← Quay lại trang sách

Chương 2

Một tiếng chuông vang lên ngoài hành lang. Giọng bác tôi vang vọng khắp căn hộ. Tôi nghe thấy tiếng ông một cách đột ngột, giống như một ảo giác.

Bác tôi, tình yêu một đời của Eunice - người phụ nữ quản lý cửa hàng quần áo trên phố Marble Arch. Bác tôi, người có thể đã bị giết bằng nhiều cách khác nhau, người đã chết nhưng không chịu yên nghỉ, giờ đây đang cất lên tiếng nói, đang gào thét.

Tôi vẫn không quên mùa hè tôi ở cùng với ông, khi tôi học được sự thật duy nhất có nghĩa: khổ hạnh không hề cao quý và kẻ sống sót tồn tại được nhờ vào sức mạnh, thủ đoạn hay sự may mắn của mình chứ không phải nhờ tính thiện, càng không phải nhờ sự ngây thơ trong sạch.

Và rồi tôi bật cười, vì ông đang ở đó. Gần 30 năm, bác tôi đã giấu mình trong một hộp bìa các tông. Tôi đã tự tay mang nó về căn hộ vài tháng sau khi ông chết và đặt nó vào tủ quần áo của mẹ tôi, đẩy tít sâu vào bên trong.

Tôi vào phòng ngủ và lật mớ quần áo của mẹ để tìm nó, lật qua chiếc áo chẽn bằng vải nỉ màu nâu của bà, qua cây gậy gỗ của bà mà bố tôi đã không chịu vứt đi. Từ ngày mẹ tôi mất tới giờ, hôm nay tôi mới lại thấy cây gậy này. Tôi với tay lấy nó, ban đầu còn ngập ngừng, rồi nhẹ nhàng vuốt tay lên từng thớ gỗ. Tôi cảm nhận được những hao mòn của cây gậy gỗ mà đôi tay mẹ đã bám chặt trong một quãng thời gian dài: một đường cong dễ chịu ở chuôi cầm - nơi mẹ tôi đã tì một phần cơ thể mình lên đó.

Ông bác tôi đây rồi. Ông ấy đã tới yên nghỉ trong tủ quần áo của cô em dâu, bên cạnh cây gậy, vật đầu tiên làm ông chú ý đến bà và dẫn đến kết quả là bà lấy bố tôi. Sau đó, bố mẹ tôi rời Budapest đến London rồi sinh ra tôi. Tiếp theo, các con gái tôi chào đời. Đủ mọi chuyện đã kéo theo sau đó.

Nói đúng nghĩa đen thì bác tôi không ở trong tủ quần áo. Ông ấy vẫn nằm dưới tấm bia cẩm thạch ngoài nghĩa trang, nhưng, giọng nói của ông vẫn còn sống, bên trong một loạt băng ghi âm và những trang giấy tôi đã cần mẫn gõ lại từng lời, và dĩ nhiên có cả bút tích của riêng ông, những phần mà ông đã cố tự mình viết ra.

Này đây những cuộn băng ghi âm. Này đây cây gậy. Những món đồ vật này, đống đồ bỏ tầm thường thuộc về những người đã mất, vẫn tiếp tục sống sau khi họ ra đi. Và cả cô gái mà tôi đã cho vào lãng quên cũng vẫn còn ở đâu đó quanh đây, chỉ chờ tôi khoác lên mình một chiếc đầm lụa jecxi đỏ là cô ấy xuất hiện ngay tức khắc. Tôi đang chờ đợi cô gái ấy. Cô ấy đang ở đâu đó trong căn hộ này và không phải là một bóng ma vì tôi vẫn còn sống đây, hiện diện bằng xương bằng thịt ngay giữa thế giới này. Cuộc sống của tôi không nhẹ nhàng hay lặng lẽ. Xét cho cùng, tôi vẫn là máu mủ với bác mình. Chẳng có điều gì ông làm mà không để lại một dấu ấn.

