Chương 6
Hải Cẩu đứng bên cửa sổ của một tầng lầu cao nhìn ra bao quát chung quanh.
Nó được đưa tới ngôi nhà này đã hai ngày vào một buổi tối khuya trên một chiêc xe bịt kín. Đi cùng nó có hai người: một thanh niên khỏe mạnh, nở nang, gương mặt tươi vui, sôi nổi và một người cũng còn khá trẻ, có gương mặt cứng cỏi với một đôi mắt to sáng, thông minh. Hai người đưa Hải Cẩu tới ngôi nhà này, giao nó cho ba người trẻ tuổi khác, rồi dặn nó cứ ở đây, thoái mái và tự nhiên. Khi nào cần sẽ tới gọi. Có thể một hoặc hai ngày nữa. Rồi họ ra đi. Những người trẻ tuổi ở nhà này đã đưa Hải Cẩu vào một căn phòng nhỏ ở trên lầu. Căn phòng khá xinh, có một chiếc giường cá nhân với mùng, chăn gối tử tế. Thêm một chiếc bàn nhỏ trên có mấy chiếc cốc nhựa, và một bình nước cũng bằng nhựa cùng một số sách báo. Trên tường là hai bức tranh phong cảnh. Mấy người trẻ tuổi nọ ngủ ở hai phòng kê hai bên. Đi đường khá xa, và tới khuya, nên mệt, Hải Cẩu đi ngủ liền. Sáng hôm sau trở dậy, khi làm xong mọi việc vệ sinh buổi sáng, được gọi đi ăn sáng, nó không ngờ được ngồi ăn cùng bàn với chính những người đang là chủ ngôi nhà này mà nó cũng hiểu được rằng đó là những người có nhiệm vụ canh giữ nó. Tới bữa trưa, rồi bữa chiều cũng vậy, có nghĩa là họ ăn và ở thế nào nó cũng được y như thế.
Hôm nay là ngày thứ hai. Hai người đưa nó tới đây vẫn chưa thấy trở lại. Hết sức nhàn rỗi, Hải Cẩu lại ra cửa sổ ngắm nhìn phong cảnh chung quanh. Nó nhận ra đây là thành phố Z quen thuộc với cái tháp chuông nhà thờ cao vút, cùng cái tháp ăng-ten viễn thông của đài phát thanh thành phố. Ngoài ra là những đường phố có rất nhiều cây xanh và mấy cây cầu nhỏ khá đẹp. Nó đã nhận ra đây, vì hồi đầu thập kỷ 70, (dạo đó chưa làm việc cho CIA, hãy còn lang thang, thất nghiệp) nó đã có lần tới thành phố này thăm một thằng bạn cũ. Cũng không ngờ nó đã trở lại thành phố này trong hoàn cảnh và thân phận như thế này…
Sau bữa cơm chiều, khi thành phố đã lên đèn được một lúc, hai người bữa nọ đột ngột trở lại. Hải Cẩu vừa mừng mừng, vừa sợ hãi.
– Sửa soạn! Ta đi nghe!
Hai người đưa Hải Cẩu vào một căn phòng nhỏ của một tiệm cà phê, có lẽ là phòng ngủ riêng của chủ tiệm nên có vẻ kín đáo, ấm cúng với tiện nghi tương đối đầy đủ. Phòng được ngăn cách với phòng lớn ở ngoài bằng một bức tường nhưng không phải tường gạch mà là vách gỗ dán.
Ba người cùng ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ kê sát bức tường gỗ dán ấy. Chỉ một phút sau, một cô gái dịu dàng và lễ phép đem vào ba ly cà phê và một gói thuốc thơm.
– Anh uống và hút đi!
– Dạ, xin cảm ơn! – Hải Cẩu lí nhí nói.
Ba người cùng im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Thấy sự im lặng có vẻ nặng nề, khó chịu. Hải Cẩu lắm lúc muốn thốt lên một lời nào đó, nhưng nó đã được dặn: vô tiệm không được nói một lời nào hết.
Người có cặp mắt to sáng ngồi đối diện với Hải Cẩu chợt nhẹ nhàng vươn tay lên, gỡ bỏ bức tranh treo trên vách gỗ xuống. Một khe hở nho nhỏ hiện ra giữa hai tấm ván ghép. Người đó hất hàm ra hiệu cho Hải Cẩu. Tên này vội đứng dậy, khom lưng, ghé sát mắt vào khe hở nhìn ra…
Rồi nó quay lại, nhìn người vừa ra hiệu cho nó. Người đó hất hàm tiếp lần thứ hai. Hải Cẩu đẩy nhẹ ghế, rồi thong thả bước ra phòng ngoài. Nó nhìn bao quanh một lượt, đoạn tiến lại phía chiếc bàn ở góc phòng, nơi có một người khách đang ngồi im lặng nhấp nháp cà phê.
Nó nhẹ nhàng kéo chiếc ghế bỏ không và ngồi xuống. Người khách đang uống cà phê vội nói:
– Ấy, xin lỗi, chỗ này đã có người.
