Chương 9 Nhân quả
Hóa ra, ngày đó, Lục Linh vâng theo mệnh lệnh của sư môn, dẫn các đệ tử của Độ Tội cốc truy đuổi Tiêu Hành Chi và Ngôn Nhược Thi, muốn đòi lại Định Hồn Châu. Tuy cô ta cùng Ngôn Nhược Thi tình như tỷ muội, nhưng hiềm một nỗi lệnh thầy khó cãi, hơn nữa khi đó Lục Linh vẫn mang thành kiến với yêu linh, không thể hiểu nổi vì sao Ngôn Nhược Thi đã nhà tan cửa nát vì yêu linh mà vẫn ngầm định chuyện chung thân với một tên yêu nghiệt, thậm chí còn bất chấp ơn dưỡng dục nhiều năm, ra tay lấy trộm bảo vật của sư môn. Lúc ấy, cô ta cảm thấy Ngôn Nhược Thi nhất định đã bị Tiêu Hành Chi lừa gạt, cho uống thuốc mê hồn, thế nên căm hận Tiêu Hành Chi đến thấu xương, chỉ muốn vằm thây y ra thành muôn mảnh.
Thế nhưng, khi người của Độ Tội cốc truy đuổi và ngăn chặn, cuối cùng vây khốn hai người Tiêu, Ngôn ở trong núi, cô ta lại cảm thấy có điều lạ thường. Cho dù gặp cảnh nguy hiểm, Tiêu Hành Chi vẫn chưa từng ra tay giết người, còn hết lòng bảo vệ Ngôn Nhược Thi, thậm chí liều cả tính mạng vì không muốn để Ngôn Nhược Thi xảy ra chuyện gì. Nhìn thấy cảnh tượng này, Lục Linh vừa nghi hoặc vừa nôn nóng. Mắt thấy Ngôn Nhược Thi mình coi như em gái một lòng một dạ đi theo yêu quái, thậm chí cam lòng đồng sinh cộng tử với Tiêu Hành Chi, Lục Linh rốt cuộc đã dằn lòng lại, thật sự ra tay với Ngôn Nhược Thi. Đúng vào lúc nội tâm cô ta nôn nóng vạn phần, may mà mấy người Nguyệt Tiểu Trúc, Quy Hải Minh, Mặc Bạch tiên quân và Tất Phi xuất hiện, cứu Tiêu Hành Chi và Ngôn Nhược Thi, khiến cho Lục Linh buông được một tảng đá lớn trong lòng. Cho nên, cô ta mới không chút do dự nói: “Thuật pháp của Mặc Bạch tiên quân, mấy người chúng ta há có thể ngăn cản nổi, hơn nữa, còn có cả gã yêu nghiệt biết dùng tuyệt chiêu của Ứng Long đi cùng, chỉ dựa vào chúng ta thì dù có thêm trăm cái mạng cũng chẳng đủ để chết! Hảo hán không chịu thiệt trước mắt, mau đi thôi!”
Đúng như phán đoán của Tất Phi trước đó, Lục Linh xưa nay là người cốchấp, tuyệt đối không tham sống sợ chết, cô ta sẵn lòng chiến đấu với kẻ địch đến thời khắc cuối cùng chứ chẳng bao giờ tùy tiện bỏ cuộc. Sở dĩ cô ta hạ lệnh cho môn nhân rút lui là vì sự xuất hiện của mấy người Tiểu Trúc vừa hay tạo ra cho cô ta cơ hội xuống thang, để cô ta có thể tha cho Ngôn Nhược Thi và Tiêu Hành Chi một con đường sống, không tiếp tục truy sát cặp uyên ương đó nữa.
Thế nhưng, Lục Linh đâu có ngờ được, cách làm của cô ta đã gây ra sự bất mãn cho Hồ Cửu – một đệ tử của Độ Tội cốc. Ngày đó, trên núi chợt có mưa rào, nhóm môn nhân Độ Tội cốc đang đi trên một cây cầu treo vắt qua khe núi thì đột nhiên trên trời nổ vang tiếng sấm, kế đó trời đất rung chuyển, cây cầu treo lắc lư không ngừng, cuối cùng đột nhiên đứt lìa ở giữa. Mắt thấy mình sắp rơi xuống vực sâu vạn trượng đến nơi, Lục Linh lập tức vung trường kích đâm mạnh vào một ván cầu, treo mình giữa không trung. Khi đó, Hồ Cửu ở gần cô ta nhất, chỉ cần hắn chịu đưa tay ra cứu giúp là Lục Linh có thể thoát khỏi nguy hiểm. Nhưng Hồ Cửu chỉ khoanh tay bàng quan, trơ mắt nhìn tấm ván gỗ cũ kĩ nứt ra, sau đó vỡ tan thành nhiều mảnh, rơi xuống đáy vực sâu vạn trượng.
Khi đó, Lục Linh kinh ngạc nhìn về phía sư đệ đồng môn của mình, nhưng lại chẳng thể làm gì hơn được. Sau khi tấm ván cầu bị vỡ, cô ta lập tức rơi xuống dòng nước cuộn trào, rất nhanh đã bị sóng cuốn đi.
Nước sông lạnh căm, sóng vỗ ầm ầm, Lục Linh khi chìm khi nổi giữa dòng nước, cuối cùng bị sóng vùi xuống tận đáy sông. Đúng vào lúc thần trí dần trở nên mơ màng, trong tầm mắt mơ hồ bỗng xuất hiện một bóng người màu trắng. Người đó vận bộ đồ trắng như tuyết, mình tựa giao long, ở giữa dòng nước vẫn ung dung tự tại tiến dần về phía cô ta. Một tiếng “úi chà chà” mang theo nét cười chính là âm thanh cuối cùng mà Lục Linh nghe được trước khi mất đi ý thức.
Sau khi tỉnh dậy, Lục Linh nhìn thấy một vùng đất giống như Đào Nguyên tiên cảnh. Nơi này cỏ mọc biếc xanh, hoa lê nở rộ, bên bờ sông sóng gợn còn có một ngôi nhà gỗ nhỏ. Gió nhẹ thổi tới, những cành lê nhè nhẹ đung đưa, cánh hoa lê buông rơi lả tả. Những cánh hoa đó rụng xuống rồi theo gió bay phất phơ, tựa như một cơn mưa tuyết đầy trời, tung bay múa lượn, có một số còn rơi xuống dòng sông trong vắt, được làn sóng nhẹ đưa đi xa dần.
