← Quay lại trang sách

Chương III ❖ 1 ❖

Tôi sử dụng máy vi tính để in khuôn mặt của Lotimy lên chiếc áo t-shirt của tôi. Nụ cười của cô thật điềm tĩnh và buồn bã. Mái tóc che khuất một bên mắt, như thể cô đang nhìn trộm thế giới này. Tôi nghĩ nhất định có người đã nhìn thấy cô và sẽ báo cho tôi biết tin tức của cô. Gió mùa thu đem theo cái lạnh như từ dưới lòng đất xông lên. Tôi định đến vũ trường của Nhà hàng Côn Luân để khiêu vũ. Trong thành phố này, tôi đã quen với việc phải nhảy một điệu nhảy cô đơn. 11 giờ đêm, tôi đi ra khỏi nhà, gọi một chiếc taxi, chạy về phía Đông San Hoàn.

Từ đường cầu vượt của Trung tâm mậu dịch quốc tế, đi thẳng về phía Bắc là khu sứ quán, nơi đó có rất nhiều nhà hàng cao cấp, thương xá và văn phòng giao dịch. Tất cả đều tràn ngập sự quí phái, sang trọng. Chiếc taxi dừng lại trước cửa nhà hàng Côn Luân, tôi xuống xe đi vào bên trong, tiến thẳng đến sàn nhảy.

Tôi đã đến đây vài lần. Sàn nhảy Disco ở đây hay lắm. Trước 22 giờ, thường xuất hiện toàn những thanh niên ăn diện theo kiểu sinh viên. Từ 23 giờ tối là thời điểm mà những người ăn mặc kỳ quái sẽ tới đây. Tôi rất thích không khí trong vũ trường này bởi nó tràn ngập vui vẻ và tự do. Ở đây có rất nhiều người ngoại quốc. Có người để những kiểu tóc “thời trang nghệ thuật” quái dị. Tôi luôn đến đây trong đêm tối bởi vì muốn thâm nhập vào giấc ngủ cô đơn của thành phố. Trên một góc độ khác, chính là để đánh thức trái tim sắp khô héo của mình. Tôi uống trước một lon Pepsi Cola.

Sau đó, tôi tham gia nhảy điên cuồng giữa đám người trong ánh đèn nhấp nháy. Người người như thể những cành cây bị gió lớn đẩy đưa, có khi lại giống như một thứ đồ chơi điện tử nào đó. Trong nháy mắt, tôi tưởng chừng mình đã xuống địa ngục, vì sau 23 giờ, có vẻ như tất cả các quái nhân của thành phố đều đến đây. Ở đây đang tụ tập những cảnh tượng kỳ quái. Theo cách ăn mặc, bạn có thể suy đoán ra tính cách của họ, là người đồng tính, kỹ nữ, dân lừa đảo, thương gia giàu có, nghệ sĩ, diễn viên, những kẻ thất tình hoặc người có căn bệnh cô đơn nơi đô thị. Tôi tốn 100 đồng tiền vé vào cổng cũng chỉ vì muốn tham gia vào hàng ngũ của họ. Tôi ngày càng lún sâu trong lòng bàn tay của thành phố. Tôi rất giống người leo núi, đang từ trong lòng bàn tay của thành phố mà trèo lên, nhưng bất cứ lúc nào tôi cũng có thể bị té xuống mà chết. Tôi phải bước vào một tầng lớp xã hội mới. Trong một xã hội phân chia giai cấp với tốc độ như vậy, tôi phải sống thật thoải mái. Tôi cho rằng đây cũng là cách suy nghĩ của nhiều thanh niên như tôi. Nhưng hễ cứ ra vào nhà hàng lớn, tôi lại cảm thấy vô cùng thất vọng, vì nơi đó không có một món đồ nào thật sự thuộc về tôi. Ánh đèn quí phái, hoa lệ với không gian sang trọng ư? Những thứ đó chẳng bao giờ thuộc về tôi, cũng như tình yêu của Lotimy, thực ra cũng chưa từng thuộc về tôi vậy.

Mới ngày hôm qua, trên truyền hình, tôi nhìn thấy một phụ nữ trộm cắp rất xinh đẹp. Cô gái ấy bị bắt về tội ăn trộm mấy triệu đồng của nhà hàng Bắc Kinh! Lúc đó tôi đã than thở trước ti vi: Ôi! Một cô gái xinh đẹp! Cô ta lấy cắp những mấy triệu đồng cơ à! Kỳ thực, cô ta có thể lấy một người bình thường, ví dụ như tôi - một nghệ sĩ tự do chẳng hạn. Nhưng tôi biết cô ta không nghĩ như vậy. Nhiều phụ nữ khác cũng không suy nghĩ như vậy. Phụ nữ Trung Quốc ngày nay đã thật sự thay đổi một cách kinh thiên động địa rồi, nhưng lũ đàn ông thì lại không phát hiện được vấn đề này một tí nào hết. Không thể không nói rằng đó là một điều đáng tiếc.

Tôi cảm thấy toàn thân nóng bừng. Tôi cởi bỏ áo khoác ngoài ra, để chung một chỗ với chiếc áo khoác bằng bông hai lớp. Một cô gái ngoại quốc tóc vàng, xương chậu to lớn dùng mông đụng vào tôi, tôi cũng dùng thân mình đụng lại. Ánh đèn trong vũ trường biến ảo cực kỳ quái dị. Tôi nghĩ mình nhất định sẽ nhảy múa hết mình trong cái địa ngục này cùng với những nam thanh, nữ tú chết vì biển dục vọng kia. Lát sau tôi thở gấp như một con cá sắp chết đuối. Tôi rời sàn nhảy, chạy đến bên cạnh quầy giải khát như chạy trốn khỏi núi Mackie giữa miền trung châu Mỹ vậy.

Tôi đứng đó làm một ly nước suối, toàn thân vã mồ hôi, chiếc áo T-Shirt có hình Lotimy và tôi cùng u sầu nhìn vào thế giới. Khi ấy, tôi bỗng phát hiện một người mặc veston màu trắng từ chỗ tối bước đến bên tôi. Tóc anh ta rất dài, nhưng cột lại để sau gáy. Anh ta kẹp một cái nơ, giống như một thân sĩ nghệ thuật gia, nhưng sao anh ta lại qua đây? Anh ta ngồi bên quầy rượu kia chẳng tốt hơn sao? Trong lúc suy nghĩ đó thoáng qua, tôi nghe một giọng khàn khàn cất lên hỏi:

“Cô ấy là ai? Anh quen cô ấy à?”, anh ta chỉ vào chiếc áo t-shirt có hình Lotimy mà hỏi.

“Này, tôi có biết anh” - tôi nói - “anh chính là họa sĩ Hà Triết Luân nổi tiếng ở nước Mỹ phải không!” Tôi đột nhiên nhớ tới bản danh sách 5 người mà viên thám tử tư kia cung cấp có tên anh ta. Hà Triết Luân là một thành viên trong “Trường phái tranh Thượng Hải” nổi tiếng. Những bức tranh cổ điển của anh ta đậm nét phong thái cổ xưa được một tập đoàn tài chính lớn của Mỹ để ý đến và mua. Tranh của anh ta không dưới một triệu nhân dân tệ một bức. Nội việc đó cũng đủ để giới thiệu và đề cao anh ta. “Lotimy là bạn tôi. Tôi cũng đang tìm cô ấy. Chúng tôi đang cùng tập diễn chung một kịch bản nhưng cô ấy lại biến mất rồi”.

“Cô ấy là một kẻ lừa đảo, không phải vậy sao?”, anh ta bước tới, liếc nhìn tôi và nói.

“Hả? vậy sao? Tôi chưa nghe nói đến chuyện này?”.

“Cô ấy lừa tôi cả thảy 3 bức tranh, những bức tranh rất tuyệt. Sau đó cô ấy bỏ chạy theo một lão già. Lúc đó tôi vừa mới tới Mỹ”, anh ta hơi tức giận. “Vậy mà cô ấy lại còn nói là muốn sống chung với tôi”.

“Cô ấy từng làm người mẫu cho anh có đúng không?”.

“Vâng. Trong bức “Nhã ca” của tôi, người phụ nữ thứ 3 bên tay trái chính là cô ấy”.

Tôi sực nhớ tới người phụ nữ mặc sườn xám Trung Quốc đang chơi một loại đàn cổ. Xem ra Hà Triết Luân đối với Lotimy có lẽ là vừa yêu lại vừa hận. Tôi nói: “Sao mình không ra ngoài đại sảnh ngồi? Ở đây ồn quá, chỗ này là chỗ của mấy thằng điên”.

Trong khi chúng tôi đi ra ngoài, anh ta nói: “Tôi ở đây chờ một người bạn, nhưng anh ta lại không đến”. Tôi cảm thấy ở Hà Triết Luân có một ma lực nào đó, một loại lực hấp dẫn của thời đại này. Nó do tiền bạc đúc kết mà ra, lấy nguồn gốc nghệ thuật bác đại làm nền tảng của nó. Chúng tôi ngồi tại quầy bar đại sảnh, tôi gọi một ly trà, anh ta dùng cà phê nóng.

“Anh Hà này, anh muốn tìm ra cô ấy, anh sẽ xử lý cô ấy như thế nào? Đem giao cho pháp luật chăng?”.

“Không, không đâu!”, anh ta xua tay. Đã qua tuổi thanh xuân nhưng khuôn mặt anh ta vẫn giữ được những nét tươi trẻ. “Tôi muốn vẽ một bức họa cho cô ấy. Tôi đã hứa với cô ấy. Chuyện ba bức họa đó, coi như tặng cho cô ta được rồi. Lotimy là một người phụ nữ mang những nét xúc cảm đa dạng, tôi làm sao hận cô ấy được?”.

“Nhưng cô ấy đã biến mất, chỉ để lại một tấm ga giường có dính một vết máu”. Tôi nói. “Nhưng tôi tin rằng cô ấy chưa chết, chỉ là lang bạt trong thành phố mà thôi”.

Mắt anh ta sáng lên: “Nửa tháng trước, cô ấy có gọi một cú điện thoại cho tôi từ khách sạn Á Châu. À, tôi còn có cả số phòng của cô ấy nữa. Hay là chúng ta đến đó tìm cô ấy? Mai tôi phải đi Mỹ rồi. Tôi muốn gặp cô ấy, anh cũng vậy phải không?”.

“Ok!”, tôi mừng rỡ nói.

Tôi ngồi lên chiếc xe Crown của Hà Triết Luân. Trước kia tôi cũng đã từng ngồi trên một chiếc Crown của người vợ một thi sĩ nổi tiếng bị lưu lạc tại Châu Âu (bà ta là một họa sĩ nổi tiếng). Tôi biết ở Bắc Kinh, các nghệ nhân được người ngoại quốc đề cao đều có một chiếc xe tương đối xịn. Xe của chúng tôi chạy về phía nam, từ nút đường nhà hàng Đào Long quẹo sang hướng tây, ngang qua khách sạn và sân vận động của người lao động thành phố, đến ngã tư đường Đông Tứ. Trong xe, chúng tôi chẳng ai nói với ai một lời. Tôi nghĩ Hà Triết Luân nhớ đến Lotimy vì phải chăng anh ta muốn kiếm thêm ít tiền dựa vào việc vẽ thêm một bức họa của cô ấy? Anh ta đã là một gã thành công rồi! Đậu xe xong, chúng tôi băng qua đường, đi vào nhà hàng Á Châu.

Chúng tôi lên lầu mười bằng thang máy. Tôi theo sát bước chân nhanh nhẹn của Hà Triết Luân. Ánh đèn lắng dịu trên tấm thảm dày cộm giữa hành lang. Không một tiếng động. Tôi theo anh ta đến trước cửa một căn phòng, anh ta gõ một tiếng, không thấy tiếng trả lời. Một cô phục vụ đi đến.

“Cô gái tên là Lotimy còn ở đây không?”, tôi hỏi.

“Dạ, cô ấy đi rồi. Cô ấy chỉ ở đây có 3 tuần, thưa ngài”.

“Thế hả, xin cám ơn”. Tôi và Hà Triết Luân đều có vẻ tiếc rẻ. Chúng tôi xuống thang máy. Lúc này lòng dạ tôi rối bời. Tôi bỗng thấy cuộc tìm kiếm này chẳng có mục đích ý nghĩa gì. Tôi tìm cô ấy để có thể có được tất cả tình yêu của cô ấy chăng? Không! Trong thời cuôc đổ nát này, bản thân tình cảm vốn cũng đã tan nát rồi. Thế thì tại sao tôi còn muốn tìm cô ấy? Cuộc tìm kiếm của tôi thực chất chỉ là đi tìm lại chính mình, chỉ là để khỏi phải tuyệt vọng trong việc đi tìm lại chính mình mà thôi. Chúng tôi xuống lầu, đi qua đại sảnh và bước ra ngoài. Tôi nhận thấy tâm trạng của Hà Triết Luân hình như có chút buồn bã. Chúng tôi ngồi vào xe hơi của anh ta, anh ta đặt tay lên vô lăng, một lát sau, anh ta nói: “Anh thấy tôi buồn cười lắm phải không?”.

“Không, không đâu”, tôi nói. Trong xe hơi, tôi như một bóng đen.

“Tôi là người chứng kiến sự trưởng thành của cô ấy. Tôi với cha cô ấy là bạn thân. Năm 1977, cha cô ấy qua đời, khi đó cô ấy mới 7 tuổi. Tôi bắt đầu giữ vai trò như cha đẻ của cô ấy. Năm 14 tuổi, lần đầu tiên cô ấy bước vào hội họa của tôi. Từ đó cô ấy càng ngày càng xinh đẹp.  Năm cô ấy 17 tuổi, chúng tôi phá vỡ rào cản tình cảm của hai thế hệ con người. Anh có hiểu ý tôi nói gì không?”. Mắt anh ta như rưng rưng ướt lệ giữa ánh đèn yếu ớt trong bóng tối. Tôi gật gật đầu. “Tôi là người đầu tiên biến cô ấy thành đàn bà. Đàn ông chính là nơi tốt nhất để một người phụ nữ trưởng thành. Hai năm sau, cô ấy rời bỏ Thượng Hải đi học trường sân khấu kịch. Tôi nghĩ rằng cô ấy muốn rời xa tôi. Nhưng năm 1988 sau khi đã thành danh tại Mỹ, tôi quay về Bắc Kinh gặp cô ấy. Lúc này Lotimy đã hoàn toàn là một phụ nữ. Cô ấy nói với tôi rằng tình cảm của cô ấy đối với tôi rất phức tạp. Năm ngoái, một lần nữa tôi gặp lại cô ấy. Sự thay đổi của cô ấy làm tôi ngạc nhiên. Sau đó, vào một đêm kia, cô ấy lấy cắp của tôi 3 bức họa có chủ đề chính là cô ấy rồi lén rời xa tôi. Từ đó đến nay tôi không còn gặp cô ấy nữa. Tôi nghĩ rằng cô ấy hận tôi. Cô ấy luôn hy vọng tôi có thể bù đắp lại cho cô ấy, đúng không?”.

“Không biết nữa” - Tôi lạnh lùng nói - “Ông đang chạy đi đâu vậy?”.

“Quảng trường danh nhân. Tôi có nhà ở đó, anh có muốn đi chung không?” Anh ta nói.

“Không, tôi đi xe điện ngầm được rồi”. Tôi nói. “Cám ơn anh!” rồi mở toang cửa xe. Lúc đó anh ta bỗng tặng cho tôi một tờ giấy lớn viết tay, cỡ nửa phong thư. Cầm trên tay, tôi mới biết đó là một tấm danh thiếp.

“Nếu như anh gặp cô ấy, nói cô ấy gọi điện cho tôi nhé. Tôi muốn đưa cô ấy sang Mỹ học đại học, tôi lo toàn bộ học phí nếu như cô ấy tính học cử nhân điện ảnh. Nói với cô ấy rằng tôi nhớ cô ấy! Đúng rồi, quên hỏi anh...”

“Huko” - tôi nói. “Tên tôi là Huko”.

“Huko, nếu như anh cũng thích Lotimy, hãy làm cho cô ấy trở thành một cô gái tốt. Cô ấy không lấy ai hết, nhưng đấy không phải là biện pháp. Tạm biệt!”.

Anh ta đau buồn nổ máy xe, quay sang tôi vẫy tay. Chiếc xe chạy hướng theo đường Nhị Hoàn rồi mất dần trong bóng tối của cao ốc Bảo Lợi. Tôi ngẩn người đứng đó một hồi. Tôi nghĩ mình cần phải làm gì mới lấy lại được dũng khí đây?. Bèn chặn một người lại, tôi nói:

“Muốn đánh lộn không? Tôi muốn đấm chết anh!”.

“Không, tôi nhát gan lắm”. Người đó mặc áo khoác, nhún vai một cái rồi tránh sang bên đường.

Tôi cười phá lên, tiếng cười vỡ vụn trong đêm tối và gió lạnh. Tôi chợt nhớ ra khuya như vậy thì làm gì còn tàu điện ngầm, liền vẫy tay gọi taxi.  Tôi chẳng thấy có gì là vui nhưng bỗng cười rống lên. Tại sao tôi lại phải cười?