Hải Cẩu đáp:
– Không sao! Tôi chỉ tới xin ông làm ơn cho chút lửa!
Ông khách rút chiếc bật lửa đưa cho Hải Cẩu. Nó đốt một điếu thuốc, nhả hơi khoan khoái, rồi đưa trả lại chiếc bật lửa, nói tiếp:
– Cảm ơn ông. Nhưng xin lỗi, tôi thấy ông hình như có bệnh gan và mật. Da ông tái, mắt ông vàng. Tôi có thuốc gia truyền đặc trị của dòng họ Phan. Ông có muốn dùng, tôi sẽ giúp. Tôi không lấy tiền. Tôi chỉ làm phước cho thiên hạ.
Người khách uống cà phê thốt nhiên giật mình tròn mắt. Ông ngồi ngẩn ra, hai mắt càng mở trừng trừng, nhìn như thiêu như đốt vào mặt Hải Cẩu. Nó mỉm cười nhắc lại:
– Ông hình như có bệnh gan và mật. Da ông tái, mắt ông vàng. Tôi có thuốc gia truyền đặc trị của dòng họ Phan. Tôi sẽ giúp ông. Tôi không lấy tiền. Tôi chỉ làm phước cho thiên hạ.
Tới lúc ấy ông khách uống cà phê mới mở được miệng lí nhí rủn rẩy và hấp tấp đáp lại:
– Phải, tôi có lẽ bị đau gan, đau mật. Lại nghĩ có thể ung thư máu và lao phổi nữa. Nếu đúng có thuốc gia truyền đặc trị của dòng họ Phan, giúp tôi với. Khỏi, tôi sẽ xin tạ ơn bằng hạt xoàn.
– Vậy, tối mai vào giờ này, ông tới đây, tôi sẽ mời ông về nhà tôi để lấy thuốc.
– Dạ, tối mai tôi sẽ tới!
– Ông y hẹn đấy nhé! Dòng họ Phan chúng tôi không sai hẹn với ai bao giờ!
Nói đoạn, Hải Cẩu đẩy ghế đứng dậy, đi ra cửa. Ngoài đó, có những người trẻ tuổi chủ của ngôi nhà nó đang ở không rõ đã tới đấy từ bao giờ và ngồi chờ ở đâu, đột ngột cùng xuất hiện và đưa nó trở về nhà.
Khi bước vào trong phòng, Hải Cẩu lại một lần nữa ngạc nhiên. Hai người đưa nó đi lúc nãy không rõ đã ra khỏi tiệm cà phê từ lúc nào, bằng đường nào, và đã trở về đây bằng phương tiện gì. Người có cặp mắt to sáng, mỉm cười thong thả bảo nó:
– Tốt! Anh đã thực hiện hoàn hảo mọi việc.
Người trẻ tuổi hơn có vẻ vui bốc hơn, cất tiếng hỏi đầy khí thế:
– Anh thấy không? Chẳng cần cái lão chủ quán Tuổi Mộng nào của anh, chúng tôi đã chỉ giùm cho anh đúng người mà anh cần gặp.
Hải Cẩu cũng khúm núm, cười theo:
– Dạ! Thú thiệt, tôi cũng hoàn toàn không thể ngờ công chuyện của tôi lại xoay chuyển như thế này…
– … Một cách thú vị, phải không? – Người trẻ tuổi lại cao hứng đế thêm.
– Dạ, thưa đúng là thú vị và lạ lùng…
Tối hôm sau, khi thành phố đã lên đèn một lúc, khách đi chơi tối cũng bắt đầu đổ ra các nẻo đường, thì ông khách uống cà phê tối trước cũng đã y hẹn tìm đến cái quán cà phê mới mở nọ.
Ánh đèn mờ ảo. Nhạc mơ buồn. Không khí đầy mùi cà phê rang bơ quyến rũ. Khách đã loáng thoáng một vài người đang chụm đầu quanh những chiếc bàn nhỏ.
Ông khách mới tới gật đầu chào. Người khách ngồi đợi khá vạm vỡ, da ngăm đen. Người có thuốc gia truyền đặc trị của dòng họ Phan cũng mỉm cười chào đáp lại.
Hai người ngồi gần sát nhau như đôi bạn cũ đã quen biết từ lâu.
– Ông rất đúng hẹn. Ta uống xong sẽ cùng về nhà tôi. Thuốc tôi để ở nhà.
– Dạ, được.
Hai tách cà phê được bưng ra. Hai người cùng im lặng nhấm nháp thứ nước đen nâu quyến rũ ấy và đốt thuốc lá. Họ không có chuyện gì để nói. Thật ra họ cũng không biết nói chuyện gì với nhau lúc này và ở chỗ này.
Lát sau khi cùng nhấp chút nước trà tráng miệng, người họ Phan đứng dậy:
– Ông khỏi phải trả tiền. Để tôi trả!
– Cảm ơn.