Tình cảnh này thiếu chút nữa khiến Lục Linh ngỡ rằng mình đã chết và được lên Thiên đình. Trong khi cô ta trợn mắt há miệng, ngơ ngẩn nhìn cảnh đẹp trước mắt, bỗng nghe từ trong ngôi nhà gỗ có tiếng sáo vang ra. Tiếng sáo ấy du dương trầm bổng, êm đềm tha thiết, nhưng lại mang theo đôi chút buồn rầu, tựa như đang thở dài than vãn, bồi hồi không dứt, lẩn khuất giữa những cánh hoa.
Lục Linh đi lên phía trước, khẽ gõ cửa căn nhà gỗ. Tiếng sáo đột nhiên dừng lại, sau chốc lát, cửa được nhẹ nhàng mở ra, từ bên trong, một người thanh niên tuấn tú phi phàm, ăn mặc theo lối thư sinh bước ra. Chỉ thấy người này ngũ quan thanh tú, khóe môi hơi nhếch lên, mái tóc mượt mà được bó lại bằng chiếc vòng bạc trước trán, phần phía sau thì buông xõa đến tận hông. Thấy y diện đồ màu trắng, Lục Linh thoạt tiên ngẩn ra, ngay sau đó liền giật mình bừng tỉnh, kinh ngạc kêu lên:
“A, ta nhớ ra rồi, người ở trong nước đó chính là công tử, chính công tử đã cứu ta!” Nói đến đây, Lục Linh đưa tay ôm quyền, vái một cái thật sâu, trầm giọng nói lời cảm tạ: “Đa tạ ơn cứu mạng của ân công, xin hỏi ân công tôn tính đại danh là gì?”
Người đó chỉ khẽ cười một tiếng, chậm rãi lắc đầu, nói: “Chỉ là chuyện cỏn con thôi, đâu đáng nhắc đến. Cô nương, cô đã không việc gì, vậy thì nên rời khỏi đây sớm một chút mà đi tìm bằng hữu của mình.”
Nghe nhắc tới hai chữ “bằng hữu”, trái tim Lục Linh bất giác trầm hẳn xuống. Ngôn Nhược Thi mà cô ta coi như muội muội đã đi theo một tên yêu quái, phản bội sư môn. Gã sư đệ mà cô ta dẫn theo chỉ vì một chút thể diện, không ngờ lại bất chấp tình nghĩa đồng môn, trơ mắt nhìn cô ta rơi vào chỗ chết… Lục Linh tập võ đã hơn hai mươi năm ròng, tự xét thấy mình luôn quang minh lỗi lạc, đi ngay ngồi thẳng, không có gì phải hổ thẹn với đất trời, vậy mà lại rơi vào tình cảnh như hiện nay, đến một người hảo hữu chí giao cũng chẳng có…
Nhất thời, Lục Linh cảm thấy đầu óc rối bời, muôn vàn cảm xúc trào dâng không ngớt – có không cam tâm, có bất lực, có phẫn nộ, cũng có cả buồn bã. Cô ta không sao ngăn được cảm xúc hỗn loạn, liền buột miệng mở lời thỉnh cầu: “Ân công, chẳng hay có thể thổi lại cho ta nghe khúc nhạc vừa rồi không?”
Người thanh niên ngẩn ra, sau chốc lát, rốt cuộc vẫn đáp ứng yêu cầu của cô ta. Y rút từ trong ống tay áo ra một cây sáo trúc, đưa lên môi, rất nhanh sau đó, tiếng sáo du dương đã bắt đầu vang ra, tỏa khắp trong sơn cốc. Lục Linh nghe mà ngơ ngẩn, cảm thấy tiếng sáo du dương này giống hệt như tâm trạng của mình vừa rồi, vừa có sự bất lực, vừa có sự u sầu ủ rũ. Cô ta đứng lặng lẽ bên cạnh cửa, ngước mắt nhìn về phía những bông hoa lê rơi rụng lả tả như tuyết. Mãi tới khi khúc nhạc kết thúc, cô ta vẫn thẫn thờ đứng đó, như thể tiếng sáo chưa từng dừng lại, dư âm vắt vẻo vang vọng mãi bên tai.
Lục Linh tuy không phải là người thông hiểu âm luật, nhưng từ trong tiếng sáo, cô ta rõ ràng có thể nghe ra được sự cô đơn, sự bi thương và thấp thoáng đôi chút hối hận. Cô ta chẳng chút nghĩ ngợi, buột miệng nghi hoặc hỏi: “Ân công, ngài có bằng hữu không?”
Người thanh niên im lặng, hồi lâu sau mới hé môi khẽ nói: “Đã từng có.”
“Vậy thì hay lắm!” Lục Linh không chút nghĩ ngợi nói ngay. “Chúng ta gặp nhau tức là có duyên, huống chi ân công còn có cái ơn cứu mạng với ta. Đã như vậy, chi bằng chúng ta kết giao bằng hữu đi, được không? Tiểu nữ họ Lục, tên chỉ có một chữ là Linh, xin cho hỏi quý tính của huynh?”
“Duyên… ư?” Người thanh niên lẩm bẩm tự hỏi mình. Mãi hồi lâu sau, khi Lục Linh cất lời nhắc nhở, hỏi han tên họ của y lần thứ ba, người thanh niên đó mới khẽ khàng nói ra một chữ: “Bạch.”
Người này chính là thư sinh Tiểu Bạch. Lục Linh nhất quyết muốn báo đáp ơn cứu mạng của y, nhưng y lại nói đây “chỉ là chuyện nhỏ, không đáng nhắc tới”, cho nên không đòi hỏi gì. Lục Linh vốn tính bướng bỉnh, thấy Tiểu Bạch sống giữa một sơn cốc vắng vẻ, xung quanh chẳng có bạn bè gì, hết sức cô độc lẻ loi, bèn ở lại luôn trong sơn cốc, đêm đến thì ngủ lại ngoài trời ở một nơi cách căn nhà gỗ vài dặm. Thường ngày, cô ta không có việc gì làm thì đi đào khoai lang, lại ra ngoài kiếm lấy một ít bắp ngô và hạt dẻ, mang về nướng chín rồi đặt trước cửa nhà Tiểu Bạch, coi như tỏ lòng cảm tạ.
