← Quay lại trang sách

Sự khai sinh con đường mòn Đặng Tiểu Bình

Trên bình diện chính quyền, sự liên minh giữa Bắc Kinh và Bangkok đã mở ra con đường mòn Đặng Tiểu Bình xuyên qua Thái Lan và biến Thái Lan thành một cái khoen chặn chiến lược an toàn của Trung Hoa tại Kampuchia. Bằng sắp đặt bí mật, tàu bè Trung Hoa chuyển vũ khí và đạn dược tới các cảng Sattahip và Klong Yai của Thái Lan. Từ đó, quân đội Thái chở những thứ hàng này tới các căn cứ Khmer Đỏ (Về sau cho cả những nhóm kháng chiến không Cọng sản) nằm dọc theo biên giới Thái Miên. Đại sứ Trung Hoa ở Băngkok làm việc với các thương nhân Hoa-Thái cũng như với quân đội Thái, chịu trách nhiệm tiếp tế lương thực, thuốc men và các hàng tiếp liệu dân sự khác cho Khmer Đỏ. Thay vì trả tiền vận chuyển cho quân đội Thái, Trung Hoa đồng ý cho Thái giữ lại một số vũ khí được chở tới. Bằng một dàn xếp khác, Trung Hoa cung cấp kỷ thuật để hai nước cùng sản xuất vũ khí chống chiến xa trong các nhà máy ở Thái Lan với điều kiện một phần vũ khí này đưọc trao cho Khmer Đỏ.

Thỏa hiệp về sự chuyển vận này không những giúp làm sống lại công ty vận chuyển quân sự Thái mà từ khi Mỹ đóng cửa các căn cứ quân sự nó đã bị xuống dốc. Nó cũng mở ra cơ hội tham nhũng cho sĩ quan Thái, họ đòi phải có “lệ phí” đối với việc vận chuyển vũ khí Trung Hoa.

Nhờ hàng tiếp liệu của Trung Hoa bắt đầu chuyển tới hồi cuối năm 1979, lực lượng Pol Pot từng bị giảm thiểu vì đói và sốt rét rừng, trở thành từng nhóm rách rưới nay được trẻ trung hóa trở lại. Khi Việt Nam tấn công, khoảng một chục sư đoàn Khmer Đỏ sống sót bị tan tác và không tiếp xúc được với nhau hoặc ngay chính với cấp chỉ huy của họ nữa. Trong khi viện trợ nhân đạo quốc tế làm sống lại Khmer Đỏ thì hàng tiếp liệu Trung Hoa làm cho họ lấy lại đủ sức mạnh. Tới cuối năm 1980, lực lượng Khmer Đỏ bành trướng lên khoảng từ hai chục đến bốn chục ngàn.(30)

Trong khi bộ chỉ huy Khmer Đỏ vẫn còn ở cách biên giới Thái Lan vài dặm thì các nhóm nhỏ du kích Khmer Đỏ khoảng một chục người tiến sâu vào nội địa Kampuchia để phục kích lực lượng quân sự Việt Nam, đặt mìn trên đường hay phá sập cầu cống. Tới cuối năm 1981, chiến tranh du kích ở Kampuchia gia tăng khủng khiếp làm cho một phần lớn đất nước lâm vào cảnh bất an.

Tuy nhiên, trên bình diện quốc tế, chẳng có gì sáng sủa cho liên minh chống Hà Nội này. Dù có Mỹ hợp tác với ASEAN và Trung Hoa để giữ cho cái ghế của Khmer Đỏ tại diễn đàn Liên Hợp quốc tồn tại, sự hỗ trợ của thế giới càng lúc càng bị xoi mòn. Từ năm 1980 Việt Nam mở rộng cửa Kampuchia cho báo chí Tây phương. Các phóng viên báo chí và các toán truyền hình tự đo di chuyển trong xứ, quan sát các ngôi mộ tập thể vĩ đại, nói chuyện với không biết bao nhiêu người còn sống sót, viếng thăm trại tù nổi tiếng tàn ác Toul Sleng ở thủ đô Phnom Pênh, nơi hàng ngàn bản tự khai viết ra khi bị tra tấn, nơi có những tấm hình khủng khiếp của các nạn nhân đứng trong im lặng cung khai trước bộ máy giết người rất hiệu quả của nước Kampuchia Dân chủ. Các bản tường trình và các thước phim truyền hình của các nhà báo đã làm cho quan điểm thế giới thay đổi và làm cho Anh quốc cũng như Úc không còn thừa nhận nước Kampuchia Dân chủ nữa.