* * *

Đây là nơi tôi sinh ra, chính tại tòa nhà lớn nằm trên Đại lộ Marylebone này. Mẹ tôi đã trở dạ trong thang máy trong khi bố tôi đang đi làm. Bà ở đó, hết quằn quại, la hét lại lăn lên lộn xuống. Các cánh cửa sắt mở ra như một cây đàn phong cầm và một bác sĩ phẫu thuật làm ở bệnh viện Middlesex đã trông thấy bà nằm giữa một vũng nước ối. Ông bác sĩ vội đưa mẹ tôi vào căn hộ của mình và đỡ tôi ra đời ngay trên trường kỷ. Tôi chào đời, mắt nhìn chằm chằm vào cây đèn trang trí bằng nhựa Bakelite thời tiền chiến và một bức tranh sơn dầu treo trên lò sưởi vẽ một bầy gia súc của vùng cao nguyên Scotland. Đó là một ngày giữa mùa hạ, ngày 19 tháng 7 năm 1953 và tôi được đặt tên là Vivien, theo tên vợ ông bác sĩ.

Vào 2g30 chiều, vị bác sĩ gọi đến chỗ làm cho bố tôi để báo tin nhưng mãi đến 5 giờ bố tôi mới về, đúng như lệ thường, mặc cho ông chủ của bố tôi là Axelrod đã cho phép ông về nhà ngay. Tôi có thể hiểu được thái độ bướng bỉnh nhất quyết không phá bỏ thói quen của ông. Bố tôi khiếp hãi sự thay đổi, xáo trộn. Với sự không chắc chắn thì bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra. Thế nhưng, chưa gì mà bố tôi đã khổ sở chịu đựng mối lo âu rồi. Ông sợ rằng bất cứ một chút xáo trộn trong hoàn cảnh của mình cũng có thể làm cho mọi thứ sa sút. Nào là căn hộ, nào là người vợ, nào là công việc, nào là cô con gái mới sinh rồi chính cái thành phố London và cả nước Anh nữa. Và ông có thể trôi xuống dưới trong bản đồ thế giới, quay trở lại Hungary, những ngón tay bấu chặt một cách vô vọng và buồn cười lên bề mặt trơn láng, xoay vòng vòng của quả địa cầu.

Được xây khoảng đầu thế kỷ 20, Benson Court là một tòa nhà làm bằng gạch đỏ cầu kỳ. Phía sau nó là một khu vườn mọc đầy những bụi cỏ hiếm khi được cắt xén cùng đôi ba luống hoa mà nếu đứng từ căn hộ của chúng tôi thì không thể trông thấy được. Từ bếp nhà mình, chúng tôi có thể nhìn thấy một bên của tòa nhà lân cận. Những phòng khác thì nhìn ra ngoài phố, một ngõ tắt yên tĩnh dành cho khách bộ hành có biển báo đường một chiều ở cuối đường ngăn hầu hết các phương tiện giao thông qua lại nơi đây. Người ta không thể lái xe từ cửa trước nhà chúng tôi đến bất cứ nơi nào cần thiết như đại lộ Marylebone hay đường Euston. Mà thế thì đã sao? Cả bố lẫn mẹ tôi đều không biết lái xe chứ đừng nói đến chuyện có xe riêng.

