Chương 14 Tâm ma
Khi Huyền Kỳ chân nhân đột ngột tấn công, mặt đất rung lên dữ dội, Quy Hải Minh lập tức vung thương cầm cắm vào khe nứt, đồng thời đưa tay chụp về phía Tiểu Trúc ở bên cạnh, chẳng ngờ lại chụp hụt. Y đang nhíu chặt đôi mày, trong lòng bàn tay bừng lên Minh Tiêu Chi Viêm, bỗng thấy bóng tối bao trùm tứ phía, sau chốc lát, thân thể y đã bắn ra khỏi hư không, rơi xuống một thôn nhỏ trong núi.
Mắt thấy mình sắp rơi từ trên cao xuống, Quy Hải Minh liền đề khí vung thương, nhanh chóng xoay người giữa hư không, cuối cùng nhẹ nhàng hạ xuống đất. Y trước tiên đưa mắt ngó quanh bốn phía, nhưng lại chẳng thấy bóng dáng Tiểu Trúc và những người khác đâu, sau khi ngưng thần nín thở, thôi thúc linh lực cũng vẫn không cảm nhận được sự tồn tại của bọn họ. Y bất giác mím chặt môi lại, nhướng đôi mày kiếm, lại một lần nữa quan sát cảnh tượng xung quanh.
Đưa mắt nhìn đi, chỉ thấy thôn nhỏ này hết sức hoang tàn, phòng ốc đổ nát, cỏ dại mọc đầy.Bốn phía đều tịch mịch không tiếng động, đừng nói là tiếng người, ngay cả tiếng chim hót hay côn trùng kêu cũng chẳng có. Quy Hải Minh đeo Bàn Long thương ra sau lưng, hóa về bản thể Minh Xà, vỗ cánh bay vút lên không trung, nào ngờ giữa bầu trời lại xuất hiện một bức tường ánh sáng. Minh Xà lao thẳng vào bức tường ấy, sau đó bị rơi xuống dưới, biến về hình người.
Cảnh tượng này Quy Hải Minh cũng từng nhìn thấy, đó là khi phải đối phó với kết giới của Cửu Hoàng Huyền Dực nơi Thiên Huyền môn. Cặp mắt lạnh băng thoáng qua một tia ảm đạm, y đang định phóng ra Minh Tiêu Chi Viêm lần nữa để phá hủy kết giới thì chính vào lúc này, chợt nghe có một tiếng khóc thút thít từ phía không xa vang lại:
“Cha... mẹ... cha mẹ đang ở đâu, đang ở đâu vậy...”
Tiếng khóc đó còn chưa hết vẻ non nớt, xem chừng là của một đứa trẻ con. Quy Hải Minh tạm thời kìm nén ý định đi tìm Tiểu Trúc và những người khác, lần theo hướng phát ra âm thanh, đi về hướng ngôi nhà ở phía tây. Chỉ thấy ngôi nhà đó đầy những vệt cháy đen thui, chiếc xà nhà bị đốt thành than rơi xuống đất, gãy lìa thành hai đoạn.Bàn ghế, đồ đạc trong nhà cũng bị thiêuđốt sạch sẽ trong ngọn lửa nóng, chỉ để lại một đống tro tàn. Còn đứa bé kia nhìn vóc dáng khoảng chừng tám, chín tuổi đang một mình nấp giữa đống đổ nát, vòng hai tay qua đầu gối, vùi mặt vào giữa hai chân, khóc đến nỗi toàn thân run rẩy, trông đáng thương vô cùng.
Nhìn thấy bóng lưng yếu ớt và cô độc của đứa bé đó, đôi mắt đen láy của Quy Hải Minh lại càng trở nên lạnh lùng, tựa như một đầm nước sâu không thấy đáy. Khóe mắt hơi chớp động, y hé môi, lạnh lùng nói:”Khóc thì có tác dụng gì?”
Giọng nói lạnh lùng của y phá tan sự tịch mịch của sơn thôn. Đứa bé đó toàn thân run rẩy, ngước khuôn mặt nhỏ bé bẩn thỉu lên. Chỉ thấy trên mặt nó dính đầy bụi than, nhưng vì vừa khóc nên từ nơi khóe mắt kéo dài ra hai hàng uốn lượn ngoằn ngoèo, trông rất lem luốc. Nó nhìn Quy Hải Minh bằng cặp mắt ngân ngấn lệ, thút thít hỏi: “Ông... ông là ai?”
Quy Hải Minh không hề trả lời câu hỏi của nó, chỉ lạnh lùng bảo: “Đã muốn tìm cha mẹ, vậy thì hãy đứng dậy mà ra ngoài tìm, trốn ở đây khóc lóc thì có tác dụng gì?”