Rồi hai người cùng quay ra, đi về phía cuối phố. Họ rẽ sang một đường nhỏ hơn, vắng hơn. Rồi họ lại rẽ sang một đường phố khác nữa. Cuối cùng cả hai đi tới một công viên khá lớn ở gần một cây cầu. Trong công viên có nhiều ghế cho khách ngồi. Đã có một số cặp thanh niên nam nữ yêu nhau và một số gia đình đưa trẻ nhỏ vào chời. Công viên khá đẹp. Đèn chỗ sáng, chỗ tối. Không gian thật huyền ảo, dễ chịu.
Chiếc ghế mà hai người cùng chọn là nơi rất ít ai tò mò dòm ngó tới. Khi cùng ngồi xuống, cả hai lại đốt thuốc hút, đúng như những người nhàn rỗi, thoải mái.
Nhưng rồi đã tới lúc Hải Cẩu lên tiếng trước:
– Ông bạn ạ, tôi sẽ đưa “thuốc” cho ông. Nhưng tôi cho ông coi cái này đã. Hay lắm nhá. Liệu ông có thể kiếm được một cái như của tôi không?
– Ông… cứ cho tôi coi thử. Cái gì vậy, tôi chưa được rõ!
Hải Cẩu rút ví, lấy ra một chiếc vòng đồi mồi nhỏ, nhưng đã bị gãy, chỉ còn có một nửa.
Người khách ngồi bên thoắt lại như giật mình. Cầm lấy nửa chiếc vòng ngắm nghĩa rồi run rẩy đưa tay vào túi áo mình, ông ta cũng rút ra một nửa chiếc vòng đồi mồi khác.
Hải Cẩu cầm lấy hai mảnh vòng áp lại với nhau. Thật lạ kỳ! Hoàn toàn ăn khớp. Chứng tỏ đây là một chiếc vòng đã bị bẻ đôi. Hải Cẩu trao trả lại nửa chiếc vòng cho người khách ngồi bên. Cả hai đều bỏ rất nhanh nửa mảnh vòng vào túi áo ngực.
Hải Cẩu cất tiếng nho nhỏ:
– Rất tốt! Cảm ơn ông, thế là chúng ta đã nhận ra nhau. Bây giờ ông hãy nghe đây…
Nói đoạn nó đặt vào tay người khách một cuốn sách nhỏ và một chiếc đồng hồ tay không còn mới lắm.
Người khách vội vã bỏ ngay tất cả vào túi quần.
Hải Cẩu tiếp:
– Ông về cất kỹ cuốn sách. Còn chiếc đồng hồ này từ nay ông sẽ phải đeo thường xuyên ngày đêm, không lúc nào rời. Bác Phan tôi đã dặn đi dặn lại như vậy.
– Dạ! – Giọng người ngồi bên càng như lạc đi vì quá hồi hộp hoặc xúc động, hoặc lo sợ.
– Ông phải thường xuyên đeo chiếc đồng hồ này trên tay – Hải Cẩu nhắc lại – Ông nhớ chứ? Bác Phan tôi dặn vậy. Nhất thiết phải đeo như thế ông hiểu chứ? Còn cuốn sách ông đọc nếu không hiểu, cứ giữ lấy. Tuyệt đối không được hủy. Đó là lệnh.
– Chiếc đồng hồ này phát tín hiệu được ư?
– Không! Tôi không rõ. Tôi cũng không được cấp trên giải thích. Chỉ biết có nhiệm vụ giao cho ông và dặn ông: phải đeo nó thường xuyên. Tóm lại, ông phải tự tìm hiểu lấy. Hoặc bác Phan sẽ cho ông biết sau. Hãy cứ đeo nó và nhớ giữ cẩn thận cuốn sách.
– Bác Phan có dặn gì nữa không ông?
– Bác nói bắt đầu từ nay ông sẽ có liên lạc trở lại. Cấp trên khi có chỉ thị sẽ gửi cho ông một bưu ảnh thông thường, nhưng nội dung là ở phía sau, viết bằng mực hóa học. Và ông nhớ phải tuyệt đối thi hành mọi chỉ thị ấy.
– Vậy còn về phía tôi, để gửi báo cáo, tôi sẽ tìm ông ở đâu, và khi nào?
– Không! Sau khi gặp ông tôi hết nhiệm vụ,tôi về.Bác Phan quy định ông cứ tiếp tục mọi việc như cũ.Rồi qua các bưu ảnh ông sẽ được biết khi nào thì ông phải gửi báo cáo,tài liệu,và ông sẽ liên lạc,gửi báo cáo hoặc xin chỉ thị bằng cách nào.Đó là tất cả những gì mà tôi có nhiệm vụ nói lại với ông. Bây giờ tôi xin hỏi: ông đã có “quà” gì để gửi về cho bác Phan chưa?
– Có…! Có! Nhưng rất tiếc là tôi không mang theo đây. Quà tôi để ở nhà. Vì xa cách đã lâu, không có tin tức gì của bác Phan, tôi đã phải cất kỹ. Tìm cũng mất công đôi chút.