Tôi là con của một cặp bố mẹ già, một đôi vợ chồng người châu Âu gàn dở, kỳ quặc với những suy nghĩ khác thường chẳng giống ai. Tư tưởng nặng nề đó hình thành từ niềm u uẩn lê thê. Bố tôi trở nên hết sức điên khùng trong những năm cuối đời khi không còn chịu sự ảnh hưởng kiềm chế bớt của mẹ tôi. Không còn bà, ông tự bơm đầy vào mình một luồng khí xuất phát từ những suy nghĩ của chính riêng ông rồi thả mình trôi lơ lửng vào một thế giới khác. Cuối cùng, ông trở thành một người hâm mộ cuồng nhiệt Tổng thống Mỹ George W. Bush. Ông đã nhận xét Bush “không phải là một người thông minh nhưng đúng là người mà thiên hạ cần đến. Điều cuối cùng mà ta cần phải làm là ủng hộ giới trí thức nắm giữ quyền lực. Để bố nói con nghe, có một vài ý tưởng lố bịch đến nỗi chỉ có những giáo sư mới nuốt nổi”. Từ ngày nghỉ hưu, bố tôi bắt đầu nghiện viết những lá thư lem nhem mực gửi cho các tờ báo, những lá thư mà ông đã nhờ tôi gửi đi nhưng tôi chẳng bao giờ thực hiện điều đó. Có nghĩa gì đâu kia chứ? Thư thì không thể đọc được còn người viết thì gần như không tự mình đọc nổi tờ báo.

Căn hộ của chúng tôi là nhà thuê với một cái giá rẻ mạt. Những quý bà đội mũ tròn của Đội nữ tình nguyện viên Hoàng gia Anh (WRVS) đã tìm cho bố mẹ tôi căn hộ này khi họ mới chân ướt chân ráo tới Anh vào năm 1938 với tư cách là dân tị nạn trẻ đến từ Budapest. Có một bức ảnh chụp bố mẹ tôi đang mở khóa cửa trước, miệng mỉm cười gượng gạo, cứng đơ như những hộp thư bằng gỗ. Khi đã chắc chắn bước qua phía bên kia của cánh cửa, họ liền khóa chặt nó lại và cố gắng ra ngoài càng ít càng tốt. Họ đem theo duy nhất một món đồ: tượng một ông già Trung Hoa bằng ngà cầm cần câu bằng gỗ mun. Đó là quà cưới mà bà dì của mẹ tôi đã tặng. Để xem lễ đăng quang của Nữ hoàng Anh, bố mẹ tôi mua một chiếc ti vi mà họ luôn nâng niu với một mối quan tâm thấp thỏm thường trực. Họ lo nếu để ti vi tắt quá lâu, nó sẽ không chịu bật lên nữa bởi vì ti vi thời đó cần phải “khởi động cho nóng máy”. Biết đâu nó sẽ nguội quá thì sao? Biết đâu nó sẽ chết hẳn để trả đũa cho sự lơ là thiếu quan tâm săn sóc của họ?

Chủ nhà trọ là một nhà hảo tâm có nhiều bất động sản ở khắp London. Mỗi tuần, ông ấy cử một người đàn ông mặc áo bành tô vải tuýt hiệu Harris và đội mũ nỉ đi thu tiền thuê nhà mà bố mẹ tôi đã để sẵn trong một phong bì. Chưa bao giờ bố mẹ tôi trả tiền trễ hạn. Ông chủ nhà trọ đã cố tăng tiền nhà lên nhằm buộc bố mẹ tôi phải dọn đi song bố mẹ tôi vẫn trả đầy đủ mà không hề hé răng than phiền lấy một tiếng to nhỏ nào. Nội thất bên trong nhà chẳng được sửa sang, thay đổi. Mọi thứ đồ đạc dần trở nên lỗi thời nhưng bố mẹ tôi không quan tâm. Họ chưa bao giờ mảy may ngờ rằng một căn hộ trên đại lộ Marylebone, chỉ cách giao lộ Regent - Oxford, các nhà ga và hãng tin BBC vài bước đi bộ có thể đáng giá hàng núi tiền. Họ thành thật nghĩ rằng nhà hảo tâm kia (và kế tiếp là những người thừa kế của ông này, sau khi ông chết vào năm 1962) sẽ cho một lớp người tị nạn mới khác đến thuê lại căn hộ một khi họ đi xa. Họ hoàn toàn chẳng biết gì hết.

