PHẦN HAI Chương 7
– A! Đoàn trưởng đã về!
– Chú Ba! Chú Ba đã về!
Khi chiếc xe Gát nhỏ chở Ba Tín vừa từ cổng lớn tiến vào, đã có nhiều tiếng reo lên.
Mặc dù sau “Hội nghị mừng công” kết thúc, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã điện về 123 báo là đoàn trưởng Tín chưa về ngay được vì còn phải làm thêm một số việc ở trên đó, nhưng đông đảo cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong đoàn vẫn cứ sốt ruột, mong ngóng.
Hôm nay ông đã trở về sau hơn hai tuần lễ, mọi người đều vui vẻ, mừng rỡ, nhất là cơ quan đoàn bộ. Người khen ông béo ra, người lại bảo ông hốc hác đi.
– Ở nhà, có chuyện chi không? – Ba Tín hỏi ông đoàn phó.
– Có! Khi anh về tỉnh họp có hai anh ở tổ viết sử tới đây xin gặp một số cán bộ cũ để thu lượm tài liệu.
– Bố trí ăn ở, giúp đỡ họ tử tế chứ?
– Dạ, tụi tôi để họ ở trên nhà khách. Mọi việc tốt đẹp cả. Họ đã về rồi.
– Tốt!
Ba Tín có vẻ khá mệt mỏi. Ông gắng trò chuyện một lát với mọi người, rồi mở cửa vào căn phòng riêng của ông ở liền ngay cạnh phòng khách lớn.
Ba Tín bước vào căn phòng khá sang trọng và quen thuộc bỗng có cảm giác như bước vào một nơi xa lạ. Đưa mắt buồn bà ngắm nhìn bao quát cả căn phòng thấy đồ đạc vẫn y nguyên, ông thấy dường như chưa hề có một bàn tay bí mật nào đã lục soát. Chỉ khi ngó vào gầm giường, hết sức chăm chú, Ba Tín mới thấy mờ mờ một chút bụi đất ở quanh một viên gạch men hoa, nơi hộp đựng những cuộn vi phim đã được cất giấu. Không nén được một tiếng thở dài, Ba Tín gieo mình xuống chiếc ghế. Kinh nghiệm nghề nghiệp của “họ” đã dày dạn, hoặc dụng cụ dò tìm của “họ” đã hiện đại tới mức nào vậy? Cái hộp ấy đã được bọc vải cao su, được chôn rất kỹ, hết sức khó dò tìm…
Cúi gục đầu xuống bàn hồi lâu, rồi ngẩng lên, nhìn vào tấm gương lớn trên tường. Ba Tín gần như không nhận ra chính mình. Bão táp lại nổi lên tan nát cả cõi lòng. Ba Tín cảm thấy mình gần như không đủ sức để sống nữa. Nhưng rồi một câu nói lại vẳng lên, vẳng lên mãi “ … Chúng tôi sẽ cho ông một cơ hội để thử xem có chuộc lại được tội lỗi của ông không? Nếu đồng ý, ông hãy nghe đây…”.
Cả ngày hôm đó, Ba Tín nằm liệt ở giường, kêu vì quá mệt sau hai tuần lễ làm việc quá nhiều, quá căng thẳng ở trên tỉnh với các đồng chí lãnh đạo.
Hai hôm sau, Ba Tín triệu tập Đảng ủy và ban chỉ huy Đoàn để bàn triển khai, phát huy kết quả của hội nghị sơ kết thi đua toàn tỉnh. Ba Tín đề nghị Đoàn 123 mở tiếp hội nghị mừng công của đơn vị. Ba Tín cũng báo cáo rõ: Ba Tín đã được cấp trên đồng ý cho được nghỉ hưu, nhưng còn phải làm nốt một số công việc, Ba Tín ngỏ ý: cũng muốn nhân dịp này sẽ được gặp lại các bạn chiến đấu thân thiết ở xa, gần, một lần chót trước khi “cầm sổ”.
Thế là cả cơ quan đoàn bộ bắt đầu nhộn nhịp sửa soạn cho ngày hội.
Liên tục một tuần lễ liền, các nhóm công nhân, bộ đội có trách nhiệm đã thay nhau làm việc khá khẩn trương. Cuối cùng cả khu vực đoàn bộ đã gần như hoàn toàn đổi khác: hội trường lớn được trang hoàng rực rỡ. Các vườn hoa đều được sửa sang, cắt xén lại.
Bản danh sách khách mời đã được đích thân ông đoàn trưởng xem xét và bổ sung.
Trước khi khai mạc hội mừng công, một tổ quay phim của tỉnh đã được mời về dự cho thêm phần vui vẻ, đồng thời giúp việc cho đại hội.
Ngày khai mạc đã tới. Từ sáng sớm, toàn Đoàn 123 đã thức dậy trong niềm vui hân hoan tràn ngập. Nắng sớm bừng lên làm cho những hàng cờ xanh đỏ trang trí trên cổng chào và cắm dọc hai bên con đường vào hội trường thêm tươi thắm. Ông đoàn trưởng cũng dậy rất sớm. Bữa nay ông mặc lễ phục nghiêm trang với mũ kê-pi, quân hàm cầu vai cùng đầy đủ huân chương, huy chương gần kín ngực. Tuy nhiên ông vẫn mang một chiếc sơ mi cộc để lộ hai bắp tay vẫn còn khá săn dẻo với chiếc đồng hồ tay tuy đã lạc mốt nhưng có một sợi dây đeo mới tinh in hình lạc đà rất đẹp và lạ mắt.
Khách từ các nơi xa, gần lần lượt kéo tới. Phần lớn đi xe con. Xe quân sự có, xe dân sự có. Cả một vùng dân cư ven biển, cả thị trấn huyện đều vang rền tiếng máy nổ tưng bừng. Dân chúng đổ ra xem, trầm trồ, chỉ trỏ.
Đoàn trưởng Ba Tín cùng ban tiếp tân tất bật trong việc đón khách. Khi đồng hồ chỉ 8 giờ 30, điểm lại khách mời đã đến gần đông đủ, chỉ còn thiếu có vài người có lẽ vì bận hoặc đau yếu gì đó.
Tuy vậy cho tới khi loa phóng thanh vang vang cất tiếng trân trọng mời mọi người vào hội trường, vẫn còn có hai người khách cuối cùng lật đật phóng xe tới. Đó là tham mưu trưởng Năm Cường và Lê Vi. Cả hai ôm choàng lấy đoàn trưởng Ba Tín cười vui, cảm động hết sức. Cả hai xin lỗi đã tới quá trễ vì một số việc cần kíp.