Nghe thấy giọng điệu nghiêm khắc của đối phương, lại thêm ánh mắt lạnh lùng kia, đứa bé đó sợ hãi rụt bờ vai lại hai mắt và đầu mũi đỏ hoe, nhỏ giọng giải thích:”Nhưng, nhưng, cha mẹ bị đại yêu quái bắt đi rồi, ta... ta không biết bọn họ đang ở đâu...”
Ánh mắt lại càng trở nên ảm đạm, Quy Hải Minh liếc nhìn đứa bé đó, nhíu đôi mày kiếm, lạnh lùng nói: “Đãnhư vậy, ngươi cứ ở đây mà khóc, khóc đến khi cha mẹ ngươi bị yêu quái giết hại, tới lúc đó coi như khóc tang là được rồi.”
Câu nói đó khiến thân hình đứa bé cứng đờ, sau chốc lát, nó lắc đầu nguầy nguậy, chẳng khác nào một chiếc trống bỏi, dường như muốn xua những suy nghĩ đáng sợ kia ra khỏi đầu. “Không đâu, cha mẹ ta sẽ không có chuyện gì đâu, nhất định sẽ không có chuyện gì đâu!”
Thế nhưng, lần này, Quy Hải Minh không nói thêm gì nữa, thậm chí còn chẳng nhìn đứa bé đó thêm lần nào, xoay người đi luôn. Có điều, y vừa mới bước được hai bước, từ phía sau lưng đã vang lên những tiếng sột soạt. Quy Hải Minh nhướng mày, dừng chân lại, ngoảnh đầu nhìn về phía sau, thấy đứa bé đó đã gắng gượng đứng dậy.
Chắc vì khóc lâu quá, động tác của đứa bé trở nên lờ đờ. Nó đưa cánh tay nhỏ bé ra, dùng mu bàn tay dính đầy bụi bặm lau mạnh đôi mắt, mãi đến khi khuôn mặt trở nên nhem nhuốc mới thôi. Sau đó, nó bước đi mấy bước về phía Quy Hải Minh, đến khi tới sau lưng đối phương rồi thì bèn đưa tay tới, dường như muốn níu lấy góc áo của đối phương, nhưng lại rụt rè sợ hãi, không dám hành động gì thêm.
Quy Hải Minh không nói không rằng, đi tiếp về phía trước. Đứa bé đó cả kinh, chẳng chút nghĩ ngợi, vội vàng đưa tay tới, nắm chặt lấy vạt áo của đối phương, nhỏ giọng nói: “Thúc thúc, thúc thúc, thúc có biết động phủcủa Khổ Lung đại vương nằm ở nơi nào không? Cháu, cháu muốn đi cứu cha mẹ cháu.”
“Khổ Lung?” Quy Hải Minh nhướng mày, hỏi.
Đứa bé kia gật đầu một cái thật mạnh, rơm rớm nước mắt, đáp: “Hắn là yêu quái trong núi này, mỗi năm đều đến thôn, bắt người dân trong thôn nộp một cặp đồng nam đồng nữ. Năm nay đến lượt nhà cháu, mẹ cháu không đành lòng giao cháu ra, liền giấu cháu dưới hầm đất. Ai ngờ... ai ngờ... tên yêu quái đó lại phóng hỏa thiêu cháy nhà cháu, còn bắt cha mẹ cháu đi nữa...”
Nói đến câu cuối, đứa bé đó lại cúi rạp đầu xuống, nước mắt lã chã tuôn rơi. Nó hoang mang cắn chặt môi dưới, dùng sức hít mạnh mấy hơi, cố kìm nén không khóc nữa. Sau đó, nó lại ngẩng mặt lên, nhìn Quy Hải Minh bằng ánh mắt khẩn khoản, nói: “Thúc thúc, thúc biết võ công đúng không? Thúc hãy dạy cho cháu đi, cháu muốn cứu cha mẹ cháu, cháu nhất định phải cứu cha mẹ cháu!”
Lời của đứa bé vừa là lời khẩn cầu, nhưng đồng thời cũng là lời lẩm bẩm tự thuật. Nó nhìn quanh bốn phía, rồi nhặt một cây gậy trúc từ trên mặt đất lên, học theo bộ dạng của Quy Hải Minh, dùng cây gậy trúc đó làm trường thương, nắm chặt trong tay. Lúc này đây, cặp mắt nó vẫn hoe đỏ, nhưng ánh mắt thì đã không còn vẻ ngẩn ngơ thẫn thờ như trước nữa, dần dần trở nên kiên định.
Quy Hải Minh cụp mắt xuống, thu hết những động tác tuy non nớt nhưng kiên định của đứa bé chỉ cao ngang hông mình kia vào nơi đáy mắt. Khuôn mặt y xưa nay vẫn luôn lạnh tựa băng sương, lúc này lại mím chặt môi, vẻ như đang suy nghĩ. Sau chốc lát, y cầm Bàn Long thương trong tay, lạnh lùng cất tiếng hỏi: “Tên Khổ Lung đó vào thôn từ hướng nào? Ngươi dẫn đường đi!”