Lý do của sự ngây thơ này là vì bố tôi suốt cả ngày chỉ cắm cúi tập trung nhìn vào một điểm nhỏ, cách mũi ông vài ba centimet. Bố tôi là một thợ kim hoàn bậc thầy làm việc trong một gian phòng phía sau của một cửa hàng kim hoàn trên phố Hatton Garden - một con phố ở khu Farringdon, nơi người ta đến mua vàng và kim cương được cân tỉ mỉ bằng những cái cân bé xíu. Vàng và kim cương được chuyển tới từ Antwrep bởi những người đàn ông khoác áo đen, để râu đen, đội mũ đen, xách cặp đen có khóa xích vào cổ tay, nói chuyện điện thoại di động bằng đủ thứ tiếng và đầu óc thì cực nhạy với số má. Nhưng, bố tôi hoàn toàn chẳng dính dáng gì đến những người này. Ông lúc nào cũng cặm cụi làm việc trong gian xưởng bụi bặm chật kín những hộp và giấy tờ, ngồi dưới một ngọn đèn chói lọi, phục chế dây chuyền hỏng hay gắn những viên đá cũ vào những kiểu tạo tác mới. Đó là công việc mà bố tôi đã làm suốt từ năm ông 16 tuổi cho đến khi ông không thể nhìn được nữa lúc ông 81 tuổi, khi một tấm màng đen phủ xuống đôi mắt ông cứ như thể Chúa đã gửi đến ông một trong những yêu sách của Người.

Qua nhiều năm, nhiều người đã chuyển khỏi Benson Court. Vị bác sĩ và bà vợ của ông dọn tới Finchley khi tôi lên 5. Dù có một tấm thiệp vẫn được gửi đến tôi vào ngày sinh nhật nhưng cuối cùng họ vẫn rời sang Canada và thế là chúng tôi mất luôn liên lạc. Qua cánh cửa sổ nhà bếp nhìn ra con đường giữa hai tòa nhà, những tấm màn mới, những bức mành mới, những con người mới xuất hiện. Chúng tôi chưa gặp gỡ bất kỳ ai trong số họ. Một lần, tôi thấy một người phụ nữ đứng đó khóc một mình giữa đêm khuya. Mascara của bà chảy xuống còn ánh đèn huỳnh quang ở phía trên đầu làm cho mái tóc vàng của bà ấy ngả thành màu xanh lục. Năm 1968, một đứa bé mặc quần soọc đỏ kiểu chú hề trèo lên bờ tường, giữ thăng bằng được một chốc rồi lại loạng choạng ngả hết bên này sang bên kia. Nó cứ đi trên bờ tường như thế cho đến khi một cánh tay to lớn vòng qua người nó, bồng nó đến một chỗ an toàn. Có một dạo, một chính trị gia đã sống ở đó. Tôi từng có lần thấy ông ta xuất hiện trong bản tin trên ti vi ngoài phòng khách và rồi một phút sau, khi tôi vào nhà bếp để pha một tách cà phê, tôi lại thấy ông ta đang bình dị đun nước.

Năm tháng trôi qua, hết người này đến rồi kẻ khác ra đi. Cô phát thanh viên có giọng nói thanh thanh và anh bạn trai là một anh hùng chiến đấu được trao huân chương đặc biệt chuyển đến. Rồi đến bà vũ công ballet già cùng lão chồng là một tay buôn thảm Ba Tư đang làm ăn khấm khá, tôi đoán thế vì bà ấy có thói quen gọi lão ta là “đại gia nhà tôi” chứ không phải là “chồng tôi”. Cả Gillbert, anh họa sĩ vẽ biếm họa cho báo hay thể hiện chân dung các chính trị gia với cái mũi dài độc địa bất kể họ sự thật có cái mũi như vậy hay không. Ta thấy họ chạy lên chạy xuống cầu thang. Ta nghe thấy tiếng ồn ào tiệc tùng, nhìn thấy những gương mặt nổi tiếng. Và còn nhiều những người khác giấu mình sau cánh cửa, uống rượu, khóc lóc hay điều hành những công ty có những thương vụ mờ ám. Đôi khi, ta nghe thấy giọng ngoại quốc trong thang máy. Một tùy viên đại sứ quán Ấn Độ đã giấu cô đầm tóc vàng của mình trong một căn hộ.