Ông Ba tự thân đưa cả hai người lên hàng ghế đầu, nơi dành cho các khách sang trọng của tỉnh và quân khu.
Khá đông, phòng họp gần chật kín. Khói thuốc mù trời. Trò chuyện râm ran. Các kỷ niệm xưa được thi nhau kể lại. Là cái “đinh” của cuộc gặp mặt, Ba Tín như lăn tròn khắp căn phòng. Ông siết tay người này, ôm hôn người khác, không sót một ai. Với bất cứ bạn nào ông cũng có một lời chào hỏi, hoặc đùa vui hết sức thân mật. Đã có không ít những giọt nước mắt bè bạn chân tình, xúc động rơi xuống. Kể cả Ba Tín. Chính Ba Tín cũng không thể nào ngờ và không thể nào hiểu nổi: tại sao mình cũng còn có thể khóc được, tại sao trái tim mình còn có thể rung lên đến nghẹn ngào trong cái không khí đầm ấm, thiêng liêng cao cả này? Câu hỏi ấy càng làm cho lòng Tín thêm tan nát, đau buốt…
Tối hôm ấy là buổi biểu diễn văn nghệ. Một tin vui khá bất ngờ với quan khách: không phải là văn nghệ “cây nhà lá vườn” mà là một chương trình do một nhóm văn nghệ của thành phố Hồ Chí Minh được mời về phục vụ.
* * *
Ngay tối hôm sau tại thành phố Hồ Chí Minh, trong một căn phòng đón kín riêng biệt, mượn tạm trong quân khu, “tổ viết sử” gồm Mẫn cùng Võ Trần và Rồng Xanh ngồi chăm chú hàng giờ liền trước một màn ảnh nhỏ để xem lại những cuộn phim về hội nghị mừng công của Đoàn 123 mới ghi lại được, gần như còn “nóng bỏng”. Nhưng đây không phải là những cuốn phim thông thường do tổ làm phim thời sự của tỉnh quay mà là những cuốn phim đặc biệt do hai máy quay phim đặc biệt đã được bí mật bố trí ở những nơi kín đáo nhất, ghi lại tỉ mỉ và đầy đủ khối khách mời. Gần như trên bốn trăm khách đều đã được máy ghi hình lại hết. Những chiếc máy đã tỉ mỉ đến mức ghi được cả những quan khách đi lẻ vào các phòng tiểu tiện, đại tiện và những cuộc gặp gỡ trò chuyện tay đôi giữa đoàn trưởng Ba Tín với bè bạn, trên hành lang, ngoài vườn hoa, trong bữa ăn… Một điều khá thú vị: “nhân vật chính” của tất cả những cuốn phim ấy dường như luôn luôn cố ý khoe cái đồng hồ tay của mình, với những động tác như vờ xem giờ, hoặc vờ giơ tay, vung tay cao trước mặt các hàng quan khách hoặc bè bạn…
Khi các cuốn phim đã hết, đèn bật sáng, cả ba người vẫn còn ngồi im phắc, không ai nói với ai một lời nào. Lát sau, Mẫn lên tiếng trước:
– Tóm lại: không có gì đáng chú ý cả.
Rồng Xanh và Võ Trần cùng gật đầu.
Mẫn đẩy ghế đứng dậy, anh đi đi lại lại.
– Lạ nhỉ? Không có gì đặc biệt hết! – Anh làu bàu nhắc lại một lần nữa, như nói với riêng mình.
Đến lượt Rồng Xanh thốt lên theo:
– Đúng vậy! Không có gì đặc biệt.
Và Võ Trần cũng phải mở miệng:
– Đúng như tụi tôi qua trực tiếp quan sát tại chỗ và đã báo cáo với tổ trưởng: không có chi đặc biệt cả. Một cuộc hội vui, một cuộc gặp gỡ chiến hữu thân tình và cảm động. Vậy thôi, không một dấu vết khác lạ. Không một người nào tỏ ra để ý đặc biệt tới chiếc đồng hồ nọ. Bây giờ coi lại phim, cũng vậy thôi. Kỳ quá xá!
Mẫn vẫn đi đi lại lại, không nói và không hỏi thêm điều gì nữa. Đầu óc anh bắt đầu trĩu xuống trong buồn bực, kể cả lo lắng.
Anh vẫn còn nhớ: trước khi đi tới quyết định tung Ba Tín trở về 123 để mở cuộc “gặp mặt cựu chiến hữu” thì cả tổ đã phải trải qua những cuộc trao đổi khá căng thẳng tập trung vào một vấn đề trọng yếu trước hết: phải xác định cho được có X.15 hay không có X.15? Không thể dễ dàng tin ngay có X.15, nhưng cũng không thể dễ dàng phủ nhận: làm gì có X.15.
Cuối cùng, toàn tổ đã đi tới thống nhất: Đúng là vẫn còn một “nhân vật” nào đấy, và “nhân vật” ấy chắc chắn phải có nhiều liên quan tới Ba Tín nếu không muốn nói là liên quan rất chặt chẽ.
Thêm nữa, cuộc gặp gỡ giữa X.25 với Hải Cẩu gần đây, cùng bản khóa mật mã và chiếc đồng hồ có dây đeo in hình lạc đà cũng đã là những chứng cớ khá cụ thể để có thể luận ra: đúng là còn có một “nhân vật” nữa, khác với Ba Tín. Bản khóa mật mã ấy hiển nhiên không nhằm gửi cho Ba Tín, mà nhằm chuyển cho một “người khác”. Chiếc đồng hồ cũng vậy, rõ ràng nó là một tín vật. Nếu Ba Tín là X.15, là nhân vật cuối cùng, vậy còn cần tín vật bí mật này làm gì? Không nghi ngờ gì nữa, tín vật ấy chỉ là để cho một “người nào” khác nữa nhận ra Ba Tín, hoặc hiểu rằng Ba Tín đã gặp được với người của “bác Phan”…
Tóm lại, có thể khẳng định được rằng: đúng là còn có “một người nào đó” khác với Ba Tín, điệp viên cỡ sừng sỏ. Và đó chính là X.15.