Mùa thu năm 1980, tân bộ trưởng ngoại giao Mỹ, Edmund Muskie, hăng hái nghe theo lời khuyên của bộ trưởng từ nhiệm Vance, dự tính không tham dự cuộc bỏ phiếu cho Pol Pot tại Liên Hợp quốc. Tuy nhiên, cuối cùng, do áp lực của Trung Hoa, áp lực các đại sứ Mỹ ở Đông Nam Á, và dĩ nhiên cả áp lực của Brzezinski, Muskie đồng ý bỏ phiếu cho Kampuchia Dân chủ. Khmer Đỏ vẫn giữ ghế của mình, và cuộc vận động của Mỹ-Trung Hoa và ASEAN thu hoạch được 97 phiếu tại diễn đàn Liên Hợp Quốc kêu gọi Việt Nam rút quân. Tuy nhiên dù kết quả có như thế, nhiều nước ASEAN biết rằng việc giữ ghế cho Kampuchia Dân chủ ở Liên Hợp quốc không những cải thiện được khuôn mặt của Khmer Đỏ mà còn mở rộng căn cứ kháng chiến chống Việt Nam. Mùa thu năm 1980, thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu tuyên bố muốn tập trung và duy trì sự ủng hộ của thế giới không Cọng sản thì tại Đại Hội đồng Liên Hợp quốc năm 1981, Kampuchia Dân chủ phải được đặt dưới sự lãnh đạo quốc tế.

Cần phải nghĩ tới giải pháp cuối cùng mà không có Khmer Đỏ, ASEAN không có thể hỗ trợ cho ai? Về sau, một quan chức cao cấp ngoại giao Thái Lan giải thích: “Khó có thể dàn xếp chính trị trong khi ASEAN chưa biết ủng hộ ai?” Ý nghĩ về một Khmer chống Việt Nam do đó được hình thành nhưng người ủng hộ thì ở cách xa cả ngàn dặm và có không biết bao nhiêu cuộc họp đầy sóng gió với nhiều đảng Khmer khác nhau và Trung Hoa trước khi ý nghĩ đó được hình thành.

Trung Hoa lạnh nhạt trước những cố gằng của ASEAN trong việc tìm kiếm một giải pháp chính trị bằng cách tổ chức các cuộc hội nghị quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Đòi hỏi của Trung Hoa là duy trì Kampuchia Dân chủ như hiện trạng nhưng hình thức thì là một mặt trận đoàn kết rộng rãi hơn để thực hiện cuộc đấu tranh vũ trang. Trung Hoa sợ ASEAN đề nghị một liên minh chính quyền Khmer với những nhân vật như thái tử Sihanouk và cựu thủ tướng Son Sann sẽ làm giảm bớt quyền lực của Khmer Đỏ. Từ khi Sihanouk trở về Bắc Kinh hồi tháng 2 năm 1979, quan hệ của ông ta với Trung Hoa càng ngày càng tồi tệ. Trung Hoa xây cho ông một lâu đài vĩ đại với một hồ bơi tầm cở thế vận hội Olympic và một phòng xem ciné riêng ngay ở trung tâm Bắc Kinh. Nhưng trái với những gì Đặng hứa với ông hoàng hồi ở Hoa Thạnh Đốn, chẳng bao lâu Trung Hoa bắt đầu gây sức ép với ông hoàng về việc lãnh đạo một liên minh đoàn kết. Ông hoàng không những lặp lại lời từ chối yêu cầu của Trung Hoa mà lại còn yêu cầu trục xuất Kampuchia Dân chủ ra khỏi Liên Hợp Quốc, giữ ghế trống cho đến khi có đại biểu mới. (33) Tuy nhiên việc Trung Hoa tạo cho ông ta một cuộc sống thoải mái và danh dự cũng không ngăn được ông ta tiếp tục gay gắt lên án Khmer Đỏ và phê bình chính sách của Trung Hoa về điều gọi là “chống Việt Nam cho tới người Khmer cuối cùng.” Đối với ông, phương cách giải quyết vấn đề Kampuchia là thông qua một hội nghị Genève mới, bảo đảm an ninh cho Việt Nam và bảo đảm độc lập của Kampuchia. Ông ta chế nhạo về điều Trung Hoa chủ trương gây áp lực làm cho Việt Nam bị đè bẹp. Những nhà lãnh đạo Trung Hoa hết sức giận dữ về nhữ ng lời phát biểu của ông hoàng ở Bắc Kinh, đặc biệt hồi đầu năm 1980, ông ta bày tỏ ý muốn trở về sống ở Kampuchia như một công dân thường, rằng thực ra họ đã kiểm soát ông ta. Hồi tháng Bảy/1980, khi ngoại trưởng Thái không được dàn xếp để họp với Sihanouk làm cho ông ta giận dữ và thất vọng vì ông ta phải từ Bình Nhưỡng đến để tham dự cuộc họp này. Ông ta tuyên bố với báo chí là ông ta nghỉ, không tham gia chính trị nữa. Qua kinh nghiệm hồi tháng Tám/1979, khi Trung Hoa cũng có cách thức như trên để cản trở kế hoạch của ông ta họp với phó tổng thống Mỹ, Walter Mondale, Sihanouk cũng cho như thế là đủ.