Lục Linh vốn là đệ tử của Độ Tội cốc, thường xuyên phải ra ngoài làm nhiệm vụ, đương nhiên rất giỏi trong việc tự chế lương khô, ăn ngủ ngoài trời cũng đã quen, không có gì là ghê gớm. Nhưng có một điều khiến cô ta không sao ngờ được, đó là thân thể cô ta vốn luôn cường kiện, thế mà mới ở đây được mấy ngày đã cảm thấy toàn thân nặng nề, sau đó bắt đầu sốt cao. Trong lúc đầu choáng mắt hoa, toàn thân cạn sức, cô ta loạng choạng đi tới bên bờ sông, muốn vốc một ít nước mát lên rửa mặt, bỗng cảm thấy đầu mình nặng trịch, đâm sầm xuống dòng sông lạnh căm.
Đến khi mở mắt ra, cô ta đã ở trong căn nhà gỗ của thư sinh Tiểu Bạch. Trong nhà chẳng có đồ đạc gì, cũng không có thứ gì trang trí, khắp nơi chỉ toàn là các loại sách được phân loại rõ ràng, sắp xếp hết sức chỉnh tề. Lục Linh vốn chỉ chăm luyện võ, không thông thạo gì về thi thư, lúc này phải ở giữa biển sách như vậy quả thực đau đầu vô hạn. Cô lần mò nhìn theo ánh đèn, thấy vị thư sinh đã mấy ngày chưa từng lộ diện kia đang ngồi trên chiếc ghế duy nhất trong nhà, chong đèn đọc sách. Ánh nến đung đưa, chiếu lên một bên mặt y, khiến khuôn mặt tuấn tú ấy bất giác có thêm một nét nhu hòa.
“Muộn thế này rồi mà còn xem sách, Bạch công tử, lẽ nào huynh định đi thi trạng nguyên?” Lục Linh không kìm được hỏi.
Nghe thấy câu hỏi của cô, người thanh niên nhẹ nhàng gấp cuốn sách lại, khẽ cười nói: “Ai nói đọc sach chỉ là để thi lấy công danh? Các câu chuyện trong sách hoặc buồn hoặc vui, hoặc hờn hoặc giận, muôn vàn lời lẽ, viết ra hết cái ấm lạnh của tình người, lột tả hết thói đời nóng lạnh, lẽ nào lại chẳng đáng đọc hay sao?”
“Ha ha, ta cứ ngỡ là huynh đang đọc Tứ thư, Ngũ kinh để đi thi công danh cơ đấy, hóa ra là thích đọc tiểu thuyết. Nói trắng ra, ấy là huynh thích nghe kể chuyện thôi mà.” Lục Linh cười nói. “Chuyện này đơn giản thôi! Trong tiểu trấn ở cách Độ Tội cốc của bọn ta không xa có một tiệm trà, ở đó có một vị sư phụ kể chuyển cực kỳ lợi hại. Ông ấy có thể kể liền một mạch ba ngày ba đêm khôngnghỉ, các chuyện ly kỳ thú vị trên giang hồ, các chuyện thần tiên quỷ quái tự cổ chí kim, ông ấy đều có thể kể một cách sinh động. Bạch công tử, lần sau ta sẽ dẫn huynh tới đó nghe thử một phen!”
“Thế thì hay lắm!” Người thanh niên hơi nhếch khóe môi, nhìn cô hỏi: “Cô đã cảm thấy đỡ hơn chút nào chưa?”
Nghe y nói như vậy, Lục Linh có chút xấu hổ nói: “Đỡ hơn nhiều rồi. Nói ra thật xấu hổ quá, ta lại mang thêm phiền phức tới cho ân công rồi. Có điều, chuyện này cũng lạ thật, trước đây, khi có nhiệm vụ trên người, dù liên tục bôn ba một, hai tháng ở bên ngoài, ta cũng chưa từng bị như vậy. Nhưng mấy ngày nay, chẳng biết vì sao, ta càng ngày càng cảm thấy giá lạnh, cuối cùng mới không cầm cự được như thế.”
“Lục cô nương, cô có điều không biết, nước ở dưới dòng sông này có ẩn chứa hàn khí chí âm, lạnh giá tột cùng, người bình thường không chịu đựng nổi cũng là lẽ dĩ nhiên.”
Câu trả lời của người thanh niên khiến Lục Linh giật mình bừng tỉnh, rồi cô ta gật đầu, nói: “Hóa ra là vậy, chẳng trách. Ta đã nói rồi mà, ta vốn khỏe hơn trâu, sao lại dễ dàng đổ bệnh như thế được? Mà chờ đã, nơi này có hàn khí như vậy, sao công tử không rời đi?”
Thư sinh Tiểu Bạch cúi thấp đầu xuống, chậm rãi nói: “Mỗ lánh đời ở đây, sớm đã quen rồi.”
“Huynh còn trẻ như thế, đâu phải một ông lão bảy, tám chục tuổi đã nhìn thấu hồng trần, lánh đời làm gì chứ?” Lục Linh nói. “Huynh tuy sống ở nơi hẻo lánh nhưng lại thích đọc tiểu thuyết, thích nghe kể chuyện, hiển nhiên là vẫn còn rất thích thế giới bên ngoài. Có điều, chỉ xem với nghe thôi thì có ích gì chứ? Ta tuy không thích đọc sách cho lắm nhưng cái đạo lý “đọc vạn quyết sách, đi vạn dặm đường” thì cũng hiểu được, tại sao huynh lại không ra ngoài du ngoạn một phen?”
Lời của nàng khiến người thanh niên khẽ nở một nụ cười mỉm, nhưng trong nụ cười lại thấp thoáng nét buồn. Y ngước mắt lên nhìn Lục Linh, hỏi ngược lại: “Lục cô nương, những lời này cô có tư cách nói mỗ sao? Vừa rồi cô cũng đã nói, cô là đệ tử của Độ Tội cốc, thường xuyên có nhiệm vụ trên người, đến vùng đất hẻo lánh này chắc cũng là vì nhiệm vụ bức bách. Nhưng cô lại từ bỏ nhiệm vụ, ở lại nơi này với mỗ liền một mạch năm ngày, chẳng lẽ không phải cũng là để lánh đời hay sao?”