Nhưng trong suốt thời gian đó, tôi là đứa nhóc duy nhất trong tòa nhà. Tôi không hiểu tại sao như thế. Có lẽ có một thứ gì đó trong những ống chì làm người ta mất khả năng sinh sản dù bố mẹ tôi đã cố gắng tìm đủ mọi cách để có tôi. Hay có lẽ đơn giản bởi tại Benson Court là nơi mà người ta đến chỉ vì cô đơn và cần được tiếp chút kích thích hào hứng của thành phố. Hay có lẽ vì họ chỉ tạm dừng chân ở nơi này. Hay có thể chính sách không sinh con đẻ cái vướng bận đã thắng thế trước bố mẹ tôi, những người tị nạn. Tôi biết ở đây cũng không có những con vật nuôi lớn hay nếu có, người ta cũng giấu chúng rất kỹ.

Tôi lớn lên trong một môi trường cô độc. Tôi sống chủ yếu trong căn phòng ngủ nhỏ bé của mình, một căn phòng nhìn ra ngoài phố có một chiếc giường đơn hẹp dành cho trẻ con cùng một tấm drap trải giường bằng vải bông trắng. Trên tường đối diện là một bức tranh đóng khung, vẽ một cảnh trong Hồ thiên nga, tuyệt tác ballet với những con thiên nga con, với tuyết và mặt nước loáng thoáng hồng. Trên tủ com-mốt là sách vở của tôi, nằm ngay ngắn nhờ một cặp chặn sách hình ngựa bằng thạch cao đã mẻ và một món đồ trang trí - một chú chó Trung Quốc bóng bẩy, giống chó Spaniel, tôi nghĩ thế. Người bạn duy nhất của tôi là ông già Trung Hoa bằng ngà ở phòng khách mà bố mẹ tôi đã mang theo từ Hungary. Tôi gọi lão là Simon và lão thường nói chuyện với tôi. Tôi không kể cho bố mẹ nghe về chuyện này.

Quần áo trong tủ đều rất kỳ lạ. Hầu hết là quần áo cũ từ Đội nữ tình nguyện viên Hoàng gia Anh: váy vải tuýt và áo cánh vải tơ tổng hợp màu ngà có cổ kiểu Peter Pan. Tất cả đều có cúc ngọc trai kín cổ và được viền bằng những dải ren bạc màu trông giống như tuyết bẩn. Chẳng có bức hình nào chụp tôi trong những bộ đồ đó. Bố tôi chưa bao giờ có một cái máy ảnh hay biết cách dùng máy ảnh như thế nào. Theo như tôi biết, chẳng có một bằng chứng nào về việc tôi từng là một đứa trẻ.