Đứa bé chỉ tay về hướng tây, sau đó co chân lên chạy, dường như đã dốc hết sức mình. Quy Hải Minh rảo bước đi theo, đưa tay chụp lấy cổ áo của đứa bé, cho nó ngồi lên vai mình. Đứa bé ngồi trên bờ vai vững chãi của y, chỉ hướng cho y đi ra khỏi cái thôn nhỏ. Trên đường, đứa bé nói mình tên là Tiểu Hải, mẫu thân là người hái thuốc trên núi, mà trên thực tế, đa số người dân trong thôn này đều sống bằng nghề hái thuốc hoặc bán thuốc. Còn cha của nó vốn là một nghệ nhân làm gốm sứ, chín năm trước vận chuyển đồ gốm sứ đi qua núi này, chẳng ngờ lại gặp cơn mưa lũ, sau khi bị trọng thương thì được mẹ của Tiểu Hải cứu mạng. Trong quãng thời gian ông ta dưỡng thương, hai người dần dần nảy sinh tình cảm, cuối cùng kết thành vợ chồng, sinh ra Tiểu Hải.
“Tay nghề của cha cháu lợi hại lắm!” Nói đến cha mình, Tiểu Hải tự hào ưỡn ngực, mặt mày rạng rỡ, nói: “Mỗi gia đình trong thôn đều dùng bát sứ mà cha cháu làm, loại bát đó vừa trắng vừa sáng, vừa đẹp vừa bền!”
Quy Hải Minh hờ hững “ừm” một tiếng, biểu hiện này hiển nhiên không thể khiến Tiểu Hải hài lòng. Thằng bé cúi người xuống, ghé sát tai Quy Hải Minh, khẽ hỏi: “Thúc thúc, nhà thúc làm nghề gì vậy? Cha thúc là giáo đầu dạy võ đúng không, chứ không sao thúc lại mang theo một cây trường thương thế này? Cha cháu nói, như thế này gọi là “con nối nghiệp cha”, chờ sau này cháu trưởng thành rồi, cha cháu cũng sẽ dạy cháu cách làm đồ gốm sứ.”
Nghe thấy câu này, thân hình Quy Hải Minh bất giác đờ ra, đột nhiên dừng bước. Hơn mười năm nay, y chưa lúc nào quên, khi xưa trong động phủ trên núi Thanh Xuyên, cha mẹ đã dạy y cách tụ linh vận khí, dạy y cách phun Minh Tiêu Chi Viêm, dạy y cách vỗ cánh để bay lên chín tầng trời, lại dạy y cách ngưng thần biến ảo, hóa thành hình người. Rồi còn cả tình cảnh lúc đệ tử Thiên Huyền môn vây công động phủ, cha y đã liều chết giao chiến, cuối cùng bị loạn kiếm xuyên tâm, mẹ y thì gắng sức bảo vệ y trốn chạy, trước khi đi còn lưu luyến hôn lên trán y...
Vô số cảnh tượng hỗn loạn không ngừng tràn đến trong đầu Quy Hải Minh, tựa như dời non lấp bể, khiến y sững người trong chốc lát, sắc mặt càng lạnh lùng hơn. Y ngấm ngầm nắm chặt bàn tay, cố kìm nén tâm trạng rối bời, sau đó lạnh giọng đáp lại một tiếng: “Đúng vậy!”
Dứt lời, y liền bước tiếp.Qua câu trả lời ngắn gọn của đối phương, dù còn ít tuổi nhưng Tiểu Hải cũng cảm nhận được sự khác thường.Nó hơi rụt vai lại, không dám mở miệng hỏi gì thêm.
Tải phi lợi nhuận bởi fb.eb00k.ngon.tinh.mien.phi
Sau chừng nửa canh giờ, hai người đi vào trong núi sâu, dần dần đặt chân vào một sơn cốc.Sơn cốc này sâu thẳm, bên trong nước chảy rì rào, sương mù lởn vởn.Trên những bậc thang đá, rêu xanh phủ đầy, khiến đường đi trơn trượt.Trong không khí ngợp đầy hơi nước, khiến cây cối xung quanh được tưới tắm xanh um. Những chiếc lá chuối vừa to vừa rộng nối liền với nhau thành một dải, gần như che khuất mặt trời, chỉ để cho mấy tia nắng len lỏi qua kẽ lá rọi xuống.