“Không phải chứ, ta vừa rồi chỉ mới kể có mấy câu, thế mà huynh đã đoán ra được rồi sao?” Lục Linh kinh ngạc nói.
Lục Linh vốn là người hào sảng, dám nói dám làm, trong bụng không dấu được việc gì cả. Thời gian vừa qua, nàng vẫn luôn nhớ tới Ngôn Nhược Thi mà mình coi như em gái, cũng nhớ lại từng lời lẽ cử chỉ của mình khi tiếp xúc với các sư huynh, sư đệ ở trong Độ Tội cốc, muốn qua đó làm rõ rốt cuộc mình đã đắc tội với Hồ Cửu ở chỗ nào… Những chuyện này khiến cô ta càng nghĩ lại càng buồn bực, mãi tới hôm nay, gặp được thư sinh Tiểu Bạch, cô ta mới kể hết ra nguồn cơn mọi chuyện đã xảy ra trước đó, bao gồm cả việc Ngôn Nhược Thi và Phi Liêm Tiêu Hành Chi ngầm định chung thân, lấy trộm bảo vật Định Hồn châu của Độ Tội cốc; sau đó lại nói tới việc sư môn phái cô đi tróc nã Ngôn Nhược Thi và Tiêu Hành Chi, thậm chí còn định giết chết bọn họ ngay tại chỗ; tiếp nữa là việc mấy người Mặc Bạch tiên quân và Quy Hải Minh xuất hiện, ra tay cứu Ngôn Nhược Thi, khiến cô được yên tâm; sau đó lại nói đến chuyện bọn họ đi qua cầu treo, Hồ Cửu thấy chết không cứu, khiến cô bị rơi xuống sông. Kể tới đoạn cuối cùng, Lục Linh cau mày, hậm hực nói: “... Quả thực, ta đang muốn trốn ở nơi này không ra ngoài nữa, thứ nhất là vì sợ nếu về sư môn, sư phụ lại bảo ta đi tìm Ngôn muội tử, đòi lại Định Hồn Châu. Thứ hai, ta không muốn quay lại Độ Tội cốc vì không biết phải đối mặt với các sư huynh, sư đệ thế nào, đặc biệt là gã Hồ Cửu đã thiếu chút khiến ta mất mạng ấy.”
Người thanh niên im lặng nghe, chờ sau khi Lục Linh kể xong tất cả mọi chuyện mới chậm rãi nói: “Theo mỗ thấy, Tiêu Hành Chi lấy trộm Định Hồn châu là vì Ngôn cô nương đang mang thai, sắp lâm bồn, cần phải có Định Hồn châu mới có thể sinh nở an toàn được.”
“Đúng thế, ta cũng đoán như vậy.” Lục Linh thở dài, nói. “Cho nên ta mới không muốn về môn phái, định kéo dài thêm một thời gian nữa rồi tính tiếp. Nhưng ta cũng lo cốc chủ sẽ phái người khác đi gây rắc rối cho Nhược Thi, lúc đó ta lại không có mặt, dù muốn giúp đỡ cũng chẳng được.”
Nghe giọng nói thoáng mang vẻ phiền muộn của nàng, người thanh niên nói: “Cô đừng nôn nóng, chuyện này cũng không phải là không có cách để giải quyết. Tiêu Hành Chi và Ngôn Nhược Thi giữ Định Hồn châu chẳng qua là muốn giúp cho Ngôn Nhược Thi bình an sinh nở, mẹ tròn con vuông. Mỗ có một cách có thể đạt được công hiệu ngưng thần an thai, không kém gì Định Hồn châu, đó chính là dùng Càn Khôn đỉnh làm lò luyện, luyện chế Xuân Huy Thảo thành thuốc. Chỉ cần có loại thuốc này trong tay, cô có thể đổi Định Hồn châu về, vậy là mọi việc đều êm xuôi ổn thỏa, đúng không nào?”
“Cách hay lắm!” Lục Linh cả mừng, vỗ tay nói. “Đúng rồi, đúng rồi! Chỉ cần ta dùng thuốc đó đổi lấy Định Hồn châu, sau đó lại nói dối là Tiêu Hành Chi đã bị trừng trị, như vậy cốc chủ sẽ không phái người đi gây rắc rối cho Ngôn muội tử nữa!”
Nói tới đây, cô bỗng chuyển vui thành lo, nhíu đôi mày liễu, trầm ngâm nói: “Nhưng Càn Khôn đỉnh là bảo vật trấn phái của Xích Vân lâu, há có thể tùy tiện cho người ngoài mượn? À, phải rồi, sao huynh lại biết cách này vậy? Ta chưa từng nghe nói Càn Khôn đỉnh có thể dùng để luyện thuốc.”
“Chuyện này ấy à…” Nghe Lục Linh hỏi vậy, người thanh niên khẽ cười, nói. “Mỗ từng xem qua phương thuốc cổ này ở trong sách, nhưng cụ thể là cuốn nào trang nào thì không nhớ được nữa, hay là cô tự tìm thử xem sao đi!”
Dứt lời, y liền xoay người lại, chỉ tay vào một đống sách ở góc nhà. Nhìn đống sách chất cao như núi đó, Lục Linh bất giác run rẩy, vội vàng xua tay nói: “Không cần tìm đâu, không cần tìm đâu, ta tin huynh là được rồi. Không phải chỉ là Xích Vân lâu thôi sao, vì Ngôn muội tử, xông vào đó một chuyến cũng nào có hề gì!”
Nghe nàng nó bằng giọng hào khí ngút trời, người thanh niên chớp chớp hàng mi, cụp mắt xuống, hỏi: “Vừa rồi, cô nói trong nhóm người cứu Ngôn Nhược Thi hôm đó có một vị địa tiên gấu trúc, tên là Mặc Bạch, có đúng vậy không?”
“Đúng vậy, nhưng thế thì sao?” Lục Linh nghi hoặc hỏi.
“Gấu trúc tu tiên, đó đúng là chuyện lạ trên đời.” Người thanh niên chậm rãi nói. “Mỗ cũng muốn đi cùng với cô, chẳng hay Lục cô nương có đồng ý không?”