Tuy nhiên, các nước Đông Nam Á gây áp lực với Trung Hoa. Trong cuộc thăm viếng đạt được kết quả tốt đẹp ở Bắc Kinh hồi mùa thu/1980, thủ tướng Thái Prem Tinsulanon và thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu cả hai đều thúc đẩy Trung Hoa nên bỏ rơi ba tay Khmer Đỏ -Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan- nổi tiếng tàn ác- khỏi quyền lãnh đạo và chấp thuận vai trò Sihanouk và Son Sann. Đặng Tiểu Bình thẳng thừng nói với Prem rằng nếu loại trừ ba tay lãnh đạo này sẽ làm hỏng ngay tinh thần chiến đấu của Khmer Đỏ đang đóng vai trò nước đệm giữa Thái Lan và Việt Nam. Tuy nhiên Đặng chấp thuận đề nghị đưa Sihanouk và Son Sann vào một liên minh với Khmer Đỏ -với một điều kiện “hai ông này không phá hoại cuộc chiến đấu chống Việt Nam.”(36)

Trung Hoa có nhiều lý do để lo ngại không chỉ Sihanouk mà thôi mà cả người cọng sự với ông ta trước kia trong vai trò thủ tướng: Son Sann, con người ăn nói dịu dàng, không cả quyết, đang chỉ huy một lực lượng sáu ngàn người của Mặt trận Nhân dân giải phóng Quốc gia Khmer (People's National Liberation Front -KPNLF) do tướng Dien Del chỉ huy đóng trên biên giới Thái-Kampuchia. Son Sann là người kiên trì, chỉ chịu liên minh với Khmer Đỏ khi nào ba tay lãnh tụ nổi tiếng tàn ác nói trên bị loại trừ mà thôi. Ông ta cũng đòi trang bị thêm vũ khí cho binh lính của ông ta trước khi hợp tác với Khmer Đỏ. Ông ta cứ nói đi nói lại hoài không biết chán: “Trước khi vào hang cọp tôi cần có cây gậy.”

Tuy nhiên, Đặng trấn an Lý Quang Diệu rằng Trung Hoa không đòi hỏi Khmer Đỏ nắm lại quyền lực ở Kampuchia. Nếu có một cuộc bầu cử sau khi Việt Nam rút quân thì Khmer Đỏ sẽ bị thất bại. Trung Hoa chấp thuận điều ấy. Đặng hỏi Lý về nhiệt tình mới của ông ta đối với nền dân chủ tư sản: “Ông có chịu Khmer Đỏ cầm quyền sau cuộc bầu cử?” Lý trả lời “Dĩ nhiên” nhưng người ta tin chắc rằng điều ấy chẳng bao giờ có được.(37) Sau chuyến viếng thăm, Lý thấy thỏa mãn với đề nghị triệu tập một hội nghị quốc tế để giải quyết vấn đề Kampuchia và thiết lập một nền cai trị thông qua bầu cử tự do.

Vấn đề bây giờ là các nước ASEAN muốn hình thành một liên minh mới cho Kampuchia trước khi có cuộc họp quốc tế để bàn về Kampuchia. Tháng Hai/1981, phái viên đặc biệt của ASEAN, ông Anwar Sany, một nhà ngoại giao Indonêsia bay đi Bình Nhưỡng để gặp Sihanouk thúc đẩy ông này đứng ra lãnh đạo một chính quyền liên minh mới này. Việc này xảy ra sau khi các đại sứ Trung Hoa và Kampuchia Dân chủ ở Bình Nhưỡng, cả hai đều năn nỉ ông hoàng tham gia liên minh của họ.