Những gì mà tôi nhớ đến mỗi khi hồi tưởng lại chính là Benson Court chứ không phải thời thơ ấu của mình. Và tôi khi đó đang ở tại hành lang tòa nhà, trong khu vườn công cộng hay trong phòng của mình với cuốn từ điển mà bố mẹ tôi đã trao cho tôi trong bọc giấy căng phồng như thể nó là chìa khóa mở cửa vào Vương quốc Anh. (Đối với họ, những người mà tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh, quả thực đúng là như thế). Vậy là, niềm yêu thích ngôn ngữ đã hình thành trong tôi, một đặc điểm của dân nhập cư. Tôi cố gắng lý giải nhiều điều bí ẩn về cuộc sống đơn giản của mình. Tôi chỉ nằm đó và suy nghĩ, không phải về bài tập ở nhà mà là chơi đùa với những ý nghĩ trong khi một đứa trẻ khác, một đứa trẻ thích thể thao hơn nằm dài suy nghĩ, hẳn sẽ liên tục dùng vợt tennis đánh một quả bóng nảy vào tường hay ném bóng vào vòng. Tôi nằm đó, nghĩ về khoảng cách giữa ta với mặt trời rồi giữa ta với mặt trăng, tiếp đến là với và nhiều thứ khác nữa cho đến khi tôi đặt một ngón tay lên chóp mũi và tập xem mình có thể giữ cho đầu ngón tay sát gần chóp mũi đến cỡ nào mà vẫn không chạm vào nó, xem liệu có đo được khoảng cách đó không. Mọi thứ cảm giác như rất gần nhưng đồng thời cũng xa xôi đến lạ. Thế giới bên ngoài trông như thể được nhìn qua lớp kính cửa sổ dày của một đoàn tàu tốc hành hay chí ít là giống như một trải nghiệm được miêu tả trong một cuốn sách vì tôi chưa từng đi tàu hỏa bao giờ. Tôi không hề bước ra ngoài phạm vi London mãi cho đến năm tôi 18 tuổi.

Tôi bồng bềnh trôi qua thời gian và không gian. Tôi có những giấc mơ rối rắm, đôi khi là những cơn ác mộng. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy ma trong thang máy. Tôi dễ bị kích động thần kinh, rụt rè, nhút nhát, dễ bị cảm lạnh, cảm cúm và viêm amiđan. Tôi thích nằm tĩnh lặng trên giường hơn với tấm drap, tấm chăn bông vào mùa đông - khoảng không khép kín của căn phòng và cả những miền không gian mỗi lúc một nhỏ hơn.

Đầy khao khát nhưng không được thỏa mãn toại nguyện về những điều mà tôi không thể nói hết thành lời hay không thể thấu hiểu, tôi gặm nhấm mọi thứ trong nỗi thất vọng. Tôi cắn móng tay và suốt vài tuần năm tôi 11 tuổi, tôi gặm cả cốc uống nước khiến miệng tôi chảy máu. “Ở đâu ra mà hàm con bé khỏe thế?” - bố tôi thốt lên và ngăn tôi lại.

Có một dạo, ở tuổi dậy thì, tôi mắc phải một chứng mà bây giờ người ta gọi là rối loạn ăn uống. Tôi toàn ăn những thứ có màu trắng hay màu vàng. Và thế là thực đơn của tôi chỉ gói gọn trong bánh mì, bơ, khoai tây, thịt gà và bánh. Tôi đâm béo ra chứ không hề gầy đi. Rồi đột nhiên tôi lại quay sang ghiền màu đỏ: thịt bò, cà chua, táo và đậu nuớng. Bố mẹ tôi nói chuyện về tôi khi tôi đã lên giường đi ngủ. Tôi nghe lỏm được cuộc nói chuyện của họ khi đang đi ra hành lang đến nhà vệ sinh đi tiểu đêm. Họ bất đồng về việc có nên đưa tôi đi tư vấn bác sĩ hay không. Mẹ tôi nói có còn bố tôi thì bảo không. “Đừng lo” - ông nói - “rồi con bé sẽ tự qua khỏi thôi.” “Nếu anh lo về chuyện tiền nong thì anh không phải chi tiền đâu, anh biết rồi mà” - mẹ đáp. “Chẳng liên quan gì đến chuyện đó cả. Con bé ổn mà. Bọn con gái đều dở dở ương ương như thế cả. Dĩ nhiên là trừ em ra, Bertha.” Rốt cuộc, tôi cũng điềm tĩnh lại và bắt đầu nhìn đời bình thản hơn, bắt đầu nhận thức được rằng nỗi đau sinh tồn là bình thường và hiển nhiên.