Tuy nhiên, X.15 là ai và mối quan hệ của nó với X.25 (Ba Tín) như thế nào, chưa thể biết. Chính Ba Tín cũng không biết. Có thể X.15 là một nhân viên CIA cùng hoạt động song song với X.25 ở trên vùng đất này, và có liên hệ với nhau nhưng hết sức gián tiếp theo một kiểu liên lạc rất lạ nào đó.
Do vậy, mới chỉ có thể tạm thời xác định là: có X.15, và X.15 có liên quan, thậm chí có liên quan mật thiết với X.25. Có điều là chưa thể hiểu nổi chúng quan hệ với nhau theo cách gì, kiểu gì? Không còn nghi ngờ gì nữa: CIA đã có cả những cách cài và bố trí điệp viên rát mới, có thể nói là tinh vi, lắt léo, mà từ trước tới nay ta chưa từng thấy.
Đấy là một bước vất vả đau đầu mà bọn Mẫn đã phải vượt qua, kể từ sau khi đã bắt được Ba Tín.
Nhưng còn những bước tiếp theo?
Bây giờ phải làm gì đây để tuy tìm cho được X.15? Nên bắt đầu bằng việc gì?
Điện vừa từ cấp trên gửi xuống: cấp trên hoàn toàn nhất trí với tổ: đúng là còn có X.15. Cấp trên yêu cầu phải hết sức khẩn trương, vì X.25 đã sa lưới, dù vẫn còn giữ kín, nhưng rất có khả năng sẽ làm cho X.15 thấy động. Như vậy, chậm ngày nào sẽ không có lợi ngày ấy.
Chính vì tinh thần ấy, một quyết định của tổ đã được hình thành gấp và Ba Tín đã được mạnh dạn tung trở về ngay 123 để tổ chức cuộc gặp gỡ bạn hữu.
Nhưng rốt cuộc vẫn chưa hề thấy một chút dấu vết nào của X.15!
Như vậy là thế nào? Một là: có thể X.15 do ốm đau, hoặc mắc bận gì đó nên đã không tới được cuộc gặp mặt ấy? Hai là có thể X.15 không được mời, vì trên thực tế Ba Tín có thể không quen biết, hoặc chỉ quen sơ sơ, không liệt nó vào loại “bạn” được mời. Ba là: X.15 có mặt, nhưng nó đúng là một con sói cực kỳ tinh khôn, ranh mãnh. Nó đã cười thầm trước mũi bọn Mẫn, và không hề để lộ một sợi lông đuôi, không hề ngu ngốc lao đầu vào cái lưới đã được giăng sẵn.
… Mẫn đi đi lại lại trong phòng, cuối cùng anh đề nghị cả tổ hãy đi ngủ. Ngày mai, khi đầu óc bình tĩnh lại hơn mới có thể tiếp tục trao đổi ý kiến được.
Tuy nhiên, trong khi hai bạn đã ngủ say, riêng Mẫn vẫn cứ chong chong đôi mắt, trằn trọc, vật vã mãi.
Một đêm trắng.
Sáng sau khi tỉnh dậy, nhìn mình trong tấm gương nhỏ treo trước bàn làm việc, Mẫn gần như giật mình. Anh hệt một người đang có bệnh – “Ôi chỉ còn thiếu mái tóc tự nhiên bạc trắng, ra mình sẽ đúng như Ngã Tử Tư trong truyện cổ Trung Hoa xưa”. Mẫn mỉm cười thầm một cách buồn bã.
Hai bạn của anh cũng đã dậy, và ăn sáng xong. Tất cả sẵn sàng để lại tiếp tục lao vào thảo luận.
– Ta cho rút Ba Tín về thôi chứ tổ trưởng? – Rồng Xanh hỏi.
Mẫn lắc đầu:
– Cứ để y ở đó đã.
– Sao vậy? Hội mừng công và “cuộc gặp gỡ chiến hữu” đã không có kết quả, phải rút y về, chứ còn để đấy làm gì? Chỉ thêm tốn công giám sát và cả bảo toàn tính mạng cho y.
Mẫn vẫn lắc đầu:
– Đúng là tụi ta đã thua một keo, hoặc nói nhẹ hơn: hụt một keo. Nhưng tôi nghĩ: chưa xong đâu! Các bạn đã quên chuyện tấm “bưu ảnh” rồi sao? Nếu quả là có X.15 nhất định trước sau X.15 cũng sẽ nhận được hoặc tìm được ra Ba Tín và sẽ phải gửi “bưu ảnh” cho X.25 như “bác Phan” dặn. Vậy cần phải để Ba Tín ở lại đó thêm.
Rồng Xanh cãi lại:
– Nhưng nếu chính xác là “bác Phan” của chúng gửi “bưu ảnh” chứ không phải X.15 gửi thì sao?
Mẫn cười:
– Dù là của ai, nếu có “bưu ảnh” thì vẫn cứ tốt, do đó ta vẫn cứ nên để Ba Tín ở lại đó và chờ đợi.
Đến lúc đó thì Rồng Xanh chịu. Anh chàng thật dễ thương: nóng nảy, sôi nổi vậy, nhưng lại rất dễ phục thiện. Cười toét một cái là mọi chuyện đã coi như “xong” hoặc “xí xóa” hết.
Khi Rồng Xanh không còn gì thắc mắc nữa, Mẫn tiếp:
– Không những nên để Ba Tín tiếp tục ở lại, mà ta còn phải tới đó “nằm” với y ít bữa nữa. Tôi thấy ta còn cần phải khai thác thêm nữa ở con người này. Vừa qua, dẫu sao, ta mới chỉ tập trung thọc sâu, “đánh” thật nhanh vào vấn đề chủ chốt nhất để làm sao cho Ba Tín phải chịu nhận, chịu thú hắn là người của CIA. Nhưng còn biết bao nhiêu chuyện, biết bao nhiêu vấn đề “râu ria” khác, ta chưa có thì giờ để “sờ” tới.
Võ Trần chăm chú lắng nghe. Anh thường thích Mẫn nhất trong những khi anh này tranh luận hoặc trình bày những lý lẽ của mình. Võ Trần hoàn toàn đồng ý với Mẫn:
– Tôi cũng nghĩ như tổ trưởng: để tiến hành kế hoạch 2 của “Chương trình Anh Đào 1”, tụi ta đã bắt đầu bằng một “miếng” nhằm đánh gục đối phương trong một thời điểm hết sức tập trung. Đó là cách đánh nhanh, thằng nhanh. Nhưng chúng ta chưa thu được kết quả. Vậy phải tiếp tục thế nào đây? Tôi cũng đã suy nghĩ và thấy rằng đúng là tụi ta phải làm gì đó tựa như phải làm lại từ đầu.