Lục Linh vội vàng xua tay, cất lời cự tuyệt: “Không được, ta không thể dẫn huynh đi cùng được!”
Người thanh niên nhướng đôi mày kiếm, trầm giọng hỏi: “Vừa rồi chẳng phải cô đã nói là mỗ nên đi vạn dặm đường, ra ngoài du ngoạn ư?”
“Cái đó thì khác, ta nói là huynh nên ra ngoài du ngoạn, còn đây lại là đi lấy trộm bảo vật.” Lục Linh lộ vẻ buồn bực, nói: “Huynh chỉ là một thư sinh, tay không thể xách, vai không thể gánh, nhỡ xảy ra chuyện gì thì phải làm sao?”
Người thanh niên mỉm cười, nói: “Cô yên tâm, mỗ tự có chừng mực. Vả lại, dù cô lấy trộm được Càn Khôn đỉnh đi chăng nữa, nếu không biết cách luyện thuốc thì cũng có ích gì? Mỗ đi cùng cô thì sẽ có thể nhanh chóng luyện thuốc, sau đó trả lại bảo đỉnh, không để sự việc bị lộ ra ngoài, như vậy chẳng tốt hơn sao?”
“Ồ…” Lục Linh suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng đành đồng ý. “Vậy được rồi. Có điều ta còn có một điều kiện: Ân công, huynh còn chưa nói cho ta biết tên huynh là gì đấy!”
“…” Người thanh niên dùng tay phải mân mê cằm, trầm mặc một lúc rồi chợt nói: “Hình như tên là… Bạch Mễ Phạn1?”
Lục Linh lập tức trợn trừng mắt, hậm hực nói: “Làm gì có cái tên nào như vậy!”
“Vậy có lẽ là… Bạch Thái2? Bạch Diện3? Bạch Đường4?”
“…” Lần này thì tới lượt Lục Linh câm lặng. Ngay cả kẻ ngốc cũng có thể nhận ra được đối phương đang nói đùa. Cô hơi cau mày lại, không vui nói: “Này, chúng ta đã có ước định với nhau trước rồi mà, hành tẩu giang hồ, đi không thay tên, ngồi không đổi họ. Huynh là nam tử hán đại trượng phu, vậy mà đến tên thật cũng không dám nói ra, chẳng lẽ sợ ta ăn thịt hay sao?”
-----------
1. Nghĩa là “Cơm gạo trắng”.
2. Nghĩa là “Cải trắng”.
3. Nghĩa là “Bột mì”.
4. Nghĩa là “Đường trắng”.
-----------
Người thanh niên hơi nhếch khóe môi, nở nụ cười mỉm. Có điều, nụ cười này của y chỉ dừng lại trên bờ môi, không hề xuất hiện nơi đáy mắt. “Mỗ không hề có ý giấu giếm, chỉ là đã sống ở nơi này quá lâu rồi, bị khí lạnh ngấm vào đầu, thành ra không nhớ nổi rất nhiều chuyện khi xưa.”
“Ồ, hóa ra khí lạnh này lợi hại đến thế.” Lục Linh cả kinh, vội vàng kéo cánh tay đối phương đi nhanh ra khỏi căn nhà gỗ. “Chúng ta mau đi thôi, ở đây lâu quá e cả hai ta đều sẽ biến thành kẻ ngốc mất! Thế này đi, sau này ta sẽ gọi huynh là Tiểu Bạch, được không?”
Người thanh niên theo Lục Linh rời đi, đồng thời mỉm cười gật đầu, tỏ ý chấp nhận cách xưng hô này.
***
Kế đó, Lục Linh và thư sinh Tiểu Bạch đi suốt cả ngày lẫn đêm, tới Xích Vân lâu để lấy trộm Càn Khôn đỉnh. Chẳng ngờ tại nơi này bọn họ lại chạm mặt mấy người Tiểu Trúc, Quy Hải Minh và Tất Phi, sau một hồi đấu đá thì trở thành bằng hữu. Lục Linh không chỉ gạt bỏ hết hiềm khích cũ với Tất Phi, còn nhìn Quy Hải Minh và Tiểu Trúc bằng con mắt khác, không một mực bài xích yêu linh nữa.
“… Cho nên, xin các vị hãy tạo điều kiện giúp cho, để ta mượn đỉnh luyện thuốc, đưa tới cho Nhược Thi muội tử!”
Nói đến câu cuối cùng, Lục Linh khom người, ôm quyền hành lễ với mấy người Tiểu Trúc.
Tiểu Trúc khẽ thở dài một hơi, khẽ nói: “Hóa ra cô đến Xích Vân lâu lấy trộm Càn Khôn đỉnh cũng là vì Ngôn tỷ tỷ… Có điều, có điều…”
Nghe ra vẻ trù trừ của nàng, Lục Linh nhướng mày lên, nôn nóng hỏi: “Sao vậy? Nhược Thi đã xảy ra chuyện gì rồi ư?”
“Không phải Ngôn tỷ tỷ, mà là Tiêu công tử đã xảy ra chuyện.” Tiểu Trúc lại thở dài tiếng nữa, rồi kể lại những chuyện đã xảy ra sau khi bọn họ cứu thoát vợ chồng Tiêu, Ngôn từ tay đám người của Độ Tội cốc. “Ngày đó, sau khi bọn cô rút lui, sư phụ ta sợ người của Độ Tội cốc các cô sẽ truy đuổi vợ chồng họ không buông, liền đưa Tiêu công tử và Ngôn tỷ tỷ lên núi Đoạn Vân. Nơi đó linh lực tràn đầy, thế núi hiểm trở, người bình thường khó mà lui tới được. Vợ chồng Ngôn tỷ tỷ vốn có thể sống một cách vô ưu vô lo ở đó, chờ đến ngày sinh em bé, nhưng ai ngờ Ứng Long tôn giả Cửu Hoàng Huyền Dực lại đột nhiên xuất hiện, chém lấy sừng của Phi Liêm…”
“Cái gì?” Lục Linh nghe vậy thì cả kinh, vỗ bàn đứng dậy, nôn nóng nói: “Phi Liêm gãy sừng tất chết, vậy Tiêu Hành Chi há chẳng phải…”
Nhất thời, bầu không khí trong phòng chìm vào trầm lặng, mọi người đều không nói năng gì. Quy Hải Minh bất giác nắm chặt cán Bàn Long thương, sắc mặt băng giá. Nhìn ra vẻ tự trách của y, Tiểu Trúc đưa tay tới, nhẹ nhàng áp lên bàn tay rắn rỏi của y. Nàng tuy không nói gì, nhưng cặp mắt dịu dàng màu hổ phách kia lại nhìn đối phương chăm chú, dường như đang khẽ gọi: “Rắn con ca ca.” Tất Phi cũng im lặng, chỉ lắc đầu thở dài. Nhìn thần sắc của bọn họ, Lục Linh đã biết được đáp án, lòng liền trầm xuống, vội vàng hỏi: “Vậy Nhược Thi muội tử thì sao? Muội ấy thế nào rồi? Có xảy ra chuyện gì không?”
