← Quay lại trang sách

Chương 5 Thủy chiến

Mạc Tông Trạch cưỡi con ngựa già đã gắn bó bao năm. Tên nó là Nhất Trượng Hồng, cao lớn, chân dài, thuộc dòng ngựa quý Tây Lương [*] . Đây là quà nhạc phụ làm quan to ở kinh đô tặng ông và A Uyển trong ngày thành thân. Cả hai sánh vai cưỡi ngựa từ kinh đô về Giang Kinh, trên đường ngao du sơn thủy, hành hiệp giang hồ. Hai con ngựa đã cùng họ tạo nên bao ký ức tuyệt vời. Nhưng không lâu sau đó, A Uyển bị sát hại. Với Mạc Tông Trạch, chết đi còn hơn là sống trong đau khổ.

(ct): * Một nước nhỏ tồn tại đầu thế kỷ 5, địa phận Tân Cương ngày nay.

Nhưng ông phải sống, can đảm mà sống, để không phụ công dưỡng dục của cha mẹ, không phụ lòng mấy trăm ngàn dân Giang Kinh đêm ngày mong mỏi được an cư lạc nghiệp, và không phụ ngọn lửa phục thù thiêu đốt trong lòng.

Nhưng tâm hồn ông thì đã chết. Kẻ nào giết người vợ hiền yêu quý của ông? Cho đến nay không ai đưa ra được câu trả lời. Các công sai của nha môn đều nói, bổ đầu tiền nhiệm của Giang Kinh là Lã Diệp Hàn bỗng lên cơn điên rồi ra tay, nhưng Mạc Tông Trạch biết, kẻ thù chính là Đoạn Chỉ Ma. Trong vòng năm năm, y đã giết vài chục phụ nữ vô tội, nạn nhân đều bị chặt ngón trỏ, Mạc phu nhân cũng bị chặt ngón trỏ, cho nên, hung thủ chỉ có thể là Đoạn Chỉ Ma.

Sau khi A Uyển và Lã Diệp Hàn chết, phó bổ đầu Mạc Tông Trạch lên làm bổ đầu, thực hiện tâm nguyện giữ gìn trị an địa phương. Ngay lập tức, cơn ác mộng lại tái diễn. Phụ nữ và các bổ khoái tiếp tục bị giết hại, Mạc Tông Trạch cũng dần hiểu thêm về Đoạn Chỉ Ma, ông ngày càng cảm thấy mình tiến gần đến cái bóng ma tàn bạo ấy. Ông đã mấy lần bày diệu kế dụ Đoạn Chỉ Ma để bắt y, lần cuối cùng tưởng như sắp thành công... nhưng vì có chút sơ sảy nên tên ác ma đã trốn thoát.

Suốt mười tám năm y không hề xuất hiện. Như thể đã tác oai tác quái đủ rồi, y tan biến vào hư vô. Mạc Tông Trạch tựa kẻ vừa tỉnh lại sau cơn ác mộng.

Nhưng hung thủ hôm nay thì sao? Đoạn Chỉ Ma tái xuất? Hay mười tám năm qua chỉ là một phần của cơn ác mộng, ông vẫn lạc lối trong đó với bao nỗi kinh hoàng, ánh đao bóng kiếm, nước mắt và máu tươi? Có phải ác mộng không, Mạc Tông Trạch vẫn nhớ nhung những tháng ngày vui sướng nhất mà người vợ yêu quý đem đến cho ông. Ông vẫn nuôi con ngựa của A Uyển, tiếc là hai năm trước nó đã ra đi, chắc là để ông bớt thở dài hoài niệm người thương? Hay để nhiều thêm nữa những đêm say mèm quên cả trời đất? Thế rồi Nhất Trượng Hồng trở thành nơi Mạc Tông Trạch gửi gắm nỗi nhớ nhung A Uyển. Nhìn nó, thì thầm chuyện trò với nó, ông cảm thấy người xưa vẫn ở bên mình.

Nhất Trượng Hồng tuy đã quá tuổi hai lăm, cũng cao niên rồi, nhưng vẫn là con ngựa mạnh mẽ thần tốc nhất nha môn, lúc này chở ông phi như bay trên đường cái. Cứ đi được một đoạn, hễ gặp quán rượu hay nhà dân, Mạc Tông Trạch đều dừng ngựa hỏi thăm xem họ có nhìn thấy đám người mặc đồ đen, cưỡi ngựa ô và một cỗ xe hay không.