Hải Cẩu đứng dậy:
– Thôi được! Chúng ta đi. Ngồi lâu rồi. Khi nào tôi cần nhận quà, tôi sẽ báo ông hay!
Hai người ra khỏi công viên, bắt tay nhau, rồi mỗi người đi một ngả. Hải Cẩu đi được một đoạn, một chiếc xích lô chợt ghé tới:
– Xe, thầy!
Hải Cẩu ngước nhìn người đạp xích lô, rồi lẳng lặng bước lên xe. Người đạp xích lô có gương mặt trẻ trung, tươi tắn và sôi nổi, tươi cười hỏi:
– Thầy tối nay đi chơi với bồ, hẳn vui quá xá?
Hải Cẩu gật đầu, cười gượng.
Ngay lúc đó, hai chiếc hon-da ở phía sau lướt tới; một chiếc chạy vượt lên trên, còn chiếc kia gần như áp sát, chạy song song với chiếc xích lô. Phía sau nữa, một chiếc du lịch cũng nổ máy, vụt lên. Người lái xe cất tiếng hào hứng nói với người ngồi ở phía sau:
– Máy của anh cực kỳ tốt!
Người ngồi băng ghế sau đang ôm một túi đựng máy móc gì đó, khẽ đáp lại:
– Dạ, cũng được, nhưng tiếng Hải Cẩu nghe rõ hơn, còn cha kia lý nhí nhiều quá. Cảm ơn các anh bên công anh tỉnh! Các anh đã giúp chúng tôi rất nhiều, từ cái quán cà phê cho tới mọi việc trong tối nay…
Người lái xe lắc đầu:
– Ổ, nhiệm vụ chung, lợi ích chung mà anh! Nè, giờ ta đi đâu hay vẫn xuống d10, như kế hoạch cũ?
– Vâng, qua cuộc đối thoại ta vừa nghe được càng phải đi d10 ngay. Xin anh đi thẳng cho! Nhưng qua đầu ngã tư ảnh chờ cho một chút để tôi đón người của tôi cùng đi.
– Được thôi, người đạp xích lô đó hả? Bây giờ là 22 giờ, đường dài 120 km.
– Kịp anh ạ! Vả lại chúng tôi cũng đã có người lót sẵn ở đó rồi. Chỉ cần nội đêm nay tụi tôi có mặt ở đó là được. Sáng sớm mai, ta bắt đầu vào việc.
– Chúc các anh may mắn!
Ánh đèn đường hắt vào xe soi khá rõ gương mặt cứng cỏi với đôi mắt sáng láng của người ngồi ở băng sau đang ôm chiếc máy ghi âm từ xa cực nhạy.
Chiếc xe đã ra khỏi thành phố. Nó nhằm hướng Đoàn 123 lao tới như bay.
* * *
Một ngày mới lại bắt đầu. Đồng hồ chỉ 7 giờ 30. Ánh mặt trời đã chan hòa rực rỡ. Thành phố Z lại bừng lên vẻ đẹp tươi tắn với những đường phố dọc ngang nhiều cây xanh tốt. Nhịp điệu của cuộc sống đầy vẻ thanh bình yên ổn cũng lại rộn ràng từ khắp các vùng lao động ở ngoại ô, cho tới khu trung tâm thương mại, văn hóa và hành chính.
Cũng vào giờ này, tại ngôi nhà khách khá khang trang lịch sự trong doanh trại của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, các cán bộ thuộc các đơn vị, cơ quan được mời về dự cuộc họp sơ kết thi đua đã ăn sáng xong và sửa soạn để ra về. Cuộc họp đã kéo dài tới ba ngày. Ai nấy cũng đều sốt ruột muốn trở lại đơn vị cho sớm.
Ông Ba Tín cũng vậy. Nhưng ông rất bực: đã hẹn xe ở dưới Đoàn lên đón, nhưng sáng nay thì có điện gọi lên báo xe hư không lên được.
Cũng may, đang băn khoăn, ông Ba thấy một ông trưởng phòng quen biết ở cơ quan tham mưu đi tới tươi cười hỏi:
– Anh Ba có về bây giờ không? Hình như anh chưa có xe? Tôi xuống huyện Hải Lục. Anh có về thì cùng về cho vui. Xuống Hải Lục, tôi phải đi qua “vương quốc” của anh mà…
Ông Ba mừng rỡ:
– Thế thì còn gì bằng. Cho mình đi với!
Một chiếc com-măng “đít tròn” lẹ làng ghé tới. Trên xe đã có hai người, ngoài lái xe. Ông trưởng phòng cầm hộ ông Ba chiếc túi du lịch và giới thiệu:
– Hai đồng chí trợ lý này cùng đi nhờ xuống Hải Lục.
Chỉ một lát sau chiếc xe đã như bay, như lướt trên con đường tráng nhựa phẳng lỳ, hai bên là những cánh đồng bằng phẳng hết sức đẹp mắt.
