Học cách sống với việc từ chức
Mặc dù tuồng như Việt Nam không bị gây ảnh hưởng gì lắm với chính phủ liên minh Kampuchia Dân chủ, hình thức chính phủ đó tăng cường vị trí quốc tế và đem lại hơi thở mới cho phong trào kháng chiến. Từ năm 1982 uy tín của Kampuchia Dân chủ không còn bị thách thức tại diễn đàn Liên Hợp quốc nữa và số quốc gia bỏ phiếu tán thành giải pháp của ASEAN chống lại Việt Nam tăng từ 91 năm 1979 lên tới kỷ lục 114 năm 1985. ASEAN và Hoa Kỳ xúc tiến chương trình giúp đỡ quân sự và kinh tế cũng như huấn luyện cho các thành phần không-Cọng sản trong liên minh Kampuchia Dân chủ. Trung Hoa và Bắc Triều Tiên cũng viện trợ cho các thành phần không-Cọng sản trong liên minh này nhưng một số viện trợ rất lớn thì dành cho Khmer Đỏ. Nhờ có lương thực và viện trợ nhân đạo của các tổ chức quốc tế giúp đỡ cho các trại nằm dọc theo biên giới Miên Thái và viện trợ quân sự của ASEAN và Trung Hoa, lực lượng kháng chiến không-Cọng sản tăng lên tới con số ba chục ngàn người.
Trong khi cố gắng xây dựng những thành phần không -Cọng sản có thể tồn tại được để đối thoại với Việt Nam, ASEAN cũng vẫn giữ áp lực ngoại giao với Hà Nội để đề nghị hội nghị thương thảo. Có khoảng hơn một chục đề nghị khác nhau -trong đó khác với bản tuyên bố về hội nghị quốc tế của ASEAN - các nước không-Cọng sản thúc đẩy Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia và để cho nhân dân Kampuchia thực hiện quyền tự quyết dưới sự giám sát quốc tế. Tuy nhiên, đằng sau bộ mặt đoàn kết của ASEAN, Indônêsia và Mã Lai, những nước quan tâm từ lâu tới mối đe dọa của Trung Hoa trong khu vực này đã thúc đẩy đà tiến hòa giải. Tướng Benny Murdani, sau này là giám đốc cơ quan tình báo Indônêsia, thực hiện hai chuyến đi kín tới Hà Nội năm 1980 và 1982, về mặt hình thức là để hòa giải. Một phần Jakarta không tin tưởng Trung Hoa vì chính vai trò của họ đóng góp trong cuộc nổi dậy bất thành của Cọng sản Indônêsia hồi năm 1965, cảm tình của Indônêsia đối với cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam cũng như sự khiêu khích của Bắc Kinh, đặc biệt Benny bày tỏ thông cảm đối với việc Việt Nam can thiệp vào Kampuchia như là một hành động tự vệ chính đáng. Tuy nhiên, vì sự chống đối mạnh mẽ của Thái Lan và Singapore, bỏ rơi việc coi như đã xẩy ra rồi ở Kampuchia để chấp thuận việc dàn xếp quốc tế. Hồi đầu năm 1983, cố gắng của Mã Lai nhằm tạo đối thoại giữa ASEAN hai nước Đông Dương -Việt Nam và Lào- đã bị Thái Lan và Trung Hoa từ chối thẳng thừng. Một đề nghị khác của Mã Lai hồi năm 1985 thực hiện một cuộc đối thoại trực tiếp giữa Heng Samrin và Liên minh Kampuchia Dân chủ lại cũng bị Thái Lan và Trung Hoa cũng như Khmer Đỏ từ khước. Họ cho rằng làm thế có khác chi Khmer Đỏ bỏ đi cái thế hợp pháp. Một đề nghị khác của Indônêsia về việc bình thường hóa quan hệ Mỹ-Việt có thể đóng góp phần lớn, coi như khuyến khích Việt Nam rút quân khỏi Kampuchia lại
cũng bị Thái Lan và Singapore lạnh nhạt khước từ.