Sihanouk bị những áp lực. Ông ta cảm thấy có thể bị mất cơ hội. Hồi mùa thu năm 1979, ông ta tập họp những người ủng hộ ông ta trong một Liên Minh những người Khmer Quốc Gia và đề nghị nói chuyện với Việt Nam để “bảo tồn độc-lập và trung-lập” của Kampuchia. Nhưng sau đó, ba lá thư ông viết cho người bạn cũ Phạm văn Đồng đều không được trả lời. Lời đề nghị công khai của ông được gởi tới cho Heng Samring, người cai trị Kampuchia như một “dân thường” cũng bị lạnh nhạt bác bỏ. Hơn thế, cánh cửa phía Việt Nam dành cho ông giờ đây đóng lại. Ông ta cố gắng tạo ra mục tiêu hỗ tương với Kampuchia Dân chủ để thành lập một chính phủ lưu vong của chính ông ta nhưng chỉ được phương Tây miễn cưỡng chấp thuận. Sihanouk không vui nếu phải rút lui khỏi sân khấu chính trị, quay trở lại với những người cùng tham gia chính trị với ông trong quá khứ. Không những ông ta bị một số người yêu nước lưu vong đã kích về điều họ gọi là lòng ích kỷ trong khi miễn cưỡng tham gia cuộc đấu tranh cho độc lập của Kampuchia, chính hình ảnh của ông như một vị cha già của nước Kampuchia hiện nay và quá trình lịch sử của ông không cho phép ông rút lui khỏi sân khấu chính trị. Ông giải quyết tình trạng tấn thối lưỡng nan bằng cách tuyên bố sẵn sàng bắt tay với Khmer Đỏ và đưa ra nhiều điều kiện để có thể hình thành liên minh mới.

Chỉ một thời gian ngắn sau khi ông hoàng làm cho thế giới ngạc nhiên bằng việc ông ta tuyên bố sẵn sàng bắt tay với Khmer Đỏ, ông ta trả lời tôi trong một cuộc phỏng vấn như sau. Từ năm 1970, khi ông ta lưu vong lần đầu ở Bắc Kinh, mỗi năm ông ta tới sống ở Bình Nhưỡng -tại tư dinh vĩ đại gồm bốn chục phòng ở bên ngoài thủ đô do chủ tịch Bắc Cao Ly Kim Nhật Thành, một người bạn cũ, ra lệnh xây cho ông. Có giấy chiếu khán do ông hoàng bảo đảm với Kim Nhật Thành, tôi bay tới thủ đô băng giá Bắc Triều Tiên. Ở giữa cuộc phỏng vấn (tại ngôi lâu đài ông ta đang ở có nhiều ngọn đồi chung quanh đang bị tuyết bao phủ trắng xóa và mặt hồ đang bị đóng băng), ông hoàng chỉ vào một cái bàn và nói với giọng cười có vẽ nôn nóng như thường thấy: “Đây là cái bàn tôi sẽ ngồi với Khiêu Samphan để thương thảo. Và rồi sẽ có chuyện bất đồng.” Bày tỏ lòng trong trắng là điều đặc sắc nơi ông, ông hoàng nói: “Bây giờ hay ngày mai, tôi chưa sắp sẵn để trả lời vâng với Khmer Đỏ hay phải tới tháng Mười một (ngày ông ta tuyên bố họp vòng hai với Khiêu Samphan). Tôi cần có thời gian thuận tiện để nói với người Trung Hoa.”

Như Sihanouk tiên đoán, cuộc họp lần đầu với Khiêu Samphan hồi tháng Ba bị thất bại vì những điều kiện ông ta đưa ra khi liên minh với Khmer Đỏ. Trong 9 điều kiện đó, điều kiện nói về tương lai là khó khăn nhất. (39)

Khieu Samphan từ khước điều Khmer Đỏ sẽ buông súng cùng với các lực lượng kháng chiến khác khi đã có quân đội quốc tế đến giữ gìn hòa bình thay thế cho quân đội Việt Nam rút lui. Những biến cố về sau cho thấy Sihanouk đụng tới vấn đề then chốt có tính cách phá hoại quyền lợi Khmer Đỏ và Trung Hoa, về mặt khác, có ảnh hưởng đến các nước không Cọng sản ở Đông Nam Á.