Chiếc xe chạy khỏi thành phố một đoạn, tới một ngã ba thì giảm tốc độ và quẹo trái.
Ông trưởng phòng nói:
– Ta vào đây nghỉ tí đã các anh ạ! Tôi tranh thủ gặp cậu đội trưởng ở đây có chút việc…
Ông Ba nhận ra đây là một cơ sở chăn nuôi bò cũng của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh. Nhưng cơ sở này chỉ bằng một phần mười đoàn sản xuất 123 của ông.
Chiếc xe đỗ lại trước một ngôi nhà nhỏ, có lẽ là nhà khách.
Ông Ba xuống xe, xách cặp đi theo ông trưởng phòng.
Phòng khách nhỏ, các cửa sổ đều đóng kín. Một đại úy lạ mặt đang ngồi đó. Không khí có một vẻ gì nặng nề và hơi lạ.
Ông Ba đang loay hoay tìm một chiếc ghế sạch sẽ nhất để ngồi thì bỗng như hai ánh chớp, hai sĩ quan đi cùng nhảy xổ tới, khoác chặt lấy hai tay ông. Anh đại úy trẻ tuổi lạ mặt cũng lập tức đứng dậy, dõng dạc:
– Ba Tín! Hãy nghe đây: ông đã bị bắt!
* * *
Cách đây đã trên hai mươi năm, hoặc nói một cách khác, đúng hơn: đã ngót ba mươi năm qua.
Đầu năm 1955, một người trẻ tuổi, theo một con đường kín đáo lọt được vào thành phố Z lúc đó chính quyền Diệm đang thống trị. Ấy là một đêm mùa xuân ấm và sáng. Đã khuya lắm rồi, người trẻ tuổi rụt rè gõ cửa một ngôi nhà nhỏ ở ven thành.
Nhưng chỉ qua có một ngày hôm sau, cảnh sát đã bất ngờ lùng sục vào ấp này. Người trẻ tuổi bị bắt ở ngay giữa nhà người cơ sở.
Bị đưa về ty cảnh sát, bị tra tấn hết sức dã man, chết đi sống lại nhiều lần, cuối cùng không chịu nổi, người trẻ tuổi đã buộc phải cung khai tên là Lê Xuân Tín, nhiệm vụ của anh là về chắp nối lại cơ sở cách mạng. Đã tưởng rằng khai hết, thì sẽ được tha, hoặc quá lắm là bị tù vài năm. Nhưng không. Đã lùi một bước vì hèn nhát, là phải lùi nữa. Ty cảnh sát địch đã buộc anh phải làm việc cho chúng. Nếu không: Một là sẽ chết. Hai là địch sẽ công bố mọi lời cung khai của anh ta, thì với cách mạng, Tín cũng coi như đã chết. Tín buộc phải nhận lời. Trong bụng thầm nghĩ: nhận nhưng rồi sẽ không làm gì hết. Nhưng đâu có dễ vậy! Kẻ địch đã không hề khờ khạo. Và Tín đã phải khai thêm ra nhiều việc khác, người khác, rồi đã phải chỉ điểm cho chúng bắt gần hết những cán bộ đã học cùng khóa dân vận với Tín trong rừng sâu và cũng được tung về vùng này hoạt động.
1956, Tín được đưa về giam (vờ) ở Sài Gòn. Tín tiếp tục dấn sâu thêm vào tội ác. Dưới cái vỏ cán bộ bị tù, Tín đã biết được một số hoạt động của các đồng chí trung kiên trong nhà giam. Tín lại bí mật chỉ điểm cho địch bắt.
1957, địch giả vờ đưa Tín ra xử án công khai và kết án tù rồi đày đi Côn Đảo. Ở đây, Tín lại tiếp tục đóng vai một người tù hiền lành, khù khờ dễ bảo nhưng đã nhiều lần mật báo cho địch về các hoạt động của các đồng chí ta ở trong lao.
Cho tới 1958, được tuyên bố mãn hạn tù. Tín được đưa về tạm giam ở Chí Hòa để “làm thủ tục” trở về quê cũ.
Nhưng, như Võ Trần đã khổ công tìm tòi phát hiện: trong tờ khai ra tù: Tín viết là về quê. Nhưng thật ra, theo đúng kế hoạch đã mật ước với địch, Tín tới thành phố Z với nhiệm vụ: tìm cách để được trở về với hàng ngũ cách mạng càng sớm càng tốt, theo kế hoạch của địch.
Ở Z Tín đã làm đủ mọi nghề: thợ xây, thợ mộc, làm vườn, sau đó đã bắt liên lạc được với một người cùng ở tù với Tín trước đây, nay cũng mãn hạn và về làm ăn. Người này tin Tín và giới thiệu cho Tín bí mật về Sài Gòn bắt liên lạc với một cán bộ cách mạng sống hợp pháp dưới cái vỏ: một chủ tiệm thuốc tây. Người chủ tiệm bàn cách cho Tín sống hợp pháp bằng cách xin đăng ký lấy căn cước. Và thật lạ, xin một cái được cảnh sát quận 3 (quản lý cả nhà lao Chí Hòa) cấp giấy chứng nhận ngay. Được cấp giấy chứng nhận như thế này cũng có nghĩa là được xóa dấu “liên can chính trị” và được nhập hộ ở Sài Gòn.