Chạy nước đại hơn chục dặm, Mạc Tông Trạch thấy phía trước có quán trà và một ông già đang ngồi nhìn ra đường ngóng khách. Ông hỏi thăm mấy câu rồi giật ngựa quay ngược lại. Được một quãng ông rời đường cái, phóng ra bờ sông Thanh An. Mạc Tông Trạch có một suy đoán khá táo bạo, chắc chắn đám người mặc áo đen cướp xác không muốn bị người của nha môn truy bắt, nhất là chúng còn có một cỗ xe, cứ đi đường cái thì sớm muộn gì cũng bị đuổi kịp. Nếu là ông, ông sẽ thế nào? Sẽ trốn bằng đường thủy. Vờ chạy một đoạn đường bộ để đánh lừa đối phương, nhưng thực tế là bố trí thuyền để đi men theo triền sông, hoặc đi đường thủy một quãng, sau đó lại chuyến sang đường bộ.

Kế hoạch này đòi hỏi một sự sắp xếp kín kẽ và tốn kém cả tiền bạc lẫn sức người, hạng đầu đường xó chợ tuyệt nhiên không làm được. Đám người ngựa xe đen sì này, chắc hẳn phải có thực lực. Lúc nãy Mạc Tông Trạch hỏi thăm nhiều người, họ đều nói có nhìn thấy toán kỵ sĩ, chỉ riêng ông già hàng nước bảo không hề thấy. Tức là trước khi đến đoạn quán nước, bọn người kia đã rẽ xuống bờ sông.

Dọc sông Thanh An đến thành Giang Kinh, địa thế hai bờ phức tạp, chỉ thuyền nhỏ mới dễ đỗ. Đám người đó đem theo một xác chết, kiểu gì cũng đặt trong hòm gỗ cho kín đáo và dễ bảo quản, nên thuyền tiếp ứng phải là thuyền cỡ trung. Chỉ có vài bến đậu được thuyền cỡ trung ở vùng này, và quanh đây thì chỉ có một bến như thế, bến Lỗ Lân.

Lỗ Lân cách xa thôn xóm cư dân, nhưng nước sâu, bãi sông phẳng, và cũng gần đường cái, nên thường có thuyền hàng và thuyền chở khách cập bến. Dù thế, đây vẫn là bến thuyền vắng vẻ nhất Giang Kinh. Từ đường cái đến bến thuyền phải đi qua một khu rừng thưa và đoạn đường đất, mặt đường có nhiều dấu vết lộn xộn còn mới. Mạc Tông Trạch đoán không sai, lúc bến thuyền lọt vào tầm mắt, lòng ông bỗng trĩu nặng.

Một con thuyền buồm cỡ trung trông khá đơn sơ đang chậm rãi bẻ lái tách khỏi bờ.

Mạc Tông Trạch bèn vỗ mạnh vào cổ Nhất Trượng Hồng, hô lên, “Ông bạn già! Lại lần nữa nào!” Rồi rút thanh trường kiếm bên hông, buông dây cương, rút hai chân khỏi bàn đạp, đứng lên lưng Nhất Trượng Hồng hệt như đang diễn xiếc. Con ngựa dồn sức phi nước đại như muốn lao thẳng xuống lòng sông. Đây là kỹ thuật mà Mạc Tông Trạch và Nhất Trượng Hồng đã luyện tập nhiều năm, và từng không ít lần giành ưu thế khi bất ngờ tiến đánh kẻ địch. Nhất Trượng Hồng phi đến bờ sông thì khựng lại, Mạc Tông Trạch theo quán tính nhảy vọt lên không rồi lăng mình ra con thuyền buồm đang đến giữa dòng. Ông đã tính toán trước khoảng cách để đáp xuống thuyền, đồng thời cũng lường trước việc trên đó chẳng phải chốn không người.

Quả nhiên, khi Mạc Tông Trạch còn cách mục tiêu khoảng hơn một trượng, một gã mặc đồ đen từ thuyền phi thân lên nghênh tiếp, ánh kiếm loang loáng bao trọn lấy vị trí ông định đáp xuống. Trường kiếm của Mạc Tông Trạch sớm đã vươn ra ứng chiến, nhân lúc hai kiếm giao nhau, ông nhanh chóng ổn định lại tư thế. Nhưng ông không ngờ đối phương xuất chiêu cực nhanh, trong chớp mắt đã chém ra sáu đường chí mạng.