Sau khi giành đưọc sự thừa nhận của quốc tế, vai trò đoàn kết của ASEAN trở thành quan trọng trong việc tìm kiếm giải pháp cho Kampuchia. Vai trò đoàn kết của ASEAN vẫn được duy trì vì sự trì hoãn của “quốc gia tiền tuyến” Thái Lan. Sự chống đối cương quyết của Thái Lan tạo nên cảm nghĩ chua xót cho Indônêsia. Nước này biết rằng mặc dù họ là một quốc gia lớn nhất và đông dân nhất ở Đông Nam Á, Bangkok vẫn giữ vai trò xỏ mũi dắt đi. Theo quan điểm của Indônêsia, cuộc xung đột kéo dài ở Kampuchia không những chỉ là mối đe dọa làm tan vở liên minh các nưóc trong khu vực mà còn mở đường cho việc can thiệp của các siêu cường càng lúc càng gia tăng. Điều Indônesia muốn là Việt Nam hợp tác với công đồng Đông Nam Á và xây dựng một “chiến hào bảo vệ” chung quanh các nước này để tránh sự can thiệp của các cường quốc, ngay cả Trung Hoa. (49)
Dối với Kampuchia, duy trì sự kết hợp một liên minh gồm nhiều thành phần nhỏ trong phương cách nào đó để tạo áp lực với họ hơn là duy trì tình đoàn kết của các nước ASEAN. Không những không có sự điều hòa giữa các thành phần liên minh mà họ lại còn thường lén lút đã kích nhau. Khmer Đỏ và các lưc lượng không-Cọng sản đôi khi ngẫu nhiên chạm súng với nhau. Vài nước thành viên ASEAN cố gắng đẩy bọn Khmer Đỏ đáng tởm ra khỏi liên minh. Ám ảnh về sự ngờ vực lẫn nhau giữa các thành phần liên minh và giữa các nước ASEAN với nhau vẫn còn kéo dài. Hồi tháng Chín năm 1983, trong một bữa tiệc do ASEAN tổ chức tại khách sạn Waldorf-Astoria ở Nữu Ước để vinh danh thái tử Sihanouk, ngoại trưởng Mã Lai Ghazali kín đáo thăm dò vấn đề với Khieu Samphan: “Có thể ông vui lòng yêu cầu các ông Pol Pot, Ieng Sary và Ta-Mok hãy vì Kampuchia mà rút lui khỏi chính quyền?”
Sihanouk liền nhảy vào đề tài đó với lời đề nghị. Nếu “ngài đáng kính Pol Pot” trao quyền chỉ huy quân sự cho Samphan thì Sihanouk rất vui lòng nhường tòa lâu đài của ông ở Bình Nhưỡng và cái biệt thự nhỏ của ông ở Mougins lại cho Pol Pot. Phấn khởi với việc này, ông hoàng nói thêm rằng tòa lâu đài ở Bình Nhưỡng có trang bị hồ tắm, phòng chiếu phim, sân vũ cầu và sân bóng rỗ. Sihanouk trấn an: “Quí vị có đủ thứ bồi bếp nấu ăn: Pháp, Khmer, Trung Hoa. Quí vị tiêu khiển thì giờ một cách thích thú.” Khiêu Samphan nhăn mặt trả lời: “Tất cả những cái đó không quan trọng. Điều đáng nói là đoàn kết. Chúng ta luôn luôn đoàn kết và chúng ta cũng sẽ luôn luôn đoàn kết như vậy. Không ai có thể chia rẽ chúng ta.” Sau vài phút im lặng khó chịu, các bộ trưởng tiếp tục bữa tiệc.” (50)
Biết trước cuộc họp cấp bộ trưởng vào tháng Bảy năm 1984 sẽ lại đặt vấn đề rút lui của một vài khuôn mặt nổi tiếng tàn ác Khmer Đỏ, Đặng báo thẳng cho chính phủ liên hiệp Khmer Dân chủ biết. Tiếp Sihanouk, Son Sann và Khiêu Samphan cùng họp một lần tại Bắc Kinh vào tháng Mười/1984, Đặng đe dọa sẽ cắt hết viện trợ cho mọi thành phần kháng chiến nếu một thành viên bị trục xuất khỏi liên minh. Sau này Sihanouk kể lại, Đặng rất giận dữ. Ông ta hằm hè: “Tôi không hiểu tại sao vài người muốn trục xuất Pol Pot. Quả thực ông ta có làm vài điều sai lầm trong quá khứ nhưng hiện giờ ông ta lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Việt Nam xâm lược.” (51)
Sự căng thẳng tiềm ẩn bên trong chính phủ đoàn kết Kampuchia Dân chủ không phải là vì Sihanouk lặp lại lời đe dọa rút lui khỏi liên minh. “Trước khi nước Kampuchia được độc lập, tôi chỉ có một ông chủ - Nước Pháp - nhưng sau khi mất nền độc lập một lần nữa, tôi phải đối phó với tám ông chủ.” Sihanouk chán nãn nói với một cọng sự. Tám ông chủ đó gồm có sáu nước trong khối ASEAN, Trung Hoa và Hoa Kỳ.
Một trong những lời đe dọa nghiêm trọng nhất đòi rút lui khỏi liên minh xảy ra hồi tháng Mười một/1984 trong khi ông ta đang thăm Paris, lại có lời đồn ông ta sẽ gặp Hun Sen, bộ trưởng ngoại giao của Heng Samrin, lúc đó đang đi thăm Paris với tính cách riêng. Ngày 22 tháng Mười một, đại sứ Thái ở Paris, Arun Phanupong đang tham dự một cuộc họp của UNESCO, chuẩn bị lên diễn đàn phát biểu thì ông ta nhận được một bức điện của cấp chỉ huy, Sitthi Sawetsila, yêu cầu ông này dàn xếp gấp một cuộc gặp gỡ cho ông ta với Sihanouk. Sitthi đang trên chuyến bay tới Paris để ngăn chặn Sihanouk. Arun vội vàng bỏ đi không kịp đọc diễn văn.