Tín ở Sài Gòn, đóng vai làm công cho một số nhà thầu. Cho tới một buổi chiều tháng 10 năm 1959, Tín đang đi trên đường phố, chợt có một người lạ mặt đi xe đạp sát vào bên, và khẽ hỏi: “Anh có phải Tín không?”. Tín đáp phải. Người đó hỏi: “Anh đã thực thi nhiệm vụ thế nào, báo cáo đi, tôi là người của cấp trên đây”. Tín toát mồ hôi. Vắn tắt vài lời, Tín báo cáo lại những gì mình đã trải qua. Người đó bảo: “Được đấy, tiếp tục đi. Cứ sống như vậy. Sẽ có chỉ thị sau”. Rồi y biến mất trong đám đông. Tín cứ bàng hoàng mãi. Một tháng sau, người chủ tiệm thuốc tây báo cho Tín biết: Tín đã được báo cáo lên cấp trên. Sẽ có người về gặp. Đúng như vậy. Một đồng chí của Đảng bộ thành phố Z đã bí mật về Sài Gòn để gặp Tín. Ông nói chuyện với Tín về tình hình cách mạng miền Nam, rồi giao cho Tín nhiệm vụ cứ tiếp tục hoạt động hợp pháp.
Nhận nhiệm vụ, Tín làm đơn xin phép cảnh sát quận 3 Sài Gòn chuyển về U. để sinh sống. Cảnh sát quận 3 đồng ý liền, không có gì khó khăn hết.
Tín về U. gặp lại gia đình một người cán bộ (có tên là Vược). Gia đình này nhận thư và ảnh của Vược, đã vui lòng cho Tín ở trong nhà, giả làm người làm thuê. Gia đình này làm nghề mộc. Tín cũng võ vẽ chút ít. Cũng không ngờ trong thời gian này Tín đã có một diễm phúc: cô em gái của Vược đã yêu chàng trai làm thuê tuy không điển trai nhưng rất mực hiền lành, chăm chỉ này, và hai người đã trở thành vợ chồng. Sau đó Tín nhận được chỉ thị của một đồng chí thị ủy Z gọi về Z hoạt động. Tín bèn đưa cả vợ con trở về Z, nơi đã khá quen thuộc.
Số phận của Tín lúc này đã có một bước ngoặt: Tín đã “lọt mắt xanh” của CIA Mỹ cùng với nhiều tên nhân viên khác của tình báo ngụy., Nói một cách khác: CIA đã muốn đoạt chiếm một số nhân viên của ngụy để làm việc cho mình về kế hoạch hậu chiến…
Sau khi bí mật nhận nhiệm vụ với CIA, Tín vẫn giữ nguyên mọi quan hệ với Tổng nha cảnh sát ngụy và phủ đặc ủy tình báo trung ương (ngụy). CIA đã “ném” lên Z quán cà phê Tuổi Mộng để làm cơ sở bí mật riêng cho Tín. Nó có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh của CIA và chuyển các báo cáo của Tín về Sài Gòn. Như vậy cùng một lúc Tín làm việc cho ba nơi: Đảng bộ Z, tình báo ngụy và CIA. Nhưng CIA là cái cuối cùng và là chủ yếu. Cứ như vậy 5 năm trôi qua…
Nhưng rồi không ngờ chiến thắng của Cách mạng quá lớn, quá nhanh. Mùa xuân 1975, Quân Giải phóng ào ạt tiến tới. Là người vẫn đóng vai “cán bộ cách mạng sống hợp pháp”. Tín được trao nhiệm vụ chuẩn bị động viên các cơ sở ở Z đưa quần chúng nổi dậy hưởng ứng các hành động quân sự lớn của ta. Tín chưa kịp cho vợ chồng quán Tuổi Mộng chạy về Sài Gòn báo cho CIA, cũng may, ngày cuối cùng của Mỹ ở Z, một nhân viên CIA đã từ Sài Gòn mạo hiểm mò lên. Tín bí mật lẻn vào một cơ quan “văn hóa Mỹ” để gặp nó – tên đó cho biết: Lệnh của trung tâm là tất cả các nhân viên CIA phải ở lại, dù tình hình biến chuyển xấu tới đâu. Dự kiến của Mỹ là phải nằm im, nghe ngóng, chờ thời. Có thể vài tháng, và một năm, thậm chí vài năm… Trong thời gian tạm nằm im chờ thời cơ như vậy sẽ không có liên lạc của Trung tâm (trừ trường hợp thật đặc biệt). Các điệp viên phải tạm cắt đứt liên hệ với các cơ sở đi lại hoặc giao thông cũ. Vì vậy Tín không được liên hệ với quán Tuổi Mộng nữa.