Phát hiện ra sự xao động của linh lực, Quy Hải Minh đưa tay túm lấy gáy áo Tiểu Hải, đặt thằng bé xuống đất. Sau đó, y nhướng đôi mày kiếm, lấy Bàn Long thương từ trên lưng xuống, vung thương đánh về phía hơi nước tụ lại nhiều nhất. Chỉ nghe “uỳnh” một tiếng, cái hốc cây lởn vởn đầy hơi nước bị Quy Hải Minh đánh vỡ tung, vụn gỗ bắn ra tung tóe, cành lá rung lên không ngừng, một hang ngầm tối thui lộ ra trước mặt.
“Đi theo ta!”
Quy Hải Minh ngoảnh đầu lại, lạnh lùng dặn dò đứa bé sau lưng. Tiểu Hải ngoan ngoãn gật đầu, đưa tay nắm chặt lấy vạt áo của Quy Hải Minh, đi theo bóng người cao gầy đó, bước từng bước vào trong hang ngầm tối thui tưởng chừng như không có điểm tận cùng. Quy Hải Minh lật bàn tay phải một cái, giữa lòng bàn tay liền xuất hiện một ngọn lửa màu xanh. Tiểu Hải ngạc nhiên mở to hai mắt, tò mò cất lời tán thán: “Thúc thúc, thúc làm thế nào vậy? Lợi hại quá!”
“Pháp thuật.”Quy Hải Minh trầm giọng trả lời. Chỉ thấy ngọn lửa đó không ngừng nhảy nhót trong lòng bàn tay y, ánh lửa chiếu ra soi rõ cảnh vật xung quanh. Hang động này uốn lượn kéo dài xuống dưới, bốn phía đều là đất bùn ẩm ướt, vừa đủ cho một người đi qua. Sau khi đi được một quãng đường dài, trước mặt bọn họ xuất hiện một bãi đất trống rộng rãi, chính giữa là một đầm lầy, trong đầm không ngừng có bọt khí nổi lên, cứ như đang sôi sùng sục.
Thấy nơi này tối tăm, mà đầm lầy kia lại quá ư quỷ dị, Tiểu Hải hơi rụt người lại, nấp vào phía sau Quy Hải Minh. Quy Hải Minh hơi nhíu đôi mày kiếm, giơ cao cánh tay, ném thẳng ngọn lửa Minh Tiêu Chi Viêm trong lòng bàn tay về phía đầm lầy. Lập tức, ngọn lửa nổ tung, khí đốt trên đầm lầy bắt lửa, nhanh chóng cháy bùng lên thành một mảng màu xanh lam.
Sau chốc lát, nước dưới đầm phát ra những tiếng “ùng ục, ùng ục”, bọt khí nổi lên càng lúc càng nhiều, sau đó từ giữa đầm trồi lên một cái đầu dính đầy bùn bẩn. Người đó nhảy vọt ra khỏi đầm lầy, bùn dính khắp toàn thân, lưng hơi còng, trong tay cầm một cặp chùy đồng. Chỉ nghe “choang” một tiếng, hắn đập cặp chùy đồng vào nhau, gằn giọng nói:
“Rốt cuộc là tên khốn kiếp không có mắt nào dám đến địa bàn của Khổ Lung gia gia gây sự? Muốn chết à?Ộp!”
“Cái gì mà Khổ Lung chứ, chẳng qua chỉ là một con cóc ghẻ mà thôi.” Quy Hải Minh đưa mắt liếc qua, lạnh lùng nói: “Nếu không muốn bị xẻ thành tám mảnh, hãy lập tức giao cha mẹ Tiểu Hải ra đây!”
“Ộp! Thằng ranh con láo toét, khẩu khí lớn thật!”
Tên Khổ Lung đại vương đó giận dữ nhổ “phì” một cái, đạp mạnh hai chân, cả người nhảy vọt lên cao, đồng thời giơ cặp chùy đồng, dùng cái thế Thái Sơn áp đỉnh đánh thẳng về phía Quy Hải Minh.
Quy Hải Minh gạt nhẹ tay trái, đẩy Tiểu Hải sang một bên, đồng thời vung Bàn Long thương trong tay về phía trước, phun Minh Tiêu Chi Viêm ra từ lòng bàn tay, ngọn lửa tức thì quấn quanh cây trường thương màu bạc. Chỉ thấy y gảy thương một cái, một con rồng lửa liền bay ra, đánh thẳng về phía mặt Khổ Lung.
“Úi mẹ ơi!” Khổ Lung cả kinh, vội vàng khép hai tay lại, chuyển công thành thủ, dùng cặp chùy đồng che mặt.
Vừa tiếp xúc với Minh Tiêu Chi Viêm, cặp chùy đồng đã bị đốt thành tro bụi, chỉ còn hai hai cái cán dài mà Khổ Lung cầm trong tay. Thấy thế Khổ Lung kinh hãi vô cùng, vội vàng lùi ra sau ba bước, chẳng còn bộ dạng kiêu căng trước đó nữa.Hắn chớp chớp cặp mắt to, nhìn chằm chằm vào Quy Hải Minh, cứ như gặp ma vậy.