Bao năm nay Mạc Tông Trạch chưa gặp kiếm pháp thần tốc thế này. Lần giao đấu với kẻ có kiếm pháp nhanh như vậy là từ hai mươi năm về trước, khi mới đến Giang Kinh, ông và bổ đầu Lã Diệp Hàn từng bố trí vây bắt Đoạn Chỉ Ma nhưng bị y đoán được. Trong đêm tối, hai ông đã đấu vài chục hiệp với y. Lã tiên sinh trước đó từng là dịch trưởng của Đông Xưởng, lừng danh với kiếm pháp độc đáo. Mạc Tông Trạch là tinh anh của phái Côn Luân. Cả hai coi như ngang tài ngang sức. Hai mươi năm đã qua, Mạc Tông Trạch dù mải mê mượn chén tiêu sầu nhưng ý chí phục thù không hề nguội lạnh, ông vẫn luôn trau dồi kiếm thuật, tài nghệ đã tiến bộ vượt bậc.

Kiếm pháp cao siêu của bóng đen trước mặt khiến ông thoáng kinh hãi. Mạc Tông Trạch chưa nhìn rõ mặt đối thủ, nhưng khí thế dữ dội và linh hoạt giúp ông nhận ra gã còn trẻ, mà tài nghệ thì hơn hẳn ông hai chục năm về trước. Sau khi hóa giải các đường kiếm chí mạng của gã, Mạc Tông Trạch đáp xuống mui thuyền, cả hai cùng ngưng chiến và chăm chú nhìn nhau.

Gã áo đen quả nhiên trẻ tuổi, mới ngoài hai mươi, khuôn mặt trắng trẻo, mũ đen đội đầu làm nước da hơi xanh đi. Có lẽ do ấn tượng ban đầu mà Mạc Tông Trạch cảm thấy kẻ này dù tuấn tú khôi ngô nhưng lại không toát ra khí phách anh hùng, ngược lại quanh người lởn vởn sát khí nặng nề.

“Từng nghe Mạc tiên sinh là nhân vật hiếm có đương thời thuộc phái Côn Luân, quả là danh bất hư truyền.” Giọng gã lạnh lùng.

“Phóng đại đấy.” Mạc Tông Trạch cũng lạnh lùng đáp trả, “Dân chúng đã tận mắt nhìn thấy các ngươi đem cái xác ở ven hồ Chiêu Dương đi, ta muốn các ngươi hãy trả lại!”

Gã áo đen cười, “Bổ đầu phá án nhiều năm, hẳn đã biết việc dân chúng nhìn nhầm là thường tình.”

“Thế thì phiền ngươi vén rèm mở cửa khoang thuyền, để ta kiểm tra.”

Đối phương thở dài, “Mạc tiên sinh làm việc công, chúng tôi cũng làm việc công. Ông từng trải như thế mà chưa nhìn ra hay sao?”

“Đông Xưởng?” Mạc Tông Trạch vốn đã ngờ ngợ, vì đám người này hành động kỳ quái nhanh chóng, tài lực và nhân lực dồi dào, bố trí cũng tỉ mỉ chu đáo.

Gã áo đen lại cười, lần này bớt lạnh lùng hơn, “Bổ đầu thức thời đấy!”

“Dù là việc công, thì cũng nên thông báo cho bổ đầu địa phương được biết, nạn nhân là ai, hung thủ là kẻ nào, để ta quay về còn dễ ăn nói với tri phủ và các vị thông phán [*] chứ?”

(ct): * Chức quan dưới quyền tri phủ, phụ trách từng mảng công việc.

Trong lúc hai bên đối thoại thì thuyền vẫn đi về hướng Tây, bóng Nhất Trượng Hồng trên bờ nhỏ dần.

“Xem ra, khen Mạc bổ đầu thức thời lại hơi sớm quá. Ông làm nha môn bao năm, phải hiếu Đông Xưởng khi xử lý các vụ án đều không muốn địa phương biết, địa phương cũng đừng hỏi han làm gì.” Gã áo đen bực mình.

Mạc Tông Trạch nói, “Nhưng lần này thì khác, nơi ta quản lý xảy ra nhiều án mạng chỉ trong một đêm, có trời mới biết còn xảy ra gì nữa không. Ai dám chắc những nạn nhân này không liên quan đến nhau? Các ngươi đem thi thể đi cũng được, nhưng phải cho ta nhìn xem tình trạng tử nạn đã?”

“Tính cố chấp của ông cũng danh bất hư truyền!” Gã áo đen vung trường kiếm vạch một đường giữa khoảng không, như thiết lập một bức tường vô hình. “Mời ông quay về cho, chuyện xem cái xác thì miễn bàn!”