Đến tuổi thanh niên tôi đã có ý thức về bản thân và bắt đầu tự ngắm mình trong những ô cửa sổ của các cửa hàng trên đường đi học về. Tôi bắt đầu quan sát những người khác, lẫn trong đám đông hay đứng riêng từng người một, và học được cách hòa vào phần còn lại của thế giới loài người. Tôi dè dặt kết thân với những đứa con gái trong trường, những đứa bơ vơ lặng lẽ, và gia nhập một nhóm siêng năng học tập thường đến rạp chiếu phim Academy trên phố Oxford vào cuối tuần để xem những bộ phim nói đủ thứ ngoại ngữ mà chúng tôi đang học. Sau đó, chúng tôi ra Soho uống một tách cà phê sủi bọt. Rồi tôi về nhà ở Benson Court nơi bố mẹ tôi đang ngồi xem những chương trình giải trí nhẹ nhàng, những chương trình đố vui, những bộ phim nhiều tập sướt mướt hay những tập phim hài dài nửa tiếng trên ti vi với một khay đồ ăn khuya để trên đùi. Những chương trình chính luận nghiêm túc tuyệt nhiên không phải là lựa chọn của họ.

Mẹ tôi sinh ra đã bị chân cao chân thấp. Tôi chưa bao giờ thấy bà rời cây gậy nâu và cái áo chẽn vải nỉ màu nâu do bà tự may ‘để giữ ấm lưng’. Một hôm, trên đường từ trường về nhà, tôi thấy bà đang cố băng qua Đại lộ Marylebone, gần quán rượu, khi mật độ xe cộ rất cao. Bà không nhìn thấy tôi. Trong khi bà đang bồn chồn chờ cho những chiếc xe con và xe tải chạy chậm lại, chống cây gậy xuống lề vỉa hè, chuẩn bị xuống thấp một chút thì bỗng nhiên, một con chim sẻ đậu ngay xuống đầu bà. Chắc hẳn là mẹ tôi cũng cảm nhận được những cái móng bấu vào đầu mình nhưng bà không la lên. Bà chỉ đưa tay lên và chạm những ngón tay vào đôi cánh khô lạnh của nó. Con chim chẳng hề hoảng sợ bay đi hay thử mổ vào mắt bà. Nó chao lượn một lát, cách vài tấc trên mái đầu nâu sẫm của bà, rồi bay đi, để lại một cục phân trắng nhỏ xíu trên tóc bà.

Cảm thấy xấu hổ khi phải đi về nhà, tay quàng tay, với một người đàn bà có phân chim trên đầu; một người đàn bà không chỉ có phân chim mà còn cả một cây gậy gỗ nặng trịch với một đầu bịt cao su; một người đàn bà nắm lấy cánh tay con gái rồi khoặc tay mình vào đó một cách tự động vì bà nghĩ đó là cách mẹ và con gái cùng đi dạo phố, để thể hiện tình cảm - không muốn bị người ta nhìn thấy là đang đi với mẹ mình, tôi quay ngược lại dọc phố Moxon và liên tục rẽ phải để trở về đúng vị trí cũ rồi về nhà vài phút sau đó.

Tôi thấy mẹ trong phòng tắm. Bà đang gội đầu, mỉm cười và hát một đoạn nhạc trên đài. “Con biết không” - bà nói - “mẹ vừa được một chú chim nhỏ viếng thăm. Mới đầu, mẹ thấy nó không đáng yêu cho lắm nhưng khi chuyện này xảy ra, mẹ nghe nói nó sẽ mang vận may tới. Ngày mai mẹ sẽ gặp may mắn cho mà xem.”

Quả đúng là như vậy. Một lá thư được chuyển tới trong chuyến thư buổi sáng: chúng tôi đã trúng 10 bảng tiền xổ số định kỳ của công trái không có tiền lời. “Nhờ con chim đó đấy” - mẹ tôi nói. - “Cảm ơn mày, con chim nhỏ!”

Mẹ tôi là thế.