“Ngôn tỷ tỷ…” Tiểu Trúc do dự một lát rồi nói. “Tỷ ấy tuy không bị thương, nhưng tận mắt nhìn thấy phu quân của mình lìa đời, tỷ ấy há có thể an nhiên được?”
Lục Linh cảm thấy lồng ngực như nghẹn lại, bí bách vô cùng. Ngày đó, cô ta nghĩ rằng Ngôn muội tử bị yêu ma cám dỗ, cũng từng muốn giết chết Tiêu Hành Chi, nhưng sau khi thấy Tiêu Hành Chi liều cả tính mạng để vảo vệ Ngôn Nhược Thi, trong lòng cô ta lại có chút buồn bã. Hiện giờ, sau cuộc chiến ở Xích Vân lâu, cô ta rốt cuộc đã hiểu ra, trong yêu linh cũng có phân thiện ác, tựa như người phàm vậy, có người thì trọng tình trọng nghĩa, nhưng cũng có kẻ bỉ ổi vô sỉ. Còn về Tiêu Hành Chi, đó rõ ràng là một yêu linh tình thâm ý trọng. Nghĩ tới đây, Lục Linh lại vội vàng hỏi tiếp: “Ứng Long tôn giả là gì? Tại sao hắn lại phải chém lấy sừng của Phi Liêm?”
“Chuyện này…” Tiểu Trúc do dự một chút, đưa mắt nhìn Quy Hải Minh. Chỉ thấy y mím chặt bờ môi, một lát sau liền trầm giọng nói: “Tất cả đều do ta mà ra, mười năm trước…”
Kế đó, Quy Hải Minh liền kể lại việc mười năm trước mình lần theo linh khí tỏa ra từ nội đan của cha mẹ, một mực tìm đến Thất Ấn Tinh trụ ở Đông Hải, vô ý đánh thức Ứng Long. Sau đó, y nói tới việc những năm nay Ứng Long vẫn luôn mưu tính hòng phá vỡ phong ấn ở Đông Hải, quay trở lại Thần Châu, dưới trướng thì có Ứng Long tứ tôn giả là Cửu Hoàng, Hư Ảnh, Phần Tề, Hồn Sát, nhóm bốn người chia nhau ra tìm kiếm bốn món linh khí là Diệm La trảo, Thủy Huyền lân, Lôi Minh châu và Phong Lăng giác về để phá vỡ Thất Ấn Tinh trụ. Cuối cùng, y nói tới việc Ứng Long tái xuất, Mặc Bạch tiên quân vì cứu hai người bọn họ mà bị thiêu cháy thành tro…
“Cái gì? Ứng Long đã phá vỡ phong ấn, quay trở lại nhân gian rồi ư?” Lục Linh cả kinh thất sắc, bật thốt lên.
Quy Hải Minh mắt thoáng nét buồn, gật đầu nhè nhẹ. Tất Phi cũng thở dài, nói: “Thiên hạ sắp đại loạn rồi. Lục sư muội, muội có điều không biết, mới không lâu trước đây, Ứng Long tôn giả Cửu Hoàng, Hồn Sát đã dẫn theo trăm nghìn yêu ma, đánh tới Thiên Huyền môn để trả thù. Ứng Long là hạng có thù tất báo, việc này tất sẽ gây họa cho cả Thần Châu, mà Tru Yêu tứ phái thì hiển nhiên chính là mục tiêu công kích đầu tiên của hắn.”
“Vậy… vậy phải làm sao đây?” Lục Linh nắm chặt cây bán nguyệt kích trong tay, đột nhiên dội mạnh cán kích xuống đất, đứng bật dậy, nói: “Không được! Ta phải quay về Độ Tội cốc! Nếu Ứng Long tôn giả đánh tới môn phái, ta nhất định phải liều với bọn chúng một phen!”
“Chà chà, ta nói này, những lời này của cô nghe thì oai phong lắm, nhưng nếu cô quay về Độ Tội cốc, chỉ e chẳng khác nào đâm đầu vào chỗ chết.”
Thư sinh Tiẻu Bạch trước đó vẫn luôn yên lặng, lúc này chợt nhếch khóe môi, nở nụ cười châm chọc. Rồi y ngoảnh đầu qua nhìn Tiểu Trúc, khẽ nói: “Nghe những lời vừa rồi, Nguyệt cô nương, bọn cô đầu tiên là tới Thiên Huyền môn, giờ lại tới Xích Vân lâu trộm Càn Khôn đỉnh… hà hà, nếu ta đoán không nhầm, chắc là định thu thập bốn món pháp khí ở nhân gian, qua đó tái sinh cho vị sư phụ gấu trúc kia của cô đúng không?”
Tiểu Trúc thầm run rẩy, mở to cặp mắt màu hổ phách, chăm chú nhìn người thanh niên đang tươi cười trước mặt. Chuyện về bốn món pháp khí chỉ có mình thần tướng Thương Minh biết, ngay cả chưởng môn của Thiên Huyền môn là Huyền Kỳ chân nhân cũng chưa từng nghe nói bao giờ, vị thư sinh trẻ tổi này làm sao lại biết được rõ ràng như thế?