Ông ta gặp ông hoàng và hỏi ông này có thật ông ta nói với Khieu Samphan muốn từ chức hay không. Arun kể lại: “Ông ta gay gắt. Sihanouk nói “Tôi chán ngấy. Tôi chẳng làm đưọc gì với cái liên minh đó cả.” Lời phát biểu của ông hoàng là do những người biểu tình thân Son Sann khích động ở Minneapolis, những nguời này đã kích dữ dội ông hoàng trong chuyến đi thăm của ông mười hai ngày trước đó. Sau đó ông ta bình tĩnh và mời Sitthi cùng ăn trưa với ông tại một khách sạn ở ngoại ô Paris. Qua cơ quan thông tin quốc tế của Thái, Arun gởi điện cho Sitthi đang ở trên máy bay và báo cho ông này tới thẳng phi trường Charles De Gaulle để dùng cơm trưa với Sihanouk. Qua bữa ăn, Sitthi lên án hành động những người ủng hộ Son Sann và thuyết phục ông hoàng nên duy trì vai trò lãnh đạo liên minh. Buổi tối đó về lại Paris, Sitthi thấy buồn nôn. Một chiếc xe Mercedes dơ bùn là cái giá nhỏ để giữ cho liên hiệp chính phủ Kampuchia Dân chủ sống còn.(52)
Bốn tháng sau, Sihanouk lại de dọa từ chức, lấy lý do là kém sức khỏe nhưng rõ ràng là ông ta phản kháng việc Trung Hoa từ chối tìm cách nói chuyện với Hà Nội. Ngoại trưởng các nước ASEAN lại vội vã họp nhau ở Bangdung để thảo một văn thư kêu gọi ông hoàng đừng từ chức. Sihanouk đồng ý, nhưng tới tháng 7 năm 1985, ông ta lại công khai tố cáo Khmer Đỏ, một thành viên của liên minh đã giết 38 binh sĩ của ông và cảnh cáo rằng nếu chuyện ấy còn xảy ra nữa thì “quyết định của tôi rút ra khỏi liên minh sẽ không tránh khỏi.”
Mặc dù liên minh vẫn tồn tại khi vượt qua được những khó khăn nội bộ, việc bất tín nhiệm lại xảy ra trong mùa khô 1984-85. Trong vòng 5 tháng hứng chịu những cuộc tấn công của Việt Nam vào các trại dân sự và quân sự dọc theo biên giới Thái - Kampuchia bằng pháo binh và xe tăng, chấm dứt cái ão tưởng về một vùng lãnh thổ của nước Kampuchia Dân chủ. Việt Nam chiếm đóng vùng này, bao gồm cả một vài căn cứ tiếp liệu quan trọng của Khmer Đỏ và luôn cả cái họ gọi là thủ đô của họ. Ngôi làng tên là Phum Thmei, nằm sát biên giới Thái Lan. Làng này là thủ phủ của chính phủ liên minh Kampuchia Dân chủ, thái tử Sihaouk đã đón tiếp và cụng ly chúc mừng ngoại giao đoàn. Khi cuộc tấn công này chấm dứt và chẳng còn một chút đất nào trên lãnh thổ Kampuchia, Khmer Đỏ phải phân tán thành từng đơn vị nhỏ, xâm nhập vào trong nội địa Kampuchia và cho 45 ngàn người dân sự của họ tỵ nạn trên đất Thái Lan. Những người ủng hộ Sihanouk và Son Sann và 250 chục ngàn nguời tỵ nạn của họ cũng từ trong nội địa rút về bên lãnh thổ Thái Lan.
Việc rút lui quân sự biểu lộ yếu kém về ý chí, tổ chức và huấn luyện của các lực lượng kháng chiến không Cọng sản, đặc biệt là với Mặt trận Giải phóng Quốc gia Nhân dân Kampuchia (KPNLF). Không giống như đám Khmer Đỏ cuồng tín, quân kháng chiến không - Cọng Sản miễn cưỡng khi phải bỏ lại gia đình trong trại tỵ nạn để đi sâu vào nội địa Kampuchia đánh du kích. Trong khi binh lính theo Sihanouk phân tán từng nhóm lẻ tẻ đi sâu vào lãnh thổ Kampuchia để tuyên truyền chính trị thì mười bốn ngàn quân của phe Mặt trận Giải phóng Nhân dân Khmer (KPNLF) bất động vì bị mất căn cứ. Một vài cấp chỉ huy quân sự của mặt trận này hết sức tức giận muốn chống lại đường lối độc tài của Son Sann. Viêc ông ta thường can thiệp vào các vấn đề quân sự và từ chối hợp tác với Sihanouk cuối cùng bùng nổ công khai, trở thành sự phản kháng của binh lính vào tháng Chạp/1985. Các nước ASEAN phải can thiệp cuộc nổi dậy này. Cuối cùng quyền chỉ huy lực lượng quân sự của Mặt trận Giải phóng Quốc gia Nhân dân Khmer (KPNLP) rơi vào tay các nhà lãnh đạo quân sự Thái.