Từ đó, thực hiện đúng ý đồ của CIA, Tín đã không liên hệ với cà phê Tuổi Mộng. Cho tới khi vợ chồng quán Tuổi Mộng bị tai nạn xe hơi chết, quán cà phê bị bán đi, Tín cũng không quan tâm tới. Một mặt vẫn mong chờ liên lạc với Trung tâm nhưng một mặt Tín lại thầm cầu mong chúng quên mình đi, như vậy cũng rất tốt cho Tín. Đó là một mâu thuẫn, một xung đột nội tâm dai dẳng. Tuy vậy Tín vẫn cứ phải âm thầm chuẩn bị bến bãi và lực lượng. Gần đây lỡ để xảy ra vụ bao vây đồn, biết là hết sức sơ hở, có nguy cơ bị lộ, Tín cũng lo.
* * *
… Mẫn đi đi lại lại trong phòng. Ba Tín vẫn ngồi đó, đầu cúi xuống. Mẫn nhìn thấy rõ hơn cái đỉnh đầu đã hói khá nhiều của Ba Tín. Trong cái đầu mà thời gian đã bào mòn đi như thế này, đã có và đang còn ẩn giấu bao nhiêu điều phức tạp và tội lỗi nữa?
Sau khi đã lấy khẩu cung, Mẫn hỏi tiếp:
– Thế nào, anh còn gì để khai?
– Dạ, thưa tôi đã khai hết. Tôi đã cam đoan, tôi xin lấy lương tâm và danh dự mà thề…
– Không, anh không còn danh dự, cũng không còn lương tâm, không còn bất cứ cái gì để mà thề cả.
– Thưa ông, vậy tôi còn biết nói sao? Tôi biết là tội tôi đáng chết. Tôi sẵn sàng chịu chết. Tôi không hề kêu oan uổng…
– Nhưng Ba Tín ạ, anh vẫn chưa khai hết. Nếu không khai hết, anh chết đâu có nhắm mắt được!
– Trời ơi, tôi còn vì cái gì nữa để mà giấu giếm? Tôi không còn hy vọng được khoan hồng. Tôi cũng không sợ CIA thủ tiêu nữa, vì đã ở trong tay các ông rồi. Vậy tôi còn gì để mà giấu giếm?
– Thôi được! Về thời kỳ trước giải phóng ông không bổ sung gì thêm, tôi hỏi về những năm sau 1975 cho tới nay. Những cuộn micro phim tài liệu mật, mà chúng tôi đã đào, tìm được trong phòng ông sáng hôm đó, ông chụp hay ai chụp?
– Tôi, chính tôi, tôi thường lẻn được vào phòng ông Năm Cường. Hồi ấy tôi về họp, ăn ngủ cùng với ông ấy.
– Ai bố trí ông về làm đoàn trưởng Đoàn 123, hay Ông tự xin? Và nếu xin, vì mục đích, ý đồ gì?
– Tôi thấy ở đấy có thể bí mật xây dựng thành căn cứ sau này được. Tôi xin ngay từ sau giải phóng, và đã được chấp nhận. Ở đó tôi đã bị công an nhòm ngó. Tôi rất khó chịu. Không kiềm chế được nên đã thường xảy ra va chạm. Ở đó tôi đã cố ý thu nạp những phần tử mà tôi tin là sau này có thể dùng được cho CIA, như tôi đã khai…
– Được, bây giờ hỏi sang một số điều cụ thể khác: Huỳnh Bá là ai? Có liên hệ gì với ông không?
– Không! Tôi không hề có liên hệ gì với Huỳnh Bá. Hoàn toàn không, dù chúng tôi là bạn khá thân.
– Một câu hỏi khác: vì sao ông biết tổ viết sử chúng tôi đang tiến hành công việc chống nội gián?
– Thú thật tôi không hề biết. Tôi bây giờ mới được biết như thế.
– Sao? Vậy ai đã tổ chức theo dõi chúng tôi?
– Tôi cũng hoàn toàn không biết.
– Có phải chính ông đã tổ chức đột nhập nhà khách để ăn cắp tài liệu của chúng tôi? Có phải ông cho xe tải định thủ tiêu tôi?
– Không! Không! Sao các ông lại hỏi tôi những chuyện như vậy? Tôi hoàn toàn không biết gì hết về những chuyện ấy.
– Hừ, vậy có lẽ ông cũng chối cả việc đã viết thư rung dọa rồi theo dõi mãi cô bé Út Bơ chứ?
– Trời ơi! Lại thế nữa ư? Tội tôi chưa đủ chết sao các ông lại còn buộc cho tôi thêm các việc ấy?
– X.15 vẫn còn ngoan cố! Anh chưa hoàn toàn thành khẩn.