Chỉ một chiêu đã phân thắng bại, Quy Hải Minh liền đưa tay phải tới, chĩa mũi thương vào yết hầu Khổ Lung, lạnh lùng nói: “Khai mau, người đang ở đâu?”
Đối mặt với mũi thương bén nhọn đó, Khổ Lung sợ đến nỗi hai chân run lẩy bẩy, quỳ sụp xuống đất, ra sứckhấu đầu với Quy Hải Minh, run giọng trả lời: “Thưa đại hiệp, tiểu nhân thật sự không biết ngài đang nói gì!”
Quy Hải Minh nhướng đôi mày kiếm, bất giác nhủ thầm: Nhìn thái độ của tên cóc ghẻ này thì không giống như giả bộ. Hơn nữa, chỉ dựa vào chút bản lĩnh què quặt này cùng lá gan chuột nhắt của hắn thì cũng không giống như loại người ác có thể làm ra chuyện phóng hỏa giết người...
“Thúc thúc, ở đây này!”
Khi Quy Hải Minh đang cảm thấy có sự lạ thường, Tiểu Hải chợt cất tiếng hô lớn. Quy Hải Minh nhìn theo hướng phát ra âm thanh, thấy Tiểu Hải đang đứng bên bờ đầm, chỉ tay về phía màn sương mù. Chỉ thấy giữa hơi sương mờ mịt, loáng thoáng có thể nhìn thấy mấy bóng người đang đứng giữa đầm.
Quy Hải Minh vung tay trái lên, phóng ra linh lực, mấy người đó liền thoát ra khỏi đầm lầy, bay thẳng đến bên bờ đầm, nhẹ nhàng hạ xuống đất. Bọn họ ai nấy đều toàn thân dính đầy bùn đất, cả mặt mũi và quần áo cũng bị che kín, thành ra không thể phân biệt được nam nữ, chỉ có thể nhìn ra vóc người cao thấp. Tiểu Hải vội vàng chạy tới, dùng tay áo lau khuôn mặt của một người bùn, miệng lẩm bẩm nói: “Cha, mẹ, cha mẹ không được có chuyện gì đấy nhé!”
Nhìn thấy tình cảnh này, trong mắt Quy Hải Minh thoáng qua một tia ảm đạm, mũi ngân thương trong tayđâm thẳng tới cổ họng của Khổ Lung. Chỉ nghe y lạnh giọng nói: “Hay cho tên cóc ghẻ ngươi, thật giỏi diễn kịch!”
“Đại hiệp tha mạng, đại hiệp tha mạng!” Khổ Lung vội vàng đưa tay lên ngăn cản mũi thương, ngay cả khi bị đâm xuyên qua bàn tay, hắn cũng chẳng kịp kêu đau, chỉ biết vội vàng giải thích: “Xin đại hiệp minh giám! Tiểu nhân thật sự chưa từng bắt người, mấy thứ kia đều chỉ là người sứ mà nghệ nhân trong thôn làm cho tiểu nhân! Tiểu nhân, tiểu nhân chẳng qua chỉ muốn có thứ gì đó bầu bạn với mình mà thôi!”
Lời của Khổ Lung vừa dứt, Tiểu Hải đã chợt kêu lên kinh hãi. Quy Hải Minh đưa mắt liếc qua, thấy đứa bé đã lau xong bùn đất trên mặt của một người bùn, làm lộ ra một khuôn mặt trắng bóng, cứng đờ, rõ ràng được làm bằng sứ.
Tiểu Hải kinh hãi ngồi bệt xuống đất, ngẩn ngơ há miệng, nhưng lại chẳng nói được một tiếng nào.Phút chốc sau đó, nó đột ngột đứng dậy, nhào về phía Khổ Lung, không ngừng đánh mạnh lên người đối phương.
“Ngươi! Tại ngươi! Chính tên yêu quái ngươi đã biến cha mẹ ta thành người sứ! Mau trả cha mẹ ta lại đây! Trả đây!”
Vì kiêng dè sự có mặt của Quy Hải Minh, Khổ Lung không tiện phát tác, đành để mặc cho đứa bé đó đánh mình. Hắn đưa tay lên che mặt, vừa kêu “ộp ộp” vừa nói: “Này này, đánh người chớ có đánh vào mặt!Ộp! Nhóc con, ta thật sự không bắt cha mẹ ngươi, ngay cảcha mẹ ngươi là ai ta cũng không biết... A, chờ đã! Ta nhớ ra rồi, ngươi chính là con nhà lão Thái chuyên làm gốm sứ, đúng không?”