Mẫn cảm thấy được khích lệ, khi đồng đội, đồng chí của mình không có ai phản bác lại. Anh tiếp tục:
– Vậy Võ Sĩ và tôi sẽ phải đi ngay trong hôm nay. Còn Rồng Xanh, anh sẽ phải đảm nhiệm cho một việc…
Nghe nhắc tới mình, Rồng Xanh lại phấn khởi hẳn lên:
– Vẫn vụ Ngô Đạt – Huỳnh Bá chứ?
– Đúng. Vẫn phải tiếp tục bám sát vụ đó xem sao. Không thể bỏ dở. Nhưng có thêm việc mới nữa…
– Nói đi tổ trưởng!
– Đề nghị Rồng Xanh về xin với cấp trên có thẩm quyền cho tạm bắt ngay lái xe Bảy Hựu của chú Năm Cường. Bắt phải bí mật.
Không riêng Rồng Xanh mà cả Võ Trần cũng hết sức ngạc nhiên.
Mẫn thong thả trình bày rõ ý mình: theo tinh thần mà toàn tổ đã nhất trí là phải tiến hành mọi việc gần như từ đầu, như vậy, hiển nhiên phải “sờ” tới tất cả những gì “cộm” lên từ đầu.
Trước hết là vụ trộm nhằm đánh cắp tài liệu ở nhà khách. Kế đó là vụ chiếc xe tải đã suýt nữa nghiền nát Mẫn trên một con đường vắng.
Và vụ thứ ba: “người nào đó” đã tìm tới Nguyên Nguyên và viết thư rung dọa ngăn chặn không cho Nguyên Nguyên để lộ ra bất cứ điều gì bất lợi chung quanh quán cà phê Tuổi Mộng. Rồi sau đó lại tiếp tục theo dõi, bám sát Nguyên Nguyên.
Cho tới nay hai vụ trộm và vụ xe tải, đã được bên sở công an thành phố chính thức kết luận không có vấn đề gì, như ta đã biết.
Vậy còn vụ thứ ba. Mà vụ này thì không còn nghi ngờ gì nữa: đúng là đã có một bàn tay bí mật nào đó thực hiện mà ta chưa rõ.
Vậy phải tập trung vào đó để suy nghĩ: Người ấy là ai? Và làm sao mà người đó lại có thể biết Mẫn đang muốn tìm tới Nguyên Nguyên? Cho tới khi lật ngược lại câu hỏi, Mẫn mới hé tìm thấy một lối thoát. Câu hỏi lật ngược ấy như sau: Mẫn đã làm gì để lộ cho người khác biết mình đang cần gặp Nguyên Nguyên?
Mẫn đã tự kiểm điểm mình, đã có lần nhớ lại từng cử chỉ, từng câu nói của mình xem dã có những sơ hở gì? Anh đã tiếp xúc với những ai?
Cuối cùng, tước bỏ mãi, sàng lọc mãi, thấy còn lại có hai người. Người thứ nhất không phải ai khác, chính là Thùy Dương. Thật vậy, chính Thùy Dương đã biết Nguyên Nguyên là Út Bơ. Và cũng chỉ có Thùy Dương biết anh đang rất muốn gặp Nguyên Nguyên.
Nhưng có lẽ nào? Lẽ nào Thùy Dương lại là người xấu?
Mẫn hoàn toàn không tin điều ấy. Anh chắc chắn rằng mình không hề vì tình cảm riêng mà có những nhận xét thiếu công bằng, thiếu sáng suốt.
Nhưng nếu không phải Thùy Dương thì là ai? Mẫn đã nhớ ra: khi Mẫn ra xe, Thùy Dương còn chạy ra theo để chào tạm biệt và ân cần, sốt sắng nhắc lại địa chỉ của Nguyên Nguyên vì sợ Mẫn quên. Không những thế, Thùy Dương lại còn đem cả ảnh của Nguyên Nguyên cho Mẫn mượn mang đi.
Như vậy chỉ có một người nghe được câu chuyện trao đổi ấy. Chỉ có một người nữa biết Mẫn đang muốn tìm đến gặp Nguyên Nguyên. Người đó chính là Bảy Hựu. Vậy nhất thiết phải tìm hiểu người lái xe này, nói cho đúng hơn: nhất thiết phải tạm giữ anh ta.
– Rồng Xanh ạ! Như thế đấy! Bạn có đủ tài năng để “lấy được ở trong miệng anh ta ra một cái gì đó”, một cách thật ôn hòa và có thể dễ chịu nữa, phải không? Tôi hoàn toàn tin ở bạn. Chúc bạn về Z lần này thắng lợi. Còn tôi với Võ Trần ngày mai cũng sẽ trở lại 123 để “trò chuyện” thêm với “ông Ba đáng quý” của chúng ta xem sao…
* * *
Quần xắn cao quá gối, bà người cùng thong thả đi trên bãi cát ướt, lổn nhổn vỏ sò, vỏ hến. Sóng trào lên mềm mại, âu yếm liếm những đôi bàn chân.
– Ông Ba ạ, ông vẫn chắc chắn là không thấy một người nào chú ý đặc biệt tới chiếc đồng hồ này chứ?
– Tôi đã báo cáo rõ với các anh. Hoàn toàn không. Tôi xin nghiêm chỉnh nói như vậy.
Ba Tín bối rối, im lặng suy nghĩ một lúc, rồi nói thêm:
– Tuy vậy, theo tôi, cũng có thể “người ấy” có mặt nhưng rất cảnh giác, nên đã không để lộ ra một thái độ nào hết, ngay với chính tôi.
Mẫn nhìn Ba Tín chăm chú:
– Ông tin như thế ư?
– Dạ, tôi phỏng đoán như thế!
– Ông có nghĩ là ông đã bỏ sót không mời một người nào đó không?
– Tôi có bỏ qua một số người quen sơ sơ và ở xa. Vì tôi nghĩ tín vật nhỏ mà lại là thứ đeo thường nhật như vậy, phải nhằm cho người luôn gần gũi tôi, hoặc ít ra cũng thường gặp tôi…
Mẫn mỉm cười gật đầu:
– Ông lập luận được đấy! Tôi muốn hỏi ông chuyện khác: Thôi tạm bỏ qua những năm 60, ông hãy nói lại cho tụi tôi nghe tỉ mỉ hơn về những năm ông bắt đầu làm việc cho “bác Phan” ấy!