Nhìn bộ dạng kinh ngạc của nàng, thư sinh Tiểu Bạch mỉm cười, bình thản nói: “Nguyệt cô nương, có phải là cô định hỏi ta làm sao lại biết chuyện này không? Hà hà, vừa nãy Lục cô nương đã nói rồi, ta sống ở nơi hẻo lánh, chẳng có gì hay cả, chỉ duy có ưu điểm là nhiều sách. Ta nhớ trong cuốn sách nào đó dường như có nhắc tới chuyện này, chỉ cần tập hợp đủ bốn món pháp khí ở nhân gian là Tử Tiêu kiếm, Càn Khôn đỉnh, Định Hồn châu và Khuy Thiên phiên thì sẽ có công hiệu nghịch thiên cải mệnh. Đương nhiên, Mặc Bạch tiên quân bị ngọn lửa Hoang Hỏa Phần Thiên của Ứng Long thiêu cháy, về lý mà nói thì đã hồn phi phách tán, nhưng Nguyệt cô nương biết tới việc thu thập bốn món pháp khí, ta nghĩ chắc là đã có cao nhân tương trợ, có thể tụ khí ngưng thần cho Mặc Bạch tiên quân. Nguyệt cô nương, ta đoán không sai chứ?”
Tiểu Trúc hơi ngẩn người rồi khom người, cung tay hành lễ. “Dám hỏi các hạ là cao nhân phương nào?”
“Úi chà chà, lần này thì cô nương đoán nhầm rồi.” Tiểu Bạch phẩy tay một cái, chiếc quạt xếp tức thì xòe ra. Chỉ thấy y vừa phe phẩy quạt vừa khẽ mỉm cười, nói: “Ta nào phải là cao nhân gì đâu, chẳng qua chỉ là một thư sinh nghèo kiết hủ lậu thích nghe kể chuyện mà thôi, đặc biệt những cuốn sách cổ viết về thần tiên ma quái thì ta lại càng yêu thích đến không rời tay được. Biển sách vô bờ, ta quả thực từng đọc được không ít điều hay điều lạ trong sách, thế nên mới biết được đôi chút về chuyện này.”
Thấy Tiểu Bạch tỏ ra bình thản như thế, Tiểu Trúc lại càng cảm thấy lạ thường. Từ trên người đối phương, nàng không cảm nhận được một tia linh lực nào, dường như y chỉ là một thư sinh bình thường. Nhưng bí mật về bốn món pháp khí lẽ nào thật sự được ghi trong sách cổ? Nàng ngước mắt lên, nhìn qua phía Quy Hải Minh bên cạnh, dùng ánh mắt ra hiệu. Đoán được ý của nàng, Quy Hải Minh liền khẽ gật đầu, tỏ ý không hề cảm nhận được yêu khí. Tiểu Trúc mới yên tâm, bèn nói:
“Bạch công tử vừa đoán đã trúng ngay rồi. Hai vị, thực không dám giấu, bọn ta chính vì muốn cứu sư phụ cho nên mới phải thu thập đủ bốn món pháp khí. Thứ nhất, việc này xuất phát từ tư tâm của ta, thứ hai, trên thế gian chỉ có sư phụ ta mới biết Vân Sinh kính nằm ở nơi nào, nếu tìm ra được Vân Sinh kính, chúng ta có thể phong ấn Ứng Long trở lại.”
“Ta đã nói rồi mà, Vân Sinh kính nhất định nằm trong tay sư phụ cô!” Lục Linh vỗ đùi một cái, phấn khích nói. Ngày đó, trên núi Thanh Xuyên, Tru Yêu tứ phái bao vây nơi ở của Mặc Bạch tiên quân, mục đích chính là ép y giao ra Vân Sinh kính. Khi đó, Mặc Bạch một mực phủ nhận, có điều bây giờ, xem ra, khi đó bọn họ không đoán nhầm. Lục Linh đưa tay lên mân mê cằm, sau một hồi suy nghĩ liền vỗ tay một cái, lớn tiếng nói:
“Được rồi, cứ quyết định như vậy đi! Ta sẽ cùng bọn cô đi thu thập bốn món pháp khí, có thể góp một phần sức lực là tốt rồi!”
Tiểu Trúc thoáng lộ vẻ ngạc nhiên, đáp án này cô quả thực không thể nào ngờ được. Ngay đến Tất Phi cũng hết sức kinh ngạc, vội vàng cất lời khuyên nhủ: “Lục sư muội, tâm ý của muội bọn ta xin nhận, song tình trạng của muội không giống với ta. Muội là đại đệ tử của Độ Tội cốc, là niềm kiêu hãnh của toàn thể sư môn, nếu việc này bị lộ ra, chỉ e muội sẽ gặp phải rất nhiều bất lợi.”
“Tất sư huynh, huynh chẳng phải cũng từng là đại đệ tử của Xích Vân lâu đó ư?” Lục Linh hỏi ngược lại, sau đó liền nhướng đôi mày liễu, cười nói: “Từ nhỏ, sư phụ đã dạy ta, đại trượng phu có việc cần làm, có việc không nên làm. Hiện giờ đã có một con đường sáng để đối phó với Ứng Long, cố tình né tránh không phải là phong cách của ta. Cho dù có bị hiểu lầm thì cũng đã sao chứ? Lục Linh ta đây đi ngay, ngồi thẳng, không sợ bị người ta đàm tiếu! Hơn nữa, bây giờ ta tốt xấu gì cũng vẫn là đại sư tỷ của Độ Tội cốc, các môn các phải đều phải nể mặt ta mấy phần. Mục tiêu tiếp theo của các vị chính là Thập Phương điện đúng không? Nếu để ta ra mặt thăm dò trước, tìm xem Khuy Thiên phiên đang ở đâu, mọi việc chắc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, còn giảm được số lượng thương vong nữa.”
Nghe thấy những lời này, Tiểu Trúc bất giác nhìn đối phương bằng con mắt khác, liền vỗ tay nói: “Ha ha! Lục tỷ tỷ, không giấu gì tỷ, ta trước đây ghét tỷ vô cùng, ai bảo tỷ dám ra tay với sư phụ của ta chứ! Bây giờ nhìn lại, hóa ra tỷ cũng là người tính tình sảng khoái, ta rất thích!”