Nghe thấy câu này, Quy Hải Minh đưa tay chụp lấy gáy áo Tiểu Hải, kéo thằng bé đang phẫn nộ ra khỏi người Khổ Lung. Y nheo cặp mắt lại, nhìn chằm chằm vào Khổ Lung, lạnh lùng nói: “Chuyện rốt cuộc là như thế nào? Mau nói rõ ta nghe!”
“Dạ, dạ, đại hiệp minh giám, tiểu nhân nói ngay đây, nói ngay đây.” Khổ Lung vội vàng gật đầu lia lịa, sau đó nói rõ ngọn ngành: “Lão Thái này là một nghệ nhân nổi tiếng trong thôn, đồ gốm sứ làm ra đều là hạng nhất. Mỗi tháng tiểu nhân đều đến nhà y mua người sứ một lần, cho nên đã từng nhìn thấy đứa bé này...”
“Ngươi nói dối!”Tiểu Hải cắt ngang lời Khổ Lung, căm phẫn nói: “Cha ta xưa nay chỉ làm bát, làm bình, làm vỏ ta chưa từng thấy cha làm người sứ bao giờ!”
Khổ Lung lập tức xịu mặt xuống, nhăn nhó nói: “Nhóc con, ngươi ăn nói phải có lương tâm một chút chứ! Sao ngươi lại không biết cha ngươi có làm người sứ hả? Có một lần, ta đi mua người sứ, ngươi còn ngồi bên cạnh lò nung của cha ngươi, nhất định đòi ông ta dạy cách nặn người sứ cơ mà! Ta đã gặp ngươi trong lần đó đấy, có điều ngươi thấy ta trán rộng, mắt to, nói ta không giống người tốt, còn sợ đến phát khóc nữa.”
Tiểu Hải há miệng ra nhưng lại chẳng nói được lời nào. Nó mở to hai mắt, dường như nhớ lại chuyện gì đó, nhưng rồi lại hoang mang lắc đầu, trong mắt lộ vẻ ngẩn ngơ.
Chỉ nghe Khổ Lung nói tiếp: “Nói ra thì xấu hổ, tiểu nhân quả thực cũng từng nảy ra suy nghĩ hồ đồ, muốn vào trong thôn bắt người... Ối ối, đại hiệp, ngài đừng nổi nóng mà, tiểu nhân không định làm chuyện gì xấu đâu! Tiểu nhân, tiểu nhân thực sự trời sinh nhiều lời, chỉ muốn tìm một người để trò chuyện thôi.Nhưng tiểu nhân có bộ dạng thế này, đừng nói là các vị cô nương, ngay đến đám hán tử nhìn thấy tiểu nhân cũng đều chê ghét. Bọn họ nói tiểu nhân đầu to, nói hai mắt tiểu nhân cách nhau xa quá, nói tiểu nhân...”
“Nói vào trọng điểm đi!”Quy Hải Minh lạnh lùng cắt ngang.
“Dạ dạ, không nói tiểu nhân nữa, không nói tiểu nhân nữa.” Khổ Lung vội vàng vâng lời, rồi lại nói tiếp: “Tóm lại, bọn họ đều chê tiểu nhân xấu xí. Trong cơn giận dữ, tiểu nhân đã xông vào trong thôn, còn nói rằng mỗi tháng bọn họ phải phái ra một người đến nói chuyện với tiểu nhân. Đó hình như là việc từ ba năm trước rồi, lúc ấy, người trong thôn đều rất sợ hãi, cuối cùng chính lão Thái đứng ra đầu tiên, nói là sẵn lòng trò chuyện với tiểu nhân. Tiểu nhân liền đưa ông ấy tới nơi này, sau đó bắt đầu than thở với ông ấy, nói rằng việc tu luyện nhàm chán, tiểu nhân chẳng có ai để tâm sự. Lão Thái nghe hết không sót một lời, sau đó còn an ủi tiểu nhân, nói rằng thế mới là tu hành, không có ainói chuyện cùng, với tiểu nhân thực ra là chuyện tốt. Bằng không, một ngày nào đó, tiểu nhân mà làm bạn với ai rồi, chờ đến trăm năm sau, tiểu nhân vẫn còn sống, nhưng người đó thì đã chết, khi đó tiểu nhân lại chẳng buồn lắm ư...”
Khổ Lung dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Lão Thái nói rất có lý, tiểu nhân nghe xong, ngẫm lại thấy cũng phải, liền hỏi ông ấy xem có cách giải quyết nào không. Ông ấy nói, sau này mỗi tháng sẽ làm cho tiểu nhân một ít người sứ thật đẹp để tiểu nhân bày trong hang động, như thế chúng sẽ có thể bầu bạn bên tiểu nhân mỗi ngày, lại không phải lo gì về sinh lão bệnh tử. Thế là tiểu nhân chưa từng bắt người lần nào, chỉ đến nhà lão Thái vào đầu mỗi tháng để lấy người sứ, nhân tiện trò chuyện với ông ấy một chút...”