Ba Tín lại cúi đầu trầm ngâm hồi lâu như để cố soát lại trí nhớ của mình.
… Như trong tờ khai tôi đã viết: đấy là vào dịp cuối năm 1969 nghĩa là sau biến cố Mậu Thân. Vụ đó tuy về quân sự cách mạng không thắng nhưng phải thừa nhận là về chính trị đã là một cái gì cực kỳ hệ trọng. Chính nó đã làm Mỹ phải nhận ra: không thể thắng bằng quân sự ở Việt Nam. Do đó, phải chuẩn bị cho một giải pháp thương lượng. Tất nhiên thương lượng ấy, giải pháp ấy phải có lợi cho Mỹ. Vì thế, như các anh đã biết cả rồi đó: một kế hoạch hậu chiến đã được Mỹ hoạch định và xúc tiến, trong đó công tác tình báo được coi vào loại hàng đầu. Cũng chính vì vậy mà một số nhân viên của tình báo ngụy đã được Mỹ “ngắt ngọn”. Và tôi nằm trong số đó.
Tôi còn nhớ từ mùa thu 1969 trở về trước, đứng chân ở thành phố này tôi vẫn thường xuyên chơi trò hai mặt: khi vào mật khu, tôi là cán bộ dân vận mà thực chất là tình báo. Khi trở ra tôi là nhân viên mật của Tổng nha cảnh sát ngụy. Vì Sài Gòn ở xa thi thoảng mới về được, cho nên tôi thường trực tiếp giao tài liệu và báo cáo với ty cảnh sát ở đây.
Võ Trần ngắt lời Ba Tín:
– Ông có những giao liên nào khác không? Và lưới của ông có những ai? Cái lưới của tình báo ngụy ấy?
Ba Tín lắc đầu:
– Tôi hoạt động hoàn toàn đơn tuyến. Như tôi đã báo cáo, tôi trực tiếp làm việc với ty cảnh sát, không có giao liên. Còn lưới thì tôi chưa làm được, vì bắt mối, xây dựng được một nhân viên tình báo trong hàng ngũ cách mạng là việc cực kỳ khó. Tôi rất sợ. Chính vì thế Tổng nhà vẫn thường hối thúc tôi về việc này. Cho tới mùa thu 1969 tôi được CIA bí mật tuyển dụng. Tôi làm việc với một người Mỹ tên là Giêm. Làm việc với CIA thì có nhiều tiền và có nhiều dịp xất ngoại. Nhưng tôi cũng rất sợ CIA. Nó đòi hỏi về nhiệm vụ thường rất cao, rất khó. Và đặc biệt là nó cũng rất dữ. Chỉ cần bị nghi ngờ “không trung thành” là bị thủ tiêu như chơi. Thậm chí có khi điệp viên vẫn trung thành đấy, nhưng CIA thấy hết tác dụng, hoặc có thể trở thành sự vướng víu nào đó cho những hoạt động của chúng, hoặc chúng muốn xóa một dấu vết là cũng có thể bị thủ tiêu tức khắc.
Võ Trần lại hỏi:
– Ông còn nhớ cùng dịp ấy những ai cũng được CIA tuyển mộ?
Ba Tín lắc đầu:
– Thưa quý anh, nghề gián điệp mà! Đơn tuyến, đâu có biết được thêm ai!
Mẫn nhắc:
– Ông nói tiếp về chuyện tên Giêm đi!
– Dạ! Nói cho đúng ra, tôi chỉ gặp Giêm trực tiếp có một lần vào dịp cuối 1969 tại Sài Gòn, ở một bệnh viện Mỹ. Còn từ đó, Giêm chỉ huy từ xa. Thoạt tiên, khi chưa có quán Tuổi Mộng tôi làm việc qua giao liên của Giêm từ Sài Gòn tới và bằng hòm thư mật. Hòm thư đó là đáy một chiếc bát nhang bằng xi măng trên một ngôi mộ ở nghĩa trang trên đường về Sài Gòn. Đó là mộ của một cô gái kém tôi 18 tuổi, tôi phải thú thực – mà có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời tôi nói ra với người khác về chuyện này – tôi thú thực chúng tôi đã yêu nhau, mặc dầu cô kém tuổi rất nhiều. Cô ở ngay cạnh nhà tôi, một cô gái trồng rau và trồng hoa, con một ông già góa vợ, đơn côi. Tiếc thay cô gái đã bị bệnh chết. Chính vì thế, kết hợp việc tháng tháng một mình thường buồn bã đi viếng mộ cô, tôi đã đặt luôn hộp thư mật ở đó để người của Giêm từ Sài Gòn lên lấy…
Mẫn ngắt lời Ba Tín:
– Ông nói rõ lại trong lần gặp trực tiếp, Giêm đã trao nhiệm vụ cho ông thế nào, và sau đó có gì thay đổi, hoặc bổ sung không?
– Giêm là một tên Mỹ cũng trạc tuổi tôi. Hắn rất lịch sự. Nhìn hắn ai cũng ngỡ là một giáo sư hoặc một nhà khoa học. Hắn tiếp tôi chỉ trong vòng 50 phút. Tôi vẫn nhớ đầy đủ, chưa hề quên: sau khi hỏi tôi nhiều chuyện linh tinh, cuối cùng hắn chỉ vắn tắt là: bây giờ ông cộng tác với chúng tôi, chúng tôi rất mừng. Ông sẽ được bảo đảm suốt đời về mọi mặt: tài sản cũng như tính mạng. Ông sẽ có một ngân phiếu ở ngân hàng Á Đông tại Băng Cốc. Chỉ cần có một điều: ông phải hết mình vì sự nghiệp của Tổ quốc ông, và đó cũng là sứ mạng vẻ vang của người Mỹ chúng tôi với tư cách là một đồng minh có cam kết. Tôi gặng hỏi: vậy tôi phải làm gì cụ thể. Giêm trả lời: xin ông hãy cứ làm thật tốt, tất cả mọi việc mà ông đang làm cho cảnh sát kể cả mọi việc mà phía Việt Cộng giao cho ông. Trước mắt, chúng tôi không yêu cầu gì hơn ở ông. Tất nhiên, ngoài ra, nếu ông thấy có tin tức gì cần thông báo cho chúng tôi xin ông cứ gửi cho. Chúng tôi rất hoan nghênh. Hắn nói vậy, tôi cũng có thể hiểu được trước mắt nhiệm vụ của tôi là tích cực chui sâu, trèo cao trong hàng ngũ cách mạng được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Còn về phía ngụy cứ im lặng tuyệt đối không cho chúng biết tôi đã là người của Mỹ.