Lục Linh cười vui vẻ, nói: “Trước đây, ta cũng nghĩ muội là một tiểu yêu nữ câu kết với yêu ma, không biết phân biệt phải trái! Chuyện trong quá khứ thôi đừng nhắc lại, tất thảy đều là vì lập trường khác biệt cả thôi. Bây giờ ta đã biết rồi, các vị dù là người hay là yêu thì cũng đều có tấm lòng rất tốt, vậy là đủ! Trọng điểm bây giờ là nhanh chóng thu thập đủ bốn món pháp khí, cứu Mặc Bạch tiên quân, sau đó đi tìm Vân Sinh kính.”
Nghe vậy, Tất Phi mỉm cười gật đầu. Quy Hải Minh vẫn mặt mày hờ hững, tựa như núi băng vạn năm, nhưng đôi mày nhíu chặt thì đã dãn ra phần nào, không còn nhăn nhó nữa. Thư sinh Tiểu Bạch phe phẩy chiếc quạt, ung dung nhìn hai vị cô nương tươi cười xóa bỏ hận thù, trông bộ dạng vừa nhàn nhã vừa mong chờ, cứ như đang nói: “Sắp có kịch hay để xem rồi.”
Kế đó, mọi người lại thảo luận một phen, cuối cùng quyết định trước tiên sẽ dùng Càn Khôn đỉnh luyện chế Xuân Huy thảo thành thuốc, giúp giải mối nguy trước mắt cho Ngôn Nhược Thi, qua đó lấy Định Hồn châu về. Sau khi thư sinh Tiểu Bạch dựa theo phương thuốc cổ mà luyện chế thành công, Quy Hải Minh liền hóa thành bản thể Minh Xà, ngày đi ngàn dặm, đưa mọi người tới núi Đoạn Vân. Vì không muốn quấy quả Ngôn Nhược Thi, khiến cô nhớ lại cái chết của Tiêu Hành Chi, mấy người Quy Hải Minh, Tiểu Trúc, Tất Phi và Tiểu Bạch đều ở lại chờ đợi, chỉ để một mình Lục Linh đi gặp mặt.
Sau khoảng nửa canh giờ, Lục Linh quay lại hội họp với mọi người. Vị nữ hiệp võ nghệ hơn người, tính tình hào sảng ấy lúc này lại đỏ hoe hai mắt, chậm rãi bước đi trên con đường núi. Nhìn thấy bộ dạng này của nàng, Tiểu Trúc vội vàng bước tới dò hỏi: “Lục tỷ tỷ, sao vậy? Ngôn tỷ tỷ… thế nào rồi?”
“Muội ấy… rất ổn.” Lục Linh hơi ngẩn ra, sau đó liền thở dài một tiếng. “Nhược Thi muội tử rất kiên cường. Muội ấy nói với ta, muội ấy sẽ không cả ngày thương cảm, tự oán tự than. Muội ấy sẽ cố gắng sống một cách vui vẻ, như vậy mới có thể sinh ra một đứa bé khỏe mạnh. Sau đó, muội ấy sẽ nuôi dạy đứa bé lớn lên thành người, đúng như mong ước của Tiêu Hành Chi…”
Nói tới đây, khóe mắt Lục Linh càng đỏ hơn. Tiểu Trúc cũng cảm thấy phiền muộn vô cùng, nghĩ tới tâm trạng của Ngôn Nhược Thi khi nói ra những lời này, trái tim nàng bất giác trở nên nặng như đeo đá, gần như không thể thở nổi.
Chỉ nghe Lục Linh khàn giọng nói: “Ta sai rồi, ta đã quá sai rồi… Con người cũng thế, yêu linh cũng thế, sống ở trên đời, điều quan trọng nhất chẳng phải là có một người tri kỷ hay sao? Châu báu thời dễ kiếm, tình cảm mới khó tìm, hai người bọn họ chân thành đối đãi với nhau, vậy mà ta lại không nhìn ra, còn từng mắng muội ấy là bị yêu ma lừa gạt, ăn cháo đá bát, lại nói là nhất định phải trảm sát yêu nghiệt Tiêu Hành Chi… Giờ đây, Tiêu Hành Chi thật sự chết rồi, nhưng ta lại hối hận. Nếu ngày đó ta không cùng các đệ tử của Độ Tội cốc truy đuổi bọn họ, bọn họ có khi đã thoát khỏi kiếp nạn, không phải rơi vào cảnh âm dương xa cách như hiện nay…”
“Lục tỷ tỷ, đừng nói nữa!” Tiểu Trúc khẽ cất lời an ủi. “Chuyện này không liên quan gì tới tỷ, khi đó tuy tỷ dẫn người truy kích nhưng cũng đã nương tay với bọn họ rồi. Hơn nữa, chuyện này truy xét đến cùng thì vẫn là Ứng Long tôn giả gây ra tội ác, cho dù tỷ không xuất hiện thì hắn cũng chẳng buông tha cho Tiêu công tử đâu.”
Lục Linh hít sâu một hơi, nắm chặt cây trường kích trong tay, ưỡn thẳng lưng, gằn giọng nói: “Đúng vậy, món nợ này ta nhất định phải khiến Ứng Long nợ máu trả bằng máu! Đi thôi, Nhược Thi muội tử đã đưa Định Hồn châu cho ta rồi, bây giờ chúng ta sẽ tới Thập Phương điện để lấy trộm Khuy Thiên phiên!”
Nói xong, Quy Hải Minh lại một lần nữa hóa về nguyên hình, Minh Xà giương rộng bốn cánh che kín cả bầu không, dưới ánh mặt trời soi xuống phản chiếu ra những tia bạc lấp lánh. Khi mọi người lao vút vào trong tầng mây, cưỡi gió bay giữa trời, thư sinh Tiểu Bạch cúi đầu nhìn xuống ngọn núi Đoạn Vân cao tới tận mây kia, chậm rãi phe phẩy chiếc quạt xếp, đồng thời lớn tiếng ngâm vang, như thơ như nhạc: “Nhất tự tình chân, nhất ngữ tình thâm, nhất thế tình thành, nhất sinh tình vấn [*] .”
[*] Một chữ tình chân thật, một lời tình sâu sắc, một kiếp tình chân thành, một đời tình hỏi.
Dứt lời, y lấy từ trong ống tay áo ra cây sáo trúc, đưa tới bên miệng. Tiếng sao du dương nhanh chóng vang lên, mang theo mấy phần lưu luyến, mấy phần u sầu, vang vọng giữa vùng núi non, cuối cùng lan tỏa đi khắp bầu không vạn dặm.