Nói tới đây, Khổ Lung thở dài một tiếng, khuôn mặt lại càng nhăn nhó: “Ôi, lão Thái nói thật không sai, chuyện sinh tử của người phàm thật mong manh quá đỗi. Ộp, có ai mà đoán được, nhà họ đang yên đang lành, thế mà tự dưng lại xảy ra hỏa hoạn, cả lão Thái và vợ ông ấy đều không thể thoát ra ngoài...”
“Ngươi nói bậy! Ngươi nói bậy!” Tiểu Hải bịt chặt hai tai, ra sức lắc đầu. “Ta không nghe! Ta không nghe! Cha mẹ ta đâu có bị thiêu chết, chính ngươi đã bắt bọn họ đi! Ngươi là yêu quái xấu, chính ngươi đã biến bọn họ thành người sứ, còn bịa ra câu chuyện này để gạt ta!”
Khổ Lung vò đầu bứt tai, nôn nóng nói: “Cái thằng nhóc này, sao việc cha mẹ mình chết như thế nào mà ngươi cũng không nhớ được thế? Ta, ta, ta thật sự không bắt cha mẹ ngươi! Ộp! A, phải rồi, nếu ngươi không tin, vậy hãy đi xem lòng bàn chân của những người sứ kia đi, dấu lạc khoản của cha ngươi khi nung gốm vẫn còn ở đó đây!”
Tiểu Hải ôm chặt đầu, nửa ngồi nửa quỳ trên mặt đất, chẳng hề nhúc nhích. Thấy vậy, Quy Hải Minh liền bước tới bên cạnh một người sứ, đưa tay đẩy nhẹ, người sứ đó liền đổ xuống đất và vỡ tan thành mấy mảnh, nơi lòng bàn chân quả nhiên có một dấu lạc khoản màu xanh, bên trên có viết ba chữ: “Thái Đại Hải”.
Nhìn thấy dấu lạc khoản đó, Tiểu Hải đột nhiên sững người, sau nháy mắt thân hình đã cứng đơ như tượng gỗ. Đứa bé đó ngẩn ngơ nhìn người sứ đã vỡ vụn kia, trong đầu bỗng hiện lên rất nhiều cảnh tượng vừa quen thuộc vừa xa lạ.
Bên lò nung nóng bỏng, cha nó lưng đẫm mồ hôi, đang tập trung làm việc.Nó thường nấp ở ngoài cửa nhìn các động tác của cha, một mặt học lén, một mặt lập lời thề rằng sau này mình đến lấy người sứ, còn vui vẻ trò chuyện với cha mình. Buổi tối hôm đó, tranh thủ lúc cha mẹ ngủ say, nó một mình chạy đến lò nung, dùng đất sét nặn ra một chiếc bát nhỏ, sau đó học theo cha đốt lửa nung gốm, những tia lửa lại bắn ra ngoài, đốt cháy chiếc giá gỗ đặt đầy bình vại. Nó hoang mang chạy ra ngoài, muốn đi gọi cha mẹ thức giấc, nhưng lửa cháy nhanh quá, khói bốc ra mù mịt, làm nó không phân biệt được đông tây nam bắc, không thể tìm thấy phòng của cha mẹ...
“Hóa ra, là ta... là ta đã hại chết cha mẹ...” Tiểu Hải lẩm bẩm nói, hai mắt đờ đẫn vô thần, ngẩn ngơ nhìn những mảnh sứ vỡ trước mặt. “Là ta... Ta muốn học theo cha, ta muốn làm ra một chiếc bát sứ thật đẹp, ta đâu có ngờ lửa lại bắn ra như thế đâu có ngờ lửa lại làm cháy nhà như thế...”
Khổ Lung trợn mắt há mồm, mãi một hồi lâu sau mới thở dài, nói: “Ộp! Hóa ra chính thằng nhóc ngươi đã hại chết lão Thái! Ộp, thế mà ngươi còn đổ tội lên đầu ta, nói ta đã bắt cha mẹ ngươi.Được lắm, được lắm, rốt cuộc ai mới là kẻ lừa đảo đây?Ộp!”
Tiểu Hải đưa hai tay lên ôm chặt đầu, đau khổ nói: “Ta... ta thật sự không nhớ gì nữa rồi... Ta chỉ nhớ yêu quái đã đến nhà ta, bắt cha mẹ ta đi, còn bắt rất nhiều đứa bé khác nữa... Rốt cuộc chuyện nào... rốt cuộc chuyện nào mới là thật...”
