng lúc càng gia tăng của Khmer Đỏ, cũng như cuộc kháng chiến bền bĩ của FULRO (Front Unitée pour la Lutte des Races Oppressés) và các nhóm chống Cọng khác, chính quyền không thể làm tan rã bộ máy kinh tế để tạo ra bất ổn xã hội miền Nam.