Mẫn gật đầu.
– Đúng! Có lẽ ông đã nghĩ đúng.
Ba Tín tiếp:
– Gặp Giêm độ ba tháng thì thấy xuất hiện quán cà phê Tuổi Mộng. Tôi được báo cho biết: đó là cơ sở đi lại và giao thông của Giêm. Từ đó, hộp thư mật ở nghĩa trang coi như bỏ, không dùng nữa. Cho tới xuân 1975 tình hình biến chuyển quá mau, tôi mới được biết có người của Giêm tới để trực tiếp gặp tôi. Trong lúc thành phố đang hết sức nhộn nhạo, vào một buổi tối, tôi đã lọt vào được phòng văn hóa Mỹ và gặp một người Mỹ đen mà tôi đã khai trong bản tự khai…
– Ông cứ nhắc lại! Ông nhận được lệnh thế nào?
– Người Mỹ đen nói: thành phố và tỉnh này sắp rơi vào tay cộng sản. Lệnh của thượng cấp là: tôi phải ở lại không được rút chạy. Tôi ở lại không những không khó khăn gì mà còn rất thuận lợi vì tôi vốn vẫn đóng vai “cán bộ của cách mạng hoạt động hợp pháp”. Tôi có hỏi lại: Giả dụ Sài Gòn cũng sụp đổ nốt, Mỹ phải rút hết thì tôi phải làm gì? Người Mỹ đen cho biết: chính đây là chuyện quan trọng mà người đó được cấp tốc phái lên đây truyền đạt lệnh cho tôi. Nếu miền Nam rơi vào tay Cách mạng, ở lại là chuyển qua một thời kỳ hết sức khó khăn, sơ xuất một chút là dễ bị sa lưới. Cho nên Giêm đã quy định: nếu ngụy quyền miền Nam thất thủ, chính quyền Cách mạng được thiết lập thì lập tức tôi phải tạm đình chỉ việc liên hệ với cơ sở Tuổi Mộng. Như vậy cũng có nghĩa là tôi phải nằm im, thật im. Cho đến khi nào cần sẽ cho người tới bắt liên lạc, và sẽ có chỉ thị hoạt động.
– Còn gì nữa, ông thử nhớ lại xem người Mỹ đen ấy có nói người liên lạc là ai, và ai sẽ chỉ thị không? Hoặc y có để hé lộ ra là có một nhân viên CIA nào khác cũng đang ở lại đây, ngoài ông và quán Tuổi Mộng không?
Ba Tín suy nghĩ:
– Người Mỹ đen này cũng hết sức tinh khôn và thận trọng. Tôi cũng đã có hỏi đại ý nhưv ậy vì quả thật lúc ấy tôi hết sức hoang mang lo sợ. Tôi có hỏi, vậy tôi ở lại thì sẽ liên lạc với ai? Báo cáo với ai? Có ai chi tiền cho tôi không? Thì người Mỹ đen trả lời tôi một câu mà tôi hiểu vừa có ý để trấn an, vừa có nghĩa để răn đe tôi: “Ông cứ yên tâm! Ông không bao giờ cô đơn đâu. Người Mỹ nếu rút đi, nhưng con mắt và bàn tay người Mỹ vẫn còn ở lại. Như vậy ông vẫn luôn luôn được theo dõi và giám sát, kể cả giúp đỡ khi cần thiết. Lẽ cố nhiên ông thừa hiểu rằng: Ông chỉ cần biết có một điều là ông nên cố gắng để cho chính quyền mới tin yêu ông hơn nữa. Cho tới khi nào cần thiết thì sẽ có được chỉ thị của cấp trên. Có thể là sau một vài tháng nữa, nhưng cũng có thể một năm, hai năm, hoặc lâu hơn nữa…”.
Mẫn lại ngắt lời Ba Tín:
– Cấp trên ấy tức là Giêm chứ?
Ba Tín lắc đầu:
– Chỉ thấy nói: “Khi nào cần, sẽ có chỉ thị của cấp trên”. Vậy thôi, nhưng tôi chắc là Giêm.
– Ông không nghĩ tới một người nào khác và người ở ngay đây ư?
– Thưa, khi ấy và về sau này cũng vậy, tôi không hề nghĩ tới điều đó bao giờ. Tôi vẫn nghĩ: đó là Giêm. Dạ, đúng như vậy. Nhưng nay anh đặt vấn đề như thế này, tôi thấy cũng có lý. Ờ mà quỷ quái thật, sao suốt từ đó tới nay tôi cứ nghĩ cấp trên của tôi chỉ là Giêm, mà không có khả năng là một người nào khác, và người đó rất có thể cũng như tôi vẫn ở lại?
Nói xong, Ba Tín cứ ngẩn mặt ra mãi.
Ba người đi tới một bãi đá, có những hòn rất lớn tựa như cả một bầy voi đang kéo nhau ra biển tắm và uống nước. Phong cảnh thật vui mắt.
Ba người cùng trèo lên một tảng đá lớn nhất, nhẵn thín.
Mẫn tiếp tục hỏi:
– Vừa rồi ông có nói ông hoạt động đơn tuyến, không thành lưới có phải không nhỉ?
– Dạ.
– Vì không tổ chức nổi, hoặc thấy không cần tổ chức? Tôi muốn ông nói rõ lại.
– Thưa, như đã nói đầu tiên tôi chỉ là một điệp viên của Sài Gòn. Và tổ chức tình báo đó thật ra cũng chưa có gì thật tài giỏi, cao siêu. Nói chung là còn thô sơ lắm. Họ chỉ cần có tin. Tôi về phân khu nghe được gì, thấy được gì, về báo cho họ. Thế là họ hài lòng rồi, nhất là thấy hầu hết tin của tôi đều chính xác. Lẽ thứ hai, như tôi đã trình bày muốn tổ chức được một nhân mới trong hàng ngũ cách mạng là việc cực khó. Tôi rất sợ. Sợ vì việc đó mà mình bại lộ…
– Hãy cứ cho là như thế. Còn thời Mỹ? Ông có lưới không? Lưới của CIA ấy mà!
