Vịnh Cam Ranh: Con gấu miền Nam
Trong khi các nước ASEAN cố gìn giữ công cuộc kháng chiến và cái liên minh lắm khi chao đảo của Kampuchia được tồn tại, một trong những mục đích lâu dài của một cường quốc là củng cố vị thế của mình ở Đông Nam Á.. Trong sáu năm kể từ cuộc xâm lăng Kampuchia, tiếp theo sự hiện diện gia tăng của Mỹ, sự có mặt quân sự của Liên xô bành trướng ở Thái bình dương làm cho người ta lo ngại. Lợi dụng việc Việt Nam bị cô lập và yếu kém khi đối mặt với Trung Hoa cũng như tình trạng kinh tế tồi tệ, Moscow vượt lên, đóng vai trò ông chủ chính của Hà Nội. Cái giá của một ông chủ như thế chính là những tiện nghi quân sự mà trước đây bốn năm Hà Nội cương quyết từ chối không chịu dành cho Liên Xô. Sau khi Trung Hoa tấn công Việt Nam được hai năm, Moscow viện trợ quân sự cho Việt Nam một số lượng vũ khí tính ra cở hai tỷ đồng, gấp mười lần năm 1978. Mặc dù trong mấy năm sau viện trợ quân sự có yếu đi, hàng năm vẫn đạt tới con số 750 triệu. Tất cả những trang bị quân sự Hà Nội nhận được là thuộc hạng đồ cũ -thế hệ thứ hai- do các nước trong khối liên minh quân sự Varsôvi và các nước đồng minh khác của Liên Xô thải ra, Việt Nam vẫn tỏ lòng biết ơn Moscow. Hà Nội mở rộng cửa đón Liên Xô. Cố vấn quân sự Liên Xô có mặt ở Việt Nam tính vào khảng hai ngàn người so với 25 người hồi đầu năm 1977. Thêm vào đó có khoảng ba ngàn chuyên viên Liên Xô phục vụ trong các công trình do Liên Xô viện trợ, bao gồm cả việc tìm kiếm dầu lửa ngoài thềm lục địa Việt Nam. Theo tin tình báo Mỹ, từ năm 1979, viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam tính vào khoảng một tỷ đồng một năm. (53) Liên Xô cũng đồng thời gia tăng viện trợ kinh tế và quân sự cho Lào và Kampuchia và bành trướng sự có mặt của họ.
Cái giá Việt Nam phải trả cho viện trợ Liên Xô không có gì lớn. Mười một ngày sau khi Trung Hoa bắt đầu tấn công Việt Nam, Phạm văn Đồng bí mật đi Liên Xô. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Đồng từ Liên Xô trở về hồi đầu tháng Ba/1979, nhiều tàu bè trang bị dụng cụ tình báo thuộc lực lượng đặc biệt Liên Xô bỏ neo ở Đà Nẵng.(54) Đó là những điều Đồng thỏa thuận trong chuyến đi Liên Xô của ông ta. Các nhà phân tích tình hình Mỹ cho rằng công việc xây dựng quân sự của Liên Xô bắt đầu đặt nền tảng ở Việt Nam, viêc “thuê mướn” các tiện nghi quân sự mà chính là kết quả thỏa hiệp đạt được chính thức giữa Hà Nội và Mascow. Về điều khoản thứ sáu trong thỏa hiệp nói về những mối đe dọa an ninh là phải thực hiện những biện pháp thích ứng để đối kháng.
Ngày 27 tháng Ba/ 1979 cho thấy rõ ràng hơn. Một hạm đội nhỏ -gồm một tuần dương hạm, một chiến hạm nhỏ và một ngư lôi hạm -là những tàu đầu tiên của Nga thả neo ở vịnh Cam ranh hôm 12 tháng Tư/ 1905 - số tàu trong hạm đội gồm 42 tàu do đô đốc Zinovi Rozhdesventsky của Nga hoàng chỉ huy - tiến vào hải cảng này. Có điều khác là hồi năm 1905 vịnh Cam Ranh chỉ là trạm than lấy than đá do Pháp làm chủ - Lúc đó Pháp đuổi hạm đội Nga ra khỏi vịnh vì muốn giữ vị thế trung lập trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Bảy mươi bốn năm sau, Cam Ranh trở thành căn cứ quân sự lớn do Mỹ để lại. Từ đó, Cam Ranh là căn cứ hải quân lớn nhất và trạm nghỉ chân của tàu chiến Liên Xô bên ngoài lãnh thổ của họ, cũng là một tiền đồn trong kế hoạch lớn của Liên Xô trong vùng biển Nam Hải (Đông Hải - nd) và Ấn Độ Dương.
Mặc dù Liên Xô đã đến hải cảng quân sự này, Liên Xô không xây dựng công trình nào lớn ở trên bờ (ngoại trừ một đài kiểm soát tình báo điện tử theo dõi hoạt động tàu Mỹ và Trung Hoa), tuy chậm nhưng gia tăng từng bước một một cách vững chắc số lượng tàu bè và máy bay hoạt động ở hải cảng. Mỗi ngày khoảng 5 đến 10 tàu hoạt động trong vịnh này hồi năm 1979 tăng lên 25 đến 35 năm 1985. Số lượng máy bay triển khai ở đây tăng từ 10 đến 15 chiếc mỗi ngày lên 35 hoặc 40 sau cuộc chiến hồi năm 1979 được 6 năm. Đặt ở Việt Nam 16 tàu đánh bom Badgers và một phi đội MiG-23 (loại hoạt động trong mọi thời tiết) cùng thêm với loại máy bay tình báo và vận chuyển đường dài. Liên Xô có đủ khả năng đối đầu với kẻ địch ở Đông Nam Á, vượt ra ngoài điều hồi năm 1978 họ đã ao ước để có được. Tới đầu năm 1986, với chừng 20 đến 25 tàu thủy, gồm cả tàu ngầm, đủ sức phô diễn cùng với các tiện nghi tiếp tế dầu, bến cảng và sửa chữa, gia tăng gấp đôi khả năng của họ ở Ấn Độ dương, Liên Xô trở thành một lực lượng hải quân lớn ở châu Á.(55) Điều này đáng mai mỉa so với những cố gắng của Brzezinsky ủng hộ Trung Hoa để ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô.