Chương I
Vẫn còn đó cho em
Giữa màn đêm tĩnh lặng
Làn xiêm y cháy sáng
Mãnh liệt: một linh hồn.
GEORGE SZIRTES
- trích Dressing
1Sáng nay, lần đầu tiên sau nhiều năm, tôi mới đi ngang qua cái cửa hàng đó trên phố Seymour. Một tấm biển u sầu treo trước cửa sổ thông báo cửa hàng đang chuẩn bị đóng cửa hẳn. Qua lớp cửa kính, tôi thấy những giá treo đồ bỏ trống đến quá nửa, tưởng chừng như những chiếc váy đầm, áo khoác, áo cánh và áo len đã đào thoát đêm qua, vỗ phần phật những cánh tay trống rỗng và mất tăm xuống phố.
Eunice đang ở đó, đằng sau quầy tính tiền, vuốt vuốt những ngón tay sơn nhũ bạc lên mái tóc nhuộm màu xanh đen. Trông bà ấy mới già nua, lẻ loi và cô độc làm sao! Cằm bà gục xuống ngực trong chốc lát.
Rồi tôi thấy Eunice choàng tỉnh, ngẩng lên, một tay khum khum đỡ lấy cằm. Bà nói to đôi ba từ với chính mình. Cố gắng lên nào!
Một sự thôi thúc, một nỗi nhói đau mãnh liệt của niềm thương cảm, dẫn tôi vượt qua cánh cửa. Tôi bước vào trong. Căn phòng sực nức mùi nước hoa, thứ mùi không thể lẫn vào đâu của Eunice, nước hoa eau de nil & gold của Revlon’s Aquamarine.
– Cô đấy ư, Vivien? Có thực là cô không, sau cả ngần ấy năm trời? - Eunice thốt lên.
– Vâng, là cháu đây.
– Tôi đoán đúng mà. Mà sao trước đây tôi không bao giờ thấy cô nhỉ?
– London rộng lớn lắm, cô Eunice à. - Tôi đáp.
– Ai đó có thể biến mất dễ dàng chứ tôi thì không đâu. Tôi vẫn cứ ở đây suốt. Cô biết tìm tôi ở đâu mà.
– Nhưng cháu không định tìm cô, thưa cô Eunice. Cháu xin lỗi.
Cháu chưa bao giờ đến xem Eunice sống như thế nào sao? - giọng ông bác tôi hét vang trong đầu tôi. Cháu đã bỏ cô ấy trơ trọi một mình như một con chó. Ôi! Eunice của ta! Cháu thậm chí còn không thể tạt vào cửa hàng để mua một đôi găng tay hay sao?
– À, cũng phải thôi. Tôi với cô chẳng có chuyện gì để nói với nhau cả - Eunice nói, ném vào tôi một cái nhìn chòng chọc kiêu kỳ, mũi hếch lên còn vai thì so lại. - Thế gia đình cô thì sao rồi?
Đôi vai của Eunice căng lên dưới lớp áo vest trong lúc bà cúi xuống vuốt vuốt cho phẳng mấy cái ly hộp của chiếc váy. Ba chiếc cúc mạ vàng khắc hình hoa huệ tây sáng lấp lánh ở tay áo vest, phía trên chỗ xương cổ tay của bà lồi lên lấm tấm tàn nhang. Tôi nhận ra chiếc đồng hồ vàng Eunice đang đeo. Bác tôi đã tặng nó cho bà. Đó là chiếc đồng hồ hiệu Omega, nhãn hiệu ưa thích của bác tôi. Nó vẫn chạy đều, tích tắc.
– Bố cháu mất hồi tuần trước - tôi trả lời Eunice. Thật là lạ khi nói về ông như một người đã thuộc về dĩ vãng và phải làm quen với ý nghĩ rằng tôi sẽ không bao giờ được gặp lại người cha khó tính của mình. Bất kể điều gì còn mắc mứu giữa ông và tôi, điều đó sẽ mãi tồn tại như vậy cho đến khi hai bố con gặp lại nhau ở thế giới khác, đúng vậy, ở thế giới bên kia.
– Tôi mới gặp ông ấy có hai lần. Chẳng lần nào dễ chịu cả, cô cũng biết đấy. Nhưng mẹ cô thì lại rất khác với cha cô. Bà vẫn còn sống chứ?
– Không. Mẹ cháu mất cách đây 16 năm rồi.
– Ôi, thật là đáng buồn! Bà ấy quả đúng là một quý bà. Tôi rất lấy làm tiếc là mẹ cô ra đi quá sớm. Thế còn anh ta? Điều gì đã xảy ra với anh ta? Ồ, đừng có nhìn tôi ngây thơ như vậy. Cô biết ý tôi muốn nói đến ai mà.
Phải, tôi nhớ chứ. Nhớ tiếng cười bất thình lình phá lên, để lộ hàm răng nhọn nhỏ và cái miệng gợi tình. Nhớ đôi tay anh ta đang vê vê điếu thuốc lá. Nhớ đôi giày ống vải canvas màu đỏ. Nhớ mái tóc đen dựng đứng của anh ta. Cả chiếc áo phông, chiếc mũ lưỡi trai và cái bể cá của anh ta nữa. Nhưng thứ mà tôi đặc biệt nhớ như in là mùi của anh ta và những thứ ẩn chứa trong cái mùi hương ấy: toàn bộ thứ mùi làm khuấy động rạo rực không yên của anh ta đã ngập tràn trong huyết quản tôi, đột ngột thổi bừng bừng lên trong tôi một nỗi thèm khát dục vọng mãnh liệt đáng xấu hổ.
Đợi cho cơn thèm muốn cháy bỏng nguội bớt, tôi cất lời: “Cháu không biết chuyện gì đã xảy ra với anh ta. Chắc bây giờ anh ta đã gần 40 tuổi rồi”. Một dư vị buồn xuất hiện khi tưởng tượng một chàng trai đầy nhục cảm gợi tình nay đã trở thành một người đàn ông đứng tuổi vì anh ta vốn chẳng có gì ngoài tuổi trẻ và sự sôi nổi xác thịt.
– Cô đúng là người vô tâm, Vivien. Cô vẫn thế, chẳng thay đổi gì.
– Ồ, Eunice! Cô có biết gì về cháu đâu. Gần ba chục năm rồi còn gì. Cô chụp mũ cháu thế nào cũng được, nhưng đừng nói cháu vô tâm. Cháu không phải là người như vậy. Nhất định không phải vậy.
– Thôi được, thôi được. Tôi rút lại câu đó vậy. Thế cô đã sống ở đâu suốt thời gian qua?
– Cháu ra nước ngoài vài năm nhưng giờ thì cháu quay về lại London.
– Sống trong căn hộ ở góc đường đó à?
– Ồ không. Dĩ nhiên là không. Cháu có một chỗ gần Công viên Regent’s.
Eunice nhìn tôi từ đầu đến chân rồi lại từ chân lên đầu. Tôi biết bà ấy đang nghĩ gì. Rằng tôi ăn mặc chẳng hề giống như một quý bà của khu Công viên Regent’s. Đâu rồi những chiếc vòng cổ ngọc trai, túi xách hiệu Chanel, hoa tai kim cương và áo khoác lông thú? Eunice biết chính xác những gì giới nhà giàu thường khoác lên người mỗi sáng họ thức dậy. Bà ấy đọc tất cả các tạp chí thời trang. Còn tôi thì sao? Gần như là rách rưới. Tồi tàn trong bộ đồ jeans đó!
Và rồi Eunice, người đã dành gần trọn cuộc đời cho công việc bán lẻ, không phải không biết cách làm sao để nắm bắt một cơ hội. Một người phụ nữ giàu có ăn mặc sơ sài cần phải có một nữ bán hàng thông minh. “Chà chà,” - bà nói - “cô có muốn mua một bộ không? Tôi có vài thứ hợp với cô đây. Chỗ tôi đang còn rất ít hàng vì chuẩn bị đóng cửa hẳn mà. Nhưng không sao, tôi sẽ chọn cho cô một món hời.”
Tôi mỉm cười. Tôi, một người như tất cả mọi người, đang được chào mời mua một chiếc đầm. Đã từ lâu, tôi chẳng buồn liếc xem mình trông ra sao mỗi khi lướt qua các cửa sổ của các cửa hàng chứ đừng nói đến chuyện soi mình trong chiếc gương lớn trong phòng thử đồ với những bóng điện sáng choang ở phía trên đầu. Mà nếu tôi có quan tâm đi nữa thì hẳn là tôi sẽ không nhận ra những gì mình thấy trong gương. Người đàn bà sầu thảm với những vết chân chim quanh mắt, với quần jeans, giày ống và áo khoác da, với đôi tay nứt nẻ, thô ráp và chiếc cổ tàn tạ đang leo lên từng bậc thang ở ga tàu điện ngầm kia là ai? Người đàn bà đứng tuổi với mái tóc nhuộm không được dặm màu ở chân tóc mà ta thấy đang tần ngần trước những tín hiệu đèn giao thông khi cố băng qua giao lộ Regent-Oxford đông đúc đó là ai?
Thỉnh thoảng, độ vài tháng hay có lẽ là lâu hơn, tôi cho phép mình được sống tự do thoải mái, đơn giản chỉ là trôi xa khỏi ý nghĩ thậm chí trông mình như thế nào, giải phóng bản thân khỏi một cái “tôi” đã từng chăm chú săm soi ngắm nghía mình trong gương, quên đi bàn tay từng tự tin cầm cây cọ chuốt mi, quên đi một con người từng quan tâm đến việc mình xuất hiện như thế nào trước mọi người.
Cũng có vài tình huống tôi tỏ ra thư thái nhẹ nhàng nhưng đó không phải là con người thật của tôi. Một năm trước đây, chính xác là 13 tháng rưỡi, chồng tôi mất và sau đó là bố tôi. Quá nhiều sự chết chóc len vào từng chân tóc, luồn vào từng hốc từng kẽ trong cánh mũi, bám vào từng lớp quần áo. Một vị mặn đắng đọng lại nơi cuối họng. Bố tôi là một ông già đã rụng sạch răng, hay vận áo chùng và chiếc quần nhem nhuốc vết dơ. Còn chồng tôi là một người đàn ông có cánh tay cuồn cuộn cơ bắp, mái tóc vàng hoe đỏ và cái cổ to khiến anh khó khăn lắm mới tìm ra được áo có cổ vừa vặn cho mình. Anh mạnh mẽ, tràn trề sức sống và có khiếu hài hước, luôn sẵn sàng tham gia vào mọi việc mà không cần biết mình có làm được hay không để rồi sau đó tếu táo tự giễu về những thất bại của chính mình. Chỉ có Vic mới có thể xem mọi chuyện nhẹ nhàng đến vậy.
Vậy là điều này đã hai lần xảy ra với tôi. Đến nửa đời người, mọi thứ lại quay trở về vạch xuất phát ban đầu. Cái chân trời xám xịt không thể phân biệt đâu là nơi bắt đầu đâu là nơi kết thúc lại xuất hiện.
Và hôm nay, một ngày như mọi ngày, trên đường đến căn hộ của bố tôi để chuẩn bị sẵn sàng cho nhân viên dọn nhà đến, một người phụ nữ mà tôi đã không để mắt tới suốt gần 30 năm đang nhìn tôi từ đầu xuống chân, từ chân lên đầu và hồi tưởng về hình ảnh của tôi thuở còn là một thiếu nữ tuổi đôi mươi vô tâm vô tư như lời bà buộc tội. Còn nữa, tôi của khi ấy là một cô gái tò mò, đầy khát khao, hoài bão, đầy đam mê, hi vọng, đầy giận dữ, phẫn nộ, đầy xét đoán, chỉ trích và rất làm cao, đầy ý thức về tội lỗi và dĩ nhiên, đầy cả mối quan tâm về việc không nên mặc thứ gì. Thế nhưng, giờ này, tôi đang đứng đây với mái tóc bạc ở chân, trong chiếc quần jeans sờn cũ và quấn chiếc khăn tơ tằm xanh lá quanh chiếc cổ đã nhão. Vì đâu còn ai nhìn tôi giống cái cách mà Vic đã ngắm tôi. Và, dù đang đứng trên đôi chân cứng cáp, dù nhận thấy được sự hiện diện của khối mỡ quanh eo, tôi vẫn cảm thấy mình giống như một bóng ma, nửa hư nửa thực.
Nhưng Eunice nổi tiếng là người luôn luôn muốn một phụ nữ phải xuất hiện trong bộ dạng đẹp nhất, rạng ngời nhất bất chấp người đó có những khiếm khuyết gì do tạo hóa hay do tự bản thân người đó tạo ra. “Tôi không nghĩ cô vẫn là một cô gái mảnh mai như hồi lần cuối tôi gặp cô nhưng cô chỉ hơi đẫy ra một chút thôi.” - Eunice nhận xét - “Nhìn này, cái này hợp với cô đấy. Tôi sẽ để cho cô với giá phải chăng.”
Chiếc đầm mà bà ấy đưa cho tôi có màu đỏ, màu của rượu vang sẫm màu đựng trong chai thủy tinh khi phơi ra ánh sáng. Tôi ngập ngừng cầm lấy nó, xoa xoa lớp vải giữa hai ngón tay đoạn ướm thử lên người mình. Tôi thực sự không muốn mua nó. Tôi không thể hình dung làm sao nó hợp được với mình.
– Khi treo trên móc thì nó trông nó cũng thường thôi, - Eunice nói - nhưng cứ mặc vào đi, rồi cô sẽ thấy. Đó đúng là màu của cô, rất hợp với màu tóc đen của cô. Nếu siết chặt nó quanh eo thì nó sẽ nâng mông lên. Chiếc đầm này là đầm ôm. Cô chưa bao giờ thấy cái nào như một trong mấy cái này phải không? Kiểu này bây giờ đang là mốt đấy. Làm bằng lụa jecxi nên nó sẽ tôn mông lên tuyệt vời. Rồi cô sẽ thấy. Nào, mặc thử đi!
Tôi thường mặc đồ vội vàng vào buổi sáng và hiếm khi buồn trang điểm ngoại trừ bôi ít sáp để môi khỏi nứt nẻ. Hai đứa con gái của tôi tặng cho tôi kem dưỡng da mà chúng đã đọc thấy trên các tạp chí và dành dụm để mua cho tôi một suất thư giãn cuối tuần tại một spa, mà lâu nay tôi chưa bao giờ bỏ thời gian để đặt chỗ. Chúng hóa ra là những đứa con gái đáng yêu. Chúng tự tin hơn, thẳng thắn hơn và đằm thắm hơn tôi hồi ở tuổi như chúng. Đó là bởi vì chúng có một người cha tốt để cảm thấy mình thật may mắn và bởi chúng là sản phẩm của một cuộc hôn nhân thành công (dù hầu như không hoàn hảo). Nước da sáng của Vic đã truyền lại cho cả hai đứa. Cả mái tóc hung hung đỏ, cái cằm hồng hào và nụ cười có lúm đồng tiền cũng vậy.
– Cô sắp đóng cửa hàng này à? - Tôi hỏi Eunice, mắt nhìn quanh cố hình dung lại hình ảnh của nó thời hoàng kim, khi tôi đến đây lần cuối vào thập niên 70. Nó có vẻ như chẳng khác xưa là mấy. Có lẽ chỉ màu tường và thảm là thay đổi. Nhưng, hãy thẳng thắn nhìn nhận mà xem, ngay cả tôi đây cũng còn thay đổi nhiều hơn nó nữa là.
– Phải, sắp đóng. Sau ngần ấy năm, bà Post - chủ cửa hàng - đã chết rồi. Cô con gái Corolyn tiếp quản nhưng cô ta không phải là dân kinh doanh. Cô ta chẳng biết phải làm thế nào để quản lý. Rồi thì mấy quí bà thường vào đây để mua sắm, khách hàng thân thiết của tôi ấy - nào là bà Cohen, bà Frame và cả bà Parker đi phẫu thuật thẩm mỹ độn bộ ngực giả - tôi nhớ hết tất cả các bà ấy, nhưng, họ không đến đây nữa. Các bà ấy giờ chỉ quanh quẩn trong căn hộ của mình. Thôi thì cũng chẳng trách được. Cứ nhìn tôi đây này. Ở cái tuổi này rồi mà tôi vẫn phải tự lo lấy cho mình. Thôi, cô đi thử chiếc áo đầm đó xem. Thử ngay đi.
– Nhưng cháu không muốn mua một chiếc đầm mới. Cháu đã có đầy đủ quần áo mình cần rồi.
– Cô thật ngốc nghếch làm sao! - Eunice nhìn tôi với đôi mắt sẫm đầy vẻ dò hỏi. - Thế bây giờ cô bao nhiêu tuổi rồi? - bà vặn hỏi. Tôi nói cho Eunice số tuổi của mình. “Trông cô không hẳn là một người già xấu như vậy đâu” - Eunice nhận xét - “Tiếc là cô đã để cho làn da đó có nếp nhăn dù kem tốt không phải là không tốt.”
– Vâng. Còn cô thì trông thật tuyệt, cô Eunice! - Tôi thốt lên với vẻ ngưỡng mộ dành cho ý chí sắt đá của bà ấy. Eunice không bao giờ đầu hàng trước những gì mà bà có thể chinh phục được bằng ý chí của riêng mình. Vũ khí của bà là cây chì kẻ mắt, cây son môi và đôi tất chân không hề có một đường chỉ sút. Nhưng ngược lại, con trai của Eunice chẳng ra sao và bà sống chẳng vì cái gì cả. Cuộc đời bà, xét theo hướng ấy, thật khác với tôi.
– Là tôi cố gắng giữ gìn đấy, Vivien! - Eunice đáp - Tôi dám chắc là cả đời, tôi chưa bao giờ để móng tay mình bị gãy hay để giày mình phải đóng đế. Nhiều hôm về nhà lúc đêm, tôi không ăn tối để giặt khô sạch sẽ bộ đồ vest bán hàng của mình. Mà cô có định thử chiếc đầm đó không đấy?
– Cháu béo quá. Cô nhìn xem này, cháu béo cứ như cái thùng phuy ấy!
Thật ra là tôi đã cường điệu. Dù tôi có lên độ chục cân so với lần cuối cùng Eunice trông thấy tôi nhưng ngược lại, tôi lấy làm ngạc nhiên thấy dạo này mình mảnh mai hẳn. Tôi lướt hai bàn tay qua phần áo lót của những chiếc đầm mà mình đã từng mặc. Tôi chẳng có bộ ngực đáng để tự hào. Chuyện sinh con đẻ cái làm phụ nữ tròn hẳn ra. Nhưng tôi không tăng cân đến độ trông ra thành lôi thôi vì tôi vẫn tự đối xử tệ bạc với chính tôi, tự bỏ bê bản thân mình.
– Đừng có vớ vẩn như thế! Đã là phụ nữ thì không có ai béo mà không mặc được đầm đẹp. Chiếc đầm này sẽ làm cho cô trông gầy đi vài cân đấy. Rồi cô xem.
Và Eunice, người đàn bà lớn tuổi đang đối mặt với sự trống vắng vì phải về hưu bắt buộc, đứng đó với chiếc đầm trên tay. Bà cầm chiếc đầm và thúc giục tôi thử nó. Eunice đang gợi cho tôi nhớ đến những gì mà tôi đã từng cảm nhận sâu sắc, tường tận nhưng rồi lại lãng quên: chính là sự phấn khích dâng tràn đó, cảm giác ngất ngây đó, niềm vui sâu kín đó. - Bởi một chiếc đầm mới làm thay đổi tất cả mọi thứ.
– Vào trong đó thử đồ đi! Thử chiếc đầm đáng yêu đó xem nào!
Một mình trong căn phòng nhỏ với chiếc ghế bọc nhung, với những cái móc để tôi treo quần áo của mình lên, với chiếc gương phẳng lì và với những bóng đèn rất tôn da, tôi kéo khóa quần jeans và tụt nó qua đôi chân phủ những sợi lông đen mượt mà hàng tháng trời tôi quên không cạo hay wax. Tôi thậm chí không thể nào nhớ lại được lần cuối cùng mình mua một món gì đó mơi mới là vào khi nào. Nhưng, hình ảnh chiếc đầm đỏ cũng đủ làm tôi bối rối, rụt rè. Tôi phải mặc nó như thế nào đây?
Tôi gọi to cho Eunice.
– Thấy chưa? - Bà hỏi.
Ta xỏ tay qua tay áo và luồn thắt lưng qua chiếc lỗ ở bên hông, những ngón tay lóng ngóng vụng về chồng đầu thắt lưng này lên đầu thắt lưng kia vòng quanh eo và siết chặt lại bằng một cái khóa. Trong khi tôi cố làm xong động tác rắc rối đó thì chiếc đầm đã tìm được cuộc sống riêng của mình, gánh trách nhiệm chăm nom cho cơ thể tôi, xếp đặt nó lại sao cho đạt được một hình dáng hoàn toàn khác. Ngực vun lên, eo thắt lại. Tôi trông như gọn đi ít nhất 3-4 cân.
Chiếc đầm tạo cảm giác hết sức mềm mượt, cứ như thể nó sẽ bám chặt lấy tôi mãi mãi. Và trong gương, hiện lên hình bóng gây giật mình sửng sốt của một người mà ban đầu tôi gần như không nhận ra hay không nhớ ra, con người mà tôi đã để đi mất. Cô gái mảnh mai, sôi nổi đó, tôi của ngày xưa đó, đã hiện ra lấp lánh, óng ánh như bạc trong gương, mỉm cười với người đàn bà 53 tuổi có mái tóc bạc ở phần chân tóc. Vivien Kovaks!
Chiếc đầm đỏ rực rỡ giống như màu hồng ngọc sáng lên trên nền da của tôi. Tôi nhón chân giống như đang đi giày cao gót. Tôi đưa chân phải ra trước và đặt đôi tay mình lên chỗ mà lần cuối cùng tôi còn nhớ đã nhìn thấy xương hông. Chẳng có khăn choàng cổ tơ tằm để che chắn ngụy trang, chiếc cổ đầy nếp nhăn của tôi bị phơi ra, nhưng làn da trên xương ức không hề có dấu vết của những đường chùng nhão. Ôi! Cơ thể ta đang chơi những trò mới ma mãnh làm sao! Trò đùa tinh nghịch mà nó đang chơi với ta làm ta phải phì cười. Ồ, không, không hẳn là như vậy.
– Cô thấy thế nào? - tôi hỏi Eunice.
Bà nhìn tôi từ đầu đến chân với ánh mắt chăm chú đánh giá của một người bán hàng. Đoạn, Eunice nhào tới, đôi tay thoăn thoắt sửa lại đường viền cổ áo. “Thấy chưa? Giờ thì mông cô đã được tôn cao lên rồi đó. Cô cần phải có một cái áo ngực tốt nữa. À, tiện thể tôi cho cô biết là cửa hàng Selfridge đang bày một bộ sưu tập hay lắm. Nhưng phải nhớ thử trước khi mua bất cứ món gì đó nhé! Cô đang mặc sai cỡ đấy.”
Chiếc đầm tan ra, quyện vào da thịt tôi. Ai mà biết được đâu là da của tôi, đâu là lụa jecxi nữa? Tôi đang mê mẩn một mảnh vải một cách hết sức buồn cười.
– Cháu sẽ lấy chiếc đầm này.
– Không cần phải mua nó để làm phước cho tôi đâu. Tôi được bà Post trả lương hưu khá lắm. Tôi không muốn bất cứ thứ gì nữa.
Tôi để ý thấy có một vết màu be ở đường viền cổ áo. Một khách hàng nào đó đã dây đồ trang điểm lên áo nhưng Eunice đã không nhìn thấy, vết bẩn này sẽ sạch bay sau khi giặt khô. Thế nhưng, tôi vẫn cảm thấy một nỗi buồn tê tái dâng lên. Cả một đời tự mình để mắt kiểm tra quần áo rất chặt chẽ, Eunice giờ đây đã chẳng còn tinh anh nữa. Con ngươi trong mắt bà đã phủ một lớp màng mờ đục màu sữa. Tôi lặng thinh không nói gì về vết bẩn nhưng Eunice dường như đã cảm nhận thấy chút phiền lòng trong tôi - một sự phê bình, có lẽ về bà. Cán cân cân bằng một lần nữa lại tự điều chỉnh và lần này không nghiêng về tôi.
– Thế hôm nay sao cô lại đến đây? - Eunice hỏi bằng giọng già nua sắc lạnh mà tôi còn nhớ, như thể đang bị vô số những tinh thể đá hình kim đâm bể nát. - Cô thấy cửa hàng đang đóng cửa nên nghĩ rằng cô có thể kiếm chác được một món hời lần cuối chứ gì?
– Cháu chỉ đi ngang qua thôi - tôi trả lời - Đơn giản chỉ là vậy. Chỉ đi ngang qua đây thôi.
– Nhưng trước giờ cô có đi ngang qua đây đâu?
– Cháu nói thật lòng nhé, cô Eunice - tôi giải thích - cháu luôn đi đường khác hay băng sang phía bên kia đường. Tôi không muốn trông thấy cô.
– Đến mức thế đấy! Cô thậm chí còn không thể nhìn vào mắt tôi nữa đấy.
– Ôi chao! Thôi nào! Cô nói cháu đã sai. Nhưng cháu không…
– Cô! Cô đúng là đứa con gái dối trá, hiểm độc. Cô đã làm tan nát trái tim ông ấy, sau tất cả những gì mà ông ấy đã trải qua.
– Đúng là bác cháu đã có một cuộc sống khắc nghiệt nhưng không…
– Không cái gì? Không cho ông ấy được quyền sống thoải mái lúc bóng xế tuổi già mà ông ấy không bao giờ có được bởi vì, nhân đây tôi nói luôn, là do cô chĩa mũi vào, phải vậy không?
Bà ném phịch chiếc đầm xuống quầy tính tiền rồi tống thẳng vào một cái túi mà chẳng buồn gấp nó lại, cũng chẳng lấy giấy lụa bọc vào.
– 120 bảng. Tiền mặt hay thẻ?
Tôi rút thẻ tín dụng của mình ra.
– Ái chà! Thẻ bạch kim à. Cô đã lo cho mình tốt đấy. Tiền luôn đi với tiền, tôi biết mà. Một anh chồng giàu, phải không?
Tới đây, hai chúng tôi - tôi và Eunice - lại trở về nơi mình bắt đầu. Sẽ không nhắc đến tạm tha, không nhắc đến tù treo nữa. Tôi vẫn là đứa cháu gái tọc mạch của ông bác tôi, người tình đau khổ của Eunice, và vẫn là đứa con gái đã tình cờ gây ra những tất cả những bất hạnh, buồn phiền mà Eunice đã đổ lỗi là nguyên nhân khiến ông chết sớm. Bởi vì bác tôi là tình yêu một đời của bà Eunice. Họ là một cặp đôi “cọc cạch”: cô quản lý da đen của một cửa hàng quần áo trên phố Marble Arch và người đàn ông đến từ Budapest, chủ khu trọ ổ chuột dành cho dân tị nạn.
Eunice chỉ một ngón tay nổi những đường sạm màu vào tôi, những móng tay sơn bạc bong tróc, các đầu ngón tay hơi run run. Bà bắt đầu nói và rồi vô cớ, mắt bà mọng lên. Eunice bắt đầu khóc. Tôi chưa từng thấy điều này bao giờ, ngay cả trong đám tang của bác tôi. Khuôn mặt của Eunice khi đó giấu sau một chiếc mũ có mạng đen nhỏ điểm lốm đốm những bông hồng đen. Nhưng giờ đây, tất cả quá khứ đang ùa về, xâm chiếm toàn bộ con người bà. Tình yêu mà Eunice dành cho bác tôi, người đã nằm yên dưới một nấm mồ, trở nên tan chảy trong lồng ngực bà.
– Cô không biết cảm giác mà một người đàn ông nhìn ngắm tôi theo cách riêng của ông ấy là như thế nào sau… cái điều kia. - Eunice nói.
– Điều kia là điều gì? - tôi hỏi lại. Nhưng, những giọt nước mắt của Eunice chưa kịp trào ra đã dừng lại. Nét mặt bà ấy liền phủ một lớp mặt nạ nâu nhẵn với một nỗi buồn xưa cũ khắc sâu trên đấy, giống như những vết bẩn mà ta không sao gỡ bỏ được.
– Tôi sẽ bọc cái áo đầm tử tế cho cô, - bà nói - tôi xin lỗi vì nổi cáu với cô, Vivien.
– Không sao ạ, - tôi đáp - cháu hiểu mà.
Bác tôi đã mất gần 30 năm nay rồi mà Eunice vẫn còn đau khổ trong chừng ấy thời gian. Có phải đây cũng là điều mà tôi sẽ phải đối mặt: 30 năm đau khổ khôn nguôi đang ở phía trước?
Ngập ngừng, tôi vươn ra chạm vào cánh tay của Eunice. Xương của bà thật yếu ớt dưới lớp áo vest và tôi sợ rằng nếu tôi ôm bà thì chúng sẽ gãy ra mất. Trước đây, chúng tôi chưa bao giờ chạm vào nhau, ngoại trừ cái bắt tay đầu tiên trên phố bên ngoài nhà của bác tôi, bàn tay đeo găng màu xanh da trời của Eunice khi đó nằm trong tay tôi.
Eunice để im cho tôi đặt tay lên áo vest của mình. Lớp vải lụa nơi tay áo cam chịu một cách yếu ớt. Rồi bà ngẩng mặt lên nhìn tôi, vẻ đầy sinh động và rạng rỡ.
– Tôi có quá nhiều tình cảm dành cho người đàn ông đó. Ngày nào tôi cũng nghĩ về ông ấy. Cô đã bao giờ viếng mộ ông ấy chưa? Tôi thì có đấy. Mỗi năm một lần. Tôi đặt mấy viên đá để dằn ông ấy xuống, không cho ông ấy ngồi dậy và đi lang thang đau khổ trên cõi đời này nữa. Trong căn hộ của tôi, tôi luôn cắm một bình đầy hoa tươi và đặt một tấm danh thiếp trên bệ lò sưởi để nhớ về ông ấy. Cô thấy không này, tôi vẫn giữ chiếc đồng hồ mà ông ấy tặng tôi, chiếc đồng hồ mặt trái tim bằng vàng, dây đính hạt kim cương nhỏ. Tôi chỉ tháo chuỗi đồng hồ đeo cổ đó ra khi cần lau rửa. Cả chiếc bật lửa của ông ấy, tôi cũng vẫn giữ nó dù tôi không còn hút thuốc nữa. Nếu bán mấy thứ này đi, tôi có thể kiếm được khoản tiền kha khá, nhưng tôi sẽ không bao giờ làm vậy. Chúng là tất cả những gì mà tôi có được từ ông ấy, từ người đàn ông tuyệt vời ấy.
Tôi thả bộ ngược lên phố Marylebone High. Quai của chiếc túi đựng đồ đung đưa. Chiếc túi đựng cái áo đầm lụa jecxi màu đỏ hồng ngọc của tôi.
Sáng nay, tôi buộc phải đi theo đường khác vì cảnh sát đã lập một hàng rào phong tỏa do lo ngại xảy ra một vụ khủng bố. Một người đàn ông đang đứng trên một ban công với chiếc khăn tắm quấn quanh thắt lưng. Cảnh sát đeo mặt nạ đang chĩa súng vào ông ta. Người ta cho rằng có một cơ sở chế tạo bom trong căn hộ phía sau người đàn ông đó. Năm ngoái, có nhiều vụ nổ, ở những hành lang sâu xuống các ga điện ngầm giống như lời của Claude đã tiên đoán cách đây gần 30 năm. Mùi thịt bị cháy khét lẹt và sau đó là những thi thể bị rữa ra ở tuyến đường tàu điện ngầm Piccadily nằm sâu dưới đất.
Sự bắt buộc phải thay đổi đường đi vì vụ tình nghi khủng bố đã dẫn dắt tôi gặp lại Eunice và chiếc đầm đỏ này.
Tôi rẽ sang góc phố quen thuộc, góc phố của tôi. Tôi đã lớn lên ở đây và những con đường này là của tôi. Tôi là người London. Tôi chấp nhận thành phố này với tất cả những hỗn loạn không thể kiểm soát và tất cả những hình ảnh kém cỏi dơ bẩn của nó. Nó để cho ta được ở yên một mình làm những gì mình thích. Liệu có nơi nào khác mà ta có thể dám chắc một điều như vậy hay không?
Và đây là tòa nhà Benson Court, nơi tôi sinh ra. Những cư dân hay ầm ĩ, om sòm sống trong các căn hộ bên trong chưa bao giờ thống nhất được với nhau về một chương trình hiện đại hóa hay tân trang lại tòa nhà. Vẫn những chiếc đèn bằng đồng bụi bặm treo lủng lẳng trên trần nhà, vẫn những bức tranh chép của Canaletto[1] đóng trong những cái khung mạ vàng xỉn màu treo trên tường. Cả chiếc thang máy với cánh cửa kim loại kêu lạch cạnh mỗi khi đóng vào mở ra, những sợi cáp rệu rã rền rĩ, cái buồng ván gỗ với chiếc ghế bọc da ngả được ra sau cũng vẫn còn y nguyên như thế. Năm ngoái có một người thuê nhà đã chết ở đó. Bố tôi nhấn nút thang máy để đi xuống và cái xác chạy lên, ngồi đó trong bộ dạng thẳng lưng ngay ngắn, bên cạnh những món hàng vừa mua. Đó là một nữ diễn viên ballet đã về hưu. Bà ấy chết, đầu ngoẹo sang một bên. Bà cô già ấy quả là luôn luôn biết cách tạo dáng.