Ba Tín vụt tròn xoe hai con mắt đã đỏ ngầu và đẫm nước. Y hết sức ngạc nhiên:
– Sao? Các ông gọi tôi là cái gì vậy, X.15? Không! Các ông nhớ sai hoặc có sự lầm lẫn nào đó. Bí số của tôi là X.25. Tôi đã khai rõ rồi cơ mà.
Đến lượt người hỏi cung ngạc nhiên:
– Hay nhỉ? Đã chịu nhận là đã khai báo để phá bằng ấy cơ sở và làm hại bằng ấy cán bộ cách mạng, đã chịu nhận là nhân viên CIA chính cống, vậy mà ông không dám nhận cái bí số ấy ư? Nhận nó, ông sẽ phải chịu tội nặng hơn sao mà phải chối?
Ba Tín lắc đầu:
– Nhưng không! Thưa không mà. Tôi là X.25. Các ông có lẽ lầm rồi. Đúng là có lẽ có sự lầm lẫn nào đó. Thật vậy tôi có sợ gì cái số X.15 ấy mà phải chối.
Mẫn thấy người như ngứa ngáy ran lên. Anh quay lại phía sau:
– Yêu cầu cho Hải Cẩu ra!
Cánh cửa bên sườn gian phòng hỏi cung khẽ hé mở, Hải Cẩu ngập ngừng tiến ra, hai tay chắp trước bụng, lễ phép.
– Cho anh ngồi! Anh nói lại đi: Trung tâm của anh giao nhiệm vụ cho anh thế nào?
Tên gián điệp rành rẽ từng lời:
– Thưa quý ông: tôi phải tìm bắt liên lạc với một nhân viên CIA nằm vùng, trong lực lượng quân sự.
– Vậy đây là nhân viên đó với bí số X.15 chứ?
– Thưa – Tên gián điệp lúng túng – Tôi cũng không rõ nữa. Thực ra Trung tâm cũng không cho tôi được xem hình và cũng không nói cho biết rõ bí số của nhân viên đó.
– Thế là thế nào? Đây là X.15 hay không phải, anh hãy nói rõ lại đi.
– Thưa quý ông: đúng là tôi có nhiệm vụ bắt liên lạc với ông này khi có đúng ám, tín hiệu. Nhưng ông này có phải X.15 hay không thì tôi không được rõ.
– Thôi, cho anh lui!
Khi Hải Cẩu quay ra, Mẫn ngồi lặng đi, lần đầu tiên trong đời, anh cảm thấy thiếu tự tin. Anh gắng trấn tĩnh lại, rồi quay về phía Ba Tín, nghiêm giọng:
– X.15! Ông vẫn còn ngoan cố! Ông chưa thành khẩn chút nào hết.
Tới lúc này, Ba Tín gần như gào lên vì đau khổ:
– Không! Không! Trời ơi. Tôi là X.25. Tôi đã nói là tôi X.25! Các ông vẫn không tin tôi sao?
Cuộc thẩm vấn phải tạm hoãn.
Tối hôm ấy, ba anh em lại ngồi với nhau tới quá khuya. Võ Trần và Rồng Xanh đều cùng chung một ý nghĩ: Ba Tín vẫn còn rất ngoan cố. X.15 không phải ai khác mà chính là hắn. Dù đã phải thú nhận những tội lỗi của mình, Tín vẫn cứ hy vọng được coi là ở “một mức nào đấy”. Tín không thể dễ dàng nhận mình là một tên gián điệp vào loại hết sức sừng sỏ.
Riêng Mẫn, anh cho rằng Tín có rất nhiều khả năng đã nói thực, X.15 là một tên CIA khác. Tín cũng không hề biết nó. Lần đầu tiên, kể từ khi cùng cộng tác với nhau, Mẫn đã bị Võ Trần và Rồng Xanh phản bác lại mạnh mẽ, không những thế còn thẳng thắn phê bình anh là hữu khuynh.
Mẫn vẫn giữ ý kiến của mình. Nhưng anh đau đầu hết sức. Đâu có phải anh quá tin ở những lời khai của Ba Tín. Không! Anh đâu có dễ dàng để tin một tên gián điệp. Chính vì suy nghĩ, ráp nối lại tất cả mọi sự kiện mà anh đã cảm nhận được như thế. Thật vậy, anh đã hiểu: té ra bọn anh mới chỉ đi được một nửa chặng đường, thậm chí mới đi được một đoạn rất ngắn.
Vậy X.15 là ai? Nó đang ở đâu? Trước mặt bọn anh rõ ràng còn là một chặng đường dài hut hút, đầy chông gai. Bọn anh có thể đi tiếp mà cũng có thể không đi tới nơi được nữa.
Bọn anh sẽ phải làm tiếp những gì đây?
Kẻ địch sẽ tiếp tục có những đòn, những miếng gì lắt léo và hiểm độc để đối phó, thậm chí tấn công lại?
Đầu anh thêm đau nhức.
Nhưng rồi anh cũng còn đủ bình tĩnh và tỉnh táo để hiểu rằng: trước hết phải làm sao cho toàn tổ thống nhất được ý kiến đã…