Liên minh chiến đấu
Mặc dù thái tử Sihanouk từ chối tham gia Hội nghị bàn về Kampuchia, và kêu gọi một “tòa án” để chống Việt Nam hơn là triệu tập hội nghị, hồi mùa hè năm 1981, ông ta lại có khuynh hướng hình thành một liên minh. Tháng Tám, ông ta gặp Son Sann lần đầu tiên kể từ năm 1970 khi ông cựu thủ tướng này rời Phnom Pênh đi Paris. Son Sann là một giáo sư kinh tế học, là thầy dạy riêng cho Sihanouk khi ông này còn trẻ, sau đó ông ta làm chủ nhà băng, bộ trưởng tài chánh rồi thủ tướng. Mặc dù họ hợp tác với nhau gần gủi và lâu dài cho đến cuối thời kỳ Sihanouk cai trị và họ cũng chẳng trao đổi gì với nhau tại cuộc họp hồi tháng Tám, áp lực hòa giải với chế độ phong kiến cũ là từ phía các nước ASEAN. Trong một cuộc họp kín tại tòa đại sứ Thái ở Paris, bộ trưởng ngoại giao Thái Sitthi Sawetsila, một viên chức cao cấp Thái gặp Sihanouk sau 15 năm, đã khuyên Sihanouk nên quên đi chuyện quá khứ để lãnh đạo liên minh.
Với một đồng minh như Thái Lan, ông hoàng Sihanouk thấy rõ những quan hệ cay đắng và bi thảm trong quá trình lịch sử. Hồi năm 1962, Sihanouk thưa Thái Lan ra Tòa án Quốc tế buộc Thái Lan phải nhượng bộ Kampuchia về một ngôi chùa mà Thái cũng đòi hỏi. Trong suốt 15 năm cầm quyền, ông ta đã cảnh cáo dân chúng Kampuchia về chủ nghĩa bành trướng Thái Lan cũng như những nhà cầm quyền quân sự Thái. Nay thì vấn đề an ninh của Thái Lan vượt quá những tình cảm lịch sử bệnh hoạn. Một cuộc thảo luận trong nội bộ Thái Lan xem xét về việc có ích hay không khi liên minh với Sihanouk đã được củng cố thêm khi giới quân sự Thái nhận đuợc ý kiến từ hoàng gia Thái cho hay rằng việc hòa giải với thái tử Sihanouk giờ đây là quyền lợi của chính Thái Lan. (47)
Sau khi được các nước trong khối ASEAN và Hoa Kỳ dỗ ngon dỗ ngọt, cả Sihanouk và Son Sann bay tới Singapore hồi tháng Chín 1981 để ký một văn bản thỏa thuận thành lập một chính phủ liên hiệp.
Khi đã có thỏa thuận Kampuchia Dân chủ là thành phần chính thức được quốc tế ủng hộ, ý kiến khác nhau của năm thành viên ASEAN là những điều liên minh này phải thực hiện. Mã Lai và Indônêsia coi liên minh này như là môt điểm căn bản cần thiết, trong đó lực lượng thứ ba có thể phát triển trở thành đại diện cho đa số dân chúng Kampuchia, thành phần đa số này không ủng hộ Việt Nam cũng như Khmer Đỏ. Đối với họ, việc thành lập liên minh là mọt mưu mẹo của những nhà lãnh dạo không Cọng sản nhằm để vượt trội lên trên thành phần Khmer Dân chủ hợp pháp rồi cuối cùng sẽ nói chuyện với Việt Nam sau khi đẩy Khmer Đỏ ra khỏi liên minh. Bộ trưởng ngoại giao Mã Lai Tan Sri Ghazali Shafie giải thích với tôi: “Tại vì Trung Hoa không muốn giải giới Khmer Đỏ nên chúng tôi phải xây dựng một lực lượng không Cọng sản có tương nhượng lẫn nhau.” Việc thành lập liên minh có thể dọn đường cho lực lượng vũ trang không-Cọng sản. Ông ta cho rằng lực lượng võ trang thứ ba “không có ý định chống lại Việt Nam nhưng nhắm tới mục đích tương đồng giữa các lực lượng tham gia liên minh và tạo niềm tin cho lực lượng không-Cọng sản như là một thành phần thương thuyết với Việt Nam.”