Tôi bước vào. Không gian lặng phắc như tờ. Rồi bụi. Đủ thứ mùi khác nhau. Ký ức ùa về. Tôi bước vào nhà bếp, căn phòng tồi tàn nhất, để pha một tách trà. Các thứ để trong tủ lạnh vốn không thuộc về nơi đó. Từ sách và bút mà cha tôi đã từng dùng để viết những lá thư kỳ quặc cho các tờ báo cho đến những mẩu quảng cáo cắt ra từ những quyển tạp chí bỏ đi bị vứt chỏng chơ bên mấy cái thùng - những mẩu quảng cáo có hình một bàn tay đang khoe một chiếc đồng hồ kim cương.
Tôi ngồi xuống bàn và uống trà. Cái bếp lò mà mẹ tôi đã đun không biết bao nhiêu hộp súp cứ nằm trơ ra như thể nó không hề biết rằng chỉ vài ngày nữa thôi, khi những người dọn nhà kéo đến, nó sẽ bị đập vụn vỡ thành đồ phế liệu. Giờ đây chẳng còn ai thèm dùng đến cái thứ bám đầy muội đen đúa và nhớp nháp dầu mỡ với những ống ga kêu xì xì đó nữa. Đến cả viện bảo tàng cũng chẳng màng. Chồng tôi, Vic, đã từng có lần thử làm món trứng ốp la trên cái bếp đó và khẳng định có thứ gì đó ở bộ chia lửa của nó bị hỏng nặng. Anh bảo nó cháy chập chờn như nến sắp tàn ấy. Tôi thèm đến chết một bữa trứng ốp la của anh, món trứng có rắc hẹ hay điểm những cục giăm bông màu hồng béo ngậy. Một ngày kia, tôi sẽ thử lại món ấy nhưng ở một nơi khác, phải, một nơi khác.
Đến thứ sáu, tất cả mọi thứ rồi sẽ biến mất. Tất cả mọi vết dấu của bố mẹ tôi cùng với quãng thời gian gần 60 năm sống trong 4 căn phòng này của họ sẽ biến mất dưới những lớp sơn mới. Vải sơn lót sàn cũ sẽ bị xé bỏ. Cả căn nhà được phun thuốc tẩy trùng. Căn hộ này gắn với cuộc đời chúng tôi. Tôi đã rời nơi đây từ rất lâu rồi. Mẹ tôi cũng đã ra đi được 16 năm. Bố tôi trút hơi thở cuối cùng khò khè nặng nhọc trên chiếc ghế bành trước ti vi, trên tay vẫn cầm một tờ Radio Times khi tôi phát hiện ra ông vào ngày hôm sau. Ôi, 60 năm thuê nhà đằng đẵng. Thật là kỳ lạ khi con người ta có thể ổn định một nơi lâu dài đến vậy mà chẳng có điều gì, kể cả một quả bom, có thể khiến họ dời đi. (Bom đã rơi nhưng không phải ngay căn hộ này mà ở căn bên cạnh trong một cuộc oanh tạc dữ dội. Bố mẹ tôi ở dưới lòng đất, trong hầm tránh bom ngoài vườn và trở lên thang máy ngay sáng hôm sau để vào bếp đúng giờ cho bữa ăn sáng). Đến cuối tuần, sẽ chẳng còn lại thứ gì. Và, chỉ trong một tháng nữa thôi, nơi đây sẽ toàn người lạ. Rồi, suốt quãng đời còn lại của mình, tôi sẽ đi ngang qua Benson Court mà không có chìa khóa để mở cánh cửa trước, không được phép đi lên thang máy nữa. Hẳn nhiên là người ta sẽ quẳng đi tấm thảm chùi chân bằng vải đay cũ và thay vào đó một cái mới.
Tiếng gió thở than ngoài cửa sổ. Phía đối diện, một tấm mành rủ xuống trông buồn u uẩn. Thang máy vẫn đứng lặng yên, không lên không xuống khỏi tầng nhà đó. Cả tòa nhà lớn lặng phắc như tờ và chỉ có mỗi mình tôi ở đó, chẳng có ai đi cùng ngoại trừ chiếc đầm mới. Tôi nghĩ thầm: “Mình phải mặc thêm đồ thôi. Mình lạnh lắm.”
Chú thích:
[1] Canaletto (1697-1768): danh họa người Ý. (Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch.)