Ba Tín lắc đầu:
– Cũng vậy thôi. Tôi không có ai là cộng sự, là nhân viên, ngoài quán Tuổi Mộng là cơ sở giao thông, liên lạc. Vì, như tôi đã báo cáo, chuyển sang làm việc cho CIA từ cuối 1969, nhiệm vụ chính của tôi là cứ làm việc thật tốt cho cách mạng có nghĩa là để chui sâu, leo cao càng thêm được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Đó là tôi hiểu như vậy. Giêm không bao giờ thúc giục hoặc đòi hỏi tin tức nhiều ở tôi, trừ mấy tháng cuối cùng của chiến tranh. Suốt mấy năm, Giêm chỉ đòi hỏi tôi báo cáo chủ yếu về công tác phản gián của cách mạng đang có những việc gì, vụ gì, hiện tượng gì đang phải quan tâm. Tóm lại tôi cảm thấy nhiệm vụ chính của tôi vẫn là gắng nằm im leo cao chui sâu, còn nhiệm vụ phụ mà Giêm đòi hỏi ở tôi là phát hiện xem: nhân viên CIA có ai đã bị phát giác, ai bị theo dõi. Xin lỗi, cho phép tôi dùng một từ để ví von, tôi cảm thấy tôi như còn được dùng làm công tác bảo vệ, an ninh cho các nhân viên của CIA ở bên kia chiến tuyến. Tức là ngay trong lòng hàng ngũ của cách mạng.
Mẫn lại cắt ngang lần nữa:
– Tôi hiểu: Ông đã được dùng như một nhân viên chủ yếu để canh chừng, bảo vệ cho các nhân viên, hoặc một nhân viên khác của CIA mà người đó lại có thể chính là X.15. Có phải không?
– Ủa!
Ba Tín thốt lên một tiếng kinh ngạc rồi lặng đi. Kinh ngạc vì một lần nữa người trẻ tuổi này lại tung ra một nhận định hết sức bất ngờ. Nhưng Ba Tín cũng kinh ngạc cả vì sự mù mờ của chính mình trước đây.
– Dạ! Có thể là như vậy. Nếu quả thiệt như vậy, thì ra… đầu óc tôi vẫn còn rất nông cạn. Mà sao tôi lại không khi nào nghĩ tới điều ấy nhỉ?
Mẫn im lặng một lúc rồi đặt tiếp một câu hỏi mới:
– Về những quan hệ của ông với CIA, hãy tạm vậy. Sau đây còn gì tôi sẽ hỏi thêm. Bây giờ muốn ông nói tới quan hệ và công việc của ông đối với bên cách mạng.
– Tôi đã khai rõ: tôi vẫn là một cán bộ hoạt động hợp pháp dưới cái vỏ bọc một dân nghèo ở một ấp ven thành chuyên đi làm thuê hoặc nề, hoặc mộc có khi dạy học tư, có khi làm thư ký nhà buôn. Vợ tôi thì trồng rau, trồng hoa. Nhiệm vụ mà phân khu giao cho tôi làm công tác dân vận, là để thu lượm tin tức về địch. Để gây được tín nhiệm, tôi đã thường xuyên cung cấp tin tức về phân khu. Những tin tức ấy đều xác thực, nhưng thực chất, tôi đã tự thú, toàn là những tin vặt vãnh. Ít có tin quý!
Võ Trần ngắt lời Ba Tín:
– Ông làm cán bộ dân vận vậy ông có bao nhiêu cơ sở và những cơ sở nào?
Mẫn gật đầu. Theo anh, đây là một câu hỏi rất sắc, chính anh cũng chưa kịp nghĩ ra:
– Nói chung, tôi không có cơ sở, là vì thực chất tôi có làm công tác dân vật thật hết lòng cho cách mạng đâu, mà cần phải lăn lộn xây dựng cơ sở? Tôi thú thực như vậy. Tôi về phân khu báo cáo là có nhiều cơ sở, nhưng toàn là báo cáo láo cả. Các vị lãnh đạo đều tin hết. Cho tới 1969 cách mạng cũng nhận định tình hình đã có chuyển biến. Do đó song song với việc đẩy mạnh các hoạt động quân sự, cách mạng cũng tích cực chuẩn bị cho một giải pháp chính trị hòa giải và hòa hợp. Do đó công tác chuẩn bị cơ sở trong quần chúng đã được quan tâm nhiều hơn trước. Cũng vì vậy tôi đã được hối thúc hơn bao giờ hết về việc xây dựng cơ sở quần chúng, không những hối thúc mà đã nhiều lần các vị lãnh đạo còn đòi hỏi tôi: nếu có những cơ sở vững và có vị trí, có ảnh hưởng tốt trong quần chúng, cần đưa vào mật khu để các đồng chí ấy trực tiếp tiếp xúc. Bởi thế tôi đã phải buộc lòng xây dựng lấy một cơ sở để có cái mà báo cáo. Nói cho chính xác hơn: tôi đã xây dựng được một số cơ sở. Cũng không ngờ, lúc đầu tưởng chỉ để có cái mà báo cáo, nhưng rồi những cơ sở ấy lại hoạt động tốt ngoài cả ý định của tôi. Và nhờ đó, tôi càng được lãnh đạo tin cậy.
– Là những ai vậy? Bây giờ các cơ sở ấy còn không, và ở đâu?
– Thưa, có phải ai đâu xa lạ. Đó là anh Lê Vi hiện nay. Còn một anh nữa thì đã chết từ 1972.
Không khỏi ngạc nhiên Mẫn hỏi:
– Sao? Ông nói sao? Anh Lê Vi và một người nữa?
– Dạ, thưa phải! Nhưng xin các anh lưu ý cho, đừng lầm: tôi nói là cơ sở thứ thiệt, cơ sở hoạt động cho cách mạng, chứ không phải là “lưới”. Các cơ sở ấy đã bị tôi dùng làm “bình phong” để giữ tín nhiệm với cách mạng.
Mẫn nhắc:
– Ông nói rõ lại xem sao?