Mãi đến lúc này, Quy Hải Minh mới hiểu ra tại sao trước đó lại có nhiều điểm đáng ngờ và lạ thường như vậy. Nếu thật sự như lời Tiểu Hải nói, Khổ Lung đòi người dân trong thôn giao ra đồng nam đồng nữ, cớ gì mọi người không bỏ trốn khỏi thôn, tìm nơi khác sống? Hơn nữa, nếu Khổ Lung thật sự thích trẻ con, tại saokhông bắt Tiểu Hải mà đi bắt cha mẹ nó làm gì?Hóa ra, tất cả những chuyện này đều chỉ là sự tưởng tượng của Tiểu Hải mà thôi. Đứa bé này một lòng muốn học bản lĩnh làm đồ gốm sứ của cha, bèn lén lút đi thử, nhưng lại không cẩn thận làm cháy nhà, khiến song thân bỏ mạng trong biển lửa. Do mới chỉ là một đứa bé chín tuổi, nó không thể chấp nhận sự thật tàn khốc này, liền bất tri bất giác phong tỏa phần ký ức chân thật lại, sau đó tưởng tượng ra câu chuyện “yêu quái Khổ Lung đã bắt cha mẹ, mình đi”.
Nhìn thấy bộ dạng đau khổ và tự trách của Tiểu Hải, cặp mắt Quy Hải Minh hơi lóe sáng, cuối cùng, y lẳng lặng cụp mắt xuống, không đành lòng nhìn đứa bé đó phủ phục xuống đất, gào khóc thảm thương.
Đột nhiên, Tiểu Hải đưa tay chụp một mảnh sứ vỡ, nắm chặt vào lòng bàn tay, lật tay định đâm thẳng vào trái tim mình. Phát hiện ra động tác của nó, Quy Hải Minh lao vọt tới, sau nháy mắt đã ở bên cạnh Tiểu Hải, lại vung tay chặt vào cổ tay đứa bé, đánh rơi mảnh sứ trong tay nó. Chỉ nghe Tiểu Hải khóc nức nở, nói: “Thúc thúc, thúc đừng cứu cháu làm gì! Chính cháu đã hại chết cha mẹ, cháu không còn mặt mũi nào sống trên đời này nữa, cháu... Thúc hãy để cháu chết đi!”
“Chết?” Trong mắt thoáng qua một tia ảm đạm, Quy Hải Minh cất giọng lạnh tựa băng sương. “Một chữ chết đó thật đơn giản biết chừng nào. Ngươi nói ngươi không còn mặt mũi nào sống trên đời nữa, vậy ta hỏi ngươi,ngươi có còn mặt mũi xuống suối vàng gặp lại cha mẹ ngươi không? Đúng thế ngươi đã vô tình hại chết cha mẹ ngươi, cũng đã đau khổ và tự trách, vậy thì bây giờ ngươi phải chịu đựng nỗi đau khổ này, nhớ lấy nỗi đau khổ này, đồng thời cố gắng sống tiếp và làm nên một phen sự nghiệp, từ đó rửa sạch tội lỗi! Tới lúc đó, ngươi mới có mặt mũi mà đi gặp cha mẹ mình rồi sám hối với bọn họ, cầu xin bọn họ tha thứ! Còn nếu như ngươi chỉ một lòng tìm đến cái chết, vậy thì rõ là đớn hèn, chẳng có tác dụng gì cả!”
Lời của Quy Hải Minh, từng câu từng chữ đều rành rọt rõ ràng. Sau nháy mắt, đầm lầy, hang động, ngay cả Khổ Lung đại vương đều biến thành những đốm sáng màu xanh lam tan đi giữa hư không. Còn đứa bé Tiểu Hải đang quỳ dưới đất khóc lóc kia lại được ánh sáng bao bọc, dần dần biến thành một thiếu niên.
Thiếu niên đó đứng thẳng người dậy, ngũ quan lộ rõ vẻ tuấn tú, tuy còn chưa hết nét non nớt nhưng mày rậm mắt to, trên khuôn mặt thấp thoáng toát ra vẻ oai hùng khí khái. Cặp mắt màu đen của y cứ như được làm từ bảo thạch, long lanh phát sáng, còn mái tóc dài quá hông thì có màu trắng bạc, trông tựa ánh trăng, lại giống như một mảng tuyết dày giữa đêm đông giá lạnh.
“...”Quy Hải Minh nhất thời nghẹn họng. Tướng mạo cùng mặt mũi của người này rõ ràng chính là y thời niên thiếu.
Thiếu niên Quy Hải Minh khẽ gật đầu với y. Đôi môi y thường ngày vốn luôn mím chặt, lúc này lại hơi nhếch lên, để lộ mấy nét cười trên khuôn mặt bấy lâu nay vẫn lạnh lùng như núi băng vạn năm không đổi. Sau nụ cười ấy, ánh sáng bỗng bừng lên, bóng hình thiếu niên kia biến thành những đốm sáng màu xanh lam tỏa đi tứ phía, soi sáng cả hư không...