(48) Tuy nhiên, quan điểm thượng phong của Thái Lan lại liên kết chặt chẽ với việc tiếp tục gây áp lực với Việt Nam qua vai trò Khmer Đỏ và liên minh chỉ hữu ích khi giành được sự ủng hộ quốc tế. Quan điểm của Singapore rất gần gủi với Thái Lan nhưng Singapore lại quan tâm tới việc Khmer Đỏ không được thuận lợi khi ở trong liên minh đó. Sau khi đạt được thỏa thuận căn bản hồi tháng Chín, cả ba thành phần phải sa lầy khi thảo luận vấn đề ai sẽ giữ vai trò gì, khi nào thì tập trung hay phân tán quyền chỉ huy. Singapore can thiệp để giúp giải quyết việc tranh cải bằng một kế hoạch của Singapore là tạo một “liên minh lỏng lẽo” để cho mỗi bên có thể giữ quyền tự trị và từ chối Khmer Đỏ có cơ nắm quyền hành. Sau tám tháng tranh cải gay go, cũng như các nước ASEAN đe dọa cắt đường tiếp vận cho Mặt trận Đoàn kết giải phóng Kampuchia và rút lui việc thừa nhận chính quyền Kampuchia Dân chủ, một hình thức liên minh có thể chấp thuận được đã hình thành.
Tới tháng Năm/ 1982, trở ngại cuối cùng về vấn đề ai giữ hai vai trò cao nhất trong chính quyền liên minh lại vượt qua được khi ngoại trưởng Thái Sitthi bay tới Bắc Kinh để thảo luận với Sihanouk (Lúc này thỏa hiệp toàn bộ với Trung Hoa). Sihanouk nắm ghế chủ tịch, Son Sann là thủ tướng, Khiêu Samphan nắm ghế phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao. Về sau Sihanouk giải thích với tôi: “Sau khi mượn tiếng của tôi mà làm, cuối cùng chúng tôi phải đầu hàng.” ASEAN và Hoa Kỳ cho ông ta và Son Sann thấy rõ rằng là họ chỉ ủng hộ cho một chính quyền hợp pháp giống như Kampuchia Dân chủ và không ủng hộ cho phong trào du kích. Ngày 22 tháng sáu năm 1982, cả ba nhà lãnh tụ họp ở thủ đô Kuala Lumpure của Mã Lai để ký một thỏa hiệp về chính phủ Liên minh Kampuchia Dân chủ -chưa có danh xưng Chính phủ Liên minh Kampuchia Dân chủ để mở rộng cuộc xung đột ở Kampuchia. Về mặt cân bằng phe nhóm, liên minh tuồng như có lợi cho Khmer Đỏ. Các thành phần không chịu chấp nhận điều khoản thứ tư - cấu trúc ba đảng, không bên nào thắng thế, đạt được thỏa hiệp chung, chấp thuận lá cờ Kampuchia Dân chủ và quốc ca -bảo đảm cho Khmer Đỏ có quyền rút lui khỏi liên minh với danh xưng Kampuchia Dân chủ của họ. Trong khi có vài ý kiến lo sợ Khmer Đỏ tự ý rút lui, điều lệ cuối cùng dù sao cũng chấm dứt mọi hy vọng rằng các phe phái không - Cọng Sản sẽ có ngày nắm lấy cái võ khoác hợp pháp của Khmer Đỏ. Khmer Đỏ cũng chiến đấu và cố giữ quyền lãnh đạo chính sách ngoại giao và tất cả các thành viên ngoại giao ở ngoài nước cũng vẫn còn trong tay họ.