Ba Tín lại cất cái giọng đều đều và trầm đục, kể lại rằng năm 1969, sau khi được chỉ thị phải tích cực đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở, nhất là những cơ sở có thể có tác dụng trong những trường hợp sau này có bầu cử hoặc có chính phủ liên hiệp ba thành phần, Ba Tín trở về điểm mặt lại những người quen biết, thấy loại “lôm côm” nhiều hơn là những người có uy tín, có ảnh hưởng tốt trong quần chúng. Đang lúc phân vân thì tình cờ một buổi đi đường, Ba Tín gặp Vũ Nhâm một cán bộ bị tù cùng thời với Ba Tín ở Côn Đảo… Hai người gặp nhau rất mừng, đưa nhau tới một công viên vắng trò chuyện. Vũ Nhâm cho biết sau khi Tín được tha độ bốn tháng thì đến lượt Vũ Nhâm. Anh quay trở về quê ở một tỉnh thuộc Cực Nam Trung Bộ. Nhâm đã bắt liên lạc được với Đảng khá thuận lợi. Vũ Nhâm đã tham gia công tác xây dựng cơ sở vũ trang ở địa phương. Tết Mậu Thân, anh chỉ huy một đại đội biệt động đánh chiếm được một nửa thị xã. Sau đó địch phản kích, đơn vị thiệt hại gần hết. Cuộc tập kích chiến lược kết thúc, thì cũng là lúc địch phản công, càn quét trên toàn lãnh thổ. Cơ sở cách mạng tan vỡ gần hết, từ nội thành tới nông thôn. Bộ đội chủ lực phải chạy giạt sang đất bạn. Nhâm cố ở lại, hoạt động ở ven thành, nhưng suýt mấy lần bị bỏ mạng. Cuối cùng sức ép của địch quá mạnh, Nhâm mất hết liên lạc với đảng bộ địa phương, phải bạt lên Sài Gòn. Ở Sài Gòn cũng không yên, phải bạt tới thành phố Z, Vũ Nhâm mới tới đây được nửa năm, đang làm thuế cho một hiệu thuốc. Ngoài việc làm thuê kiếm sống, Nhâm còn tự khai thác được tài võ thuật của mình, có nghĩa là mở lớp dạy võ. Lúc đầu còn ít người học, sau đông dần. Toàn là thanh niên con nhà tử tế và có tinh thần dân tộc. Nhiều anh rất bức xúc trước thời cuộc, họ muốn rèn luyện, muốn trau dồi cho mình một khả năng nào đó. Người thì học nghề, người thì học võ để hộ thân…
Vũ Nhâm hỏi Ba Tín làm gì ở đây. Ba Tín giấu, nói là mình cũng sống ẩn, đi làm thuê. Hai người từ đó thân nhau. Cho tới khi thật hiểu, thật tin nhau. Ba Tín mới thổ lộ cho Vũ Nhâm biết là mình cũng đã có liên lạc với cách mạng ở đây, Vũ Nhâm mừng lắm.
Sau khi được Ba Tín cho biết ta đang cần phát triển lực lượng, Vũ Nhâm đã giới thiệu cho Tín một thanh niên hăng hái, tốt nhất trong số thanh niên tới học võ: anh Lê Vi. Vũ Nhâm cho Tín biết rõ hơn: Lê Vi vốn là một cán bộ của ta. Anh là bí thư thanh niên của một liên xã thuộc một tỉnh ở miền Tây Nam Bộ. Thuở nhỏ anh đã là một thiếu sinh quân, làm giao liên cho bộ đội tỉnh. Vùng quê anh bị càn quét triệt để từ năm 1966 – 1967. Anh bị lộ và được cấp ủy Đảng cho chuyển vùng, thoát ly. Nói tóm lại, hoàn cảnh của Lê Vi cũng ná ná như Vũ Nhâm: là cán bộ bị bật rễ khỏi quê hương và mất liên lạc với cách mạng.
Ba Tín về mật khu báo cáo và xin chỉ thị, Ba Tín đã nhấn mạnh đây không phải là một trường hợp giác ngộ và tổ chức một quần chúng bình thường, mà là việc nối lại liên lạc với một cán bộ cách mạng. Phân khu rất mừng, tuy nhiên cũng chỉ thị cho Ba Tín cần phải thử thách người cán bộ trẻ này một thời gian.
Chỉ sau vài tháng, Lê Vi đã hoàn toàn được phân khu tin tưởng qua những tin tức và tài liệu do anh lấy được của địch đưa Ba Tín chuyển về. Anh đã tỏ ra một người có năng lực và đầu óc tổ chức, sáng tạo. Nhiều đồng chí lãnh đạo đều ngỏ lời khen ngợi người cán bộ trẻ tuổi này.
Sau khi Z được giải phóng, Lê Vi đã giúp cho bên công an rất đắc lực trong việc truy lùng những tên ác ôn còn lẩn trốn, không chịu đi cải tạo. Thậm chí anh đã phát hiện và chỉ cho công an truy tìm tóm được đúng tên trưởng ty cảnh sát ác ôn của tỉnh đang giả làm sư, ẩn núp trong một ngôi chùa hẻo lánh…
Ba Tín đã kể lại việc xây dựng tổ hoạt động hợp pháp của mình tuy hơi dài, nhưng lại khá cụ thể và tỉ mỉ làm cho Mẫn rất hài lòng. “… Tóm lại, mặc dầu anh là cấp dưới, là cơ sở của tôi, tôi đã phải chịu ơn Lê Vi, vì ảnh đã hoạt động tốt mà tôi được thêm uy tín. Tuy vậy, nhớ lại trước đây, vì anh ấy thông minh quá, thú thực nhiều lúc tôi cũng sợ. Sợ không phải ai khác mà sợ chính anh sẽ phát hiện ra tôi là ai. Nên, tuy thân, tôi vẫn phải luôn luôn hết sức đề phòng”. Ba Tín nói tiếp:
– Thế còn Vũ Nhâm, ông nói lại chút nữa đi – Mẫn vẫn chưa chịu thôi.
– Từ 1972 Nhâm không còn ở đây nữa. Vì về sau, không hiểu sao, anh chán nản, dao động, nhất là khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, anh xin thôi công tác, lấy cớ ốm đau, và trở về quê làm vườn chăn nuôi sinh sống. Rồi chết cuối năm đó.
– Nhưng liệu Nhâm có chết thật không? Tôi hỏi không đùa đâu! Ông có biết địa chỉ của Vũ Nhâm không?
– Dạ, có! Anh có gửi thơ cho tôi đôi ba lần. Vẫn còn nhớ được địa chỉ. Theo tôi, thì Vũ Nhâm đã chết thực. Lẽ nào…