“Ít nhất cũng phải cho ta biết nạn nhân có bị chặt mất ngón tay không?”

“Không được!”

Thanh kiếm trong tay Mạc Tông Trạch khẽ lay động, “Đúng, ta cố chấp. Nên e là ta không dễ cho qua đâu!”

“Nếu thật là như thế... tôi cũng phải nhắc nhở Mạc bổ đầu rằng, trên thuyền này, tôi tuyệt nhiên chưa phải người có võ công cao cường nhất, nên vẫn mong ông nghĩ cho kỹ xem vì cái xác vô danh ấy mà máu nhuộm sông này, có đáng không? Dù bổ đầu có an toàn thoát thân, Đông Xưởng cũng sẽ khiến ông sống không bằng chết...” Từ ngày vào nghề đến nay, hễ gã phun ra hai chữ “Đông Xưởng” thì các quan chức địa phương đều câm miệng rút lui, chẳng thấy ai gàn bướng như Mạc Tông Trạch.

“Ta chỉ có một thân một mình, sẵn sàng thua và cũng dám chết!”

“Lão phu nhân thì sao?” Gã áo đen lạnh lùng hỏi.

“À há, xem ra ta đã đánh giá thấp thủ đoạn của Đông Xưởng các ngươi!” Không lâu sau khi người vợ hiền bị hại, Mạc Tông Trạch đã đón mẹ già đến Giang Kinh chăm sóc. Hai mẹ con, mẹ góa chồng lúc trung niên, con góa vợ khi còn trẻ, bao năm qua an ủi, nương tựa nhau mà sống.

“Cả gia đình nhạc phụ của ông nữa. Họ từng thân thiết với đảng Đông Lâm [*] , bọn tôi nắm trong tay vô số bằng chứng. Thế sự xoay vần, mai kia sẽ phát hiện ra họ là nguồn gốc của một vụ án mới... Mạc bổ đầu năm xưa không chăm sóc thê tử chu đáo, ông mắc nợ gia đình nhà vợ vẫn chưa đủ nhiều à?”

(ct): * Bè phái chính trị của các quan lại vùng Giang Nam, cuối thời Minh, thường chỉ trích nhạo báng triều đình đương thời.

Đồ vô liêm sỉ! Mạc Tông Trạch muốn thét vào mặt gã, nhưng kiềm chế được, ông gửi gắm lửa giận vào từng chiêu kiếm hung hiểm của mình. Nhưng ông cũng biết mình không thể để cho mẹ già và gia đình nhạc phụ bị liên lụy. Lúc này nếu ông quyết xông vào khoang thuyền thì đơn độc chẳng đấu lại được số đông, khả năng áp đảo gần như bằng không. Rõ ràng là người của Đông Xưởng sớm lường trước rằng ông sẽ can thiệp nên đã nghĩ sẵn các thủ đoạn để ứng phó.

Mạc Tông Trạch giận dữ gầm lên, rồi lia một đường kiếm! Mấy mảnh tre đan mui thuyền bị phạt đứt, chẳng mấy chốc đã ở trong tay ông. Mạc Tông Trạch tung mình nhảy vọt lên không, đồng thời ném một mảnh tre xuống nước, chân chạm mảnh tre và lại phóng mình lao đi, ném một mảnh tre khác ra để đáp xuống. Khoảng bảy lần hụp nhảy như thế, ông đã vào đến bờ.

Nhìn theo đến khi hút bóng, gã áo đen thở phào, lại thấy hơi chóng mặt. Gã vốn sợ sông nước, thế mà lúc này phải lênh đênh trên thuyền, khuôn mặt tuấn tú tái nhợt đi. Lúc đấu kiếm với Mạc Tông Trạch, gã cố không nhìn xuống nước nên mới bình thản ứng phó, giờ đứng im nghe sàn thuyền tròng trành, gã lại thấy sợ.

“Kỳ công công gọi ngươi!” Một giọng nói lạnh giá vang lên sau lưng. Dứt lời, kẻ truyền tin xoay mình, đi ngang qua một tên áo đen khác lớn hơn gã vài tuổi, vai suýt chạm vai nhưng đã kịp thời né sang bên. Cả hai cùng im lặng.

Gã áo đen ban đầu vén rèm bước vào khoang, chắp tay hành lễ với người được gọi là “Kỳ công công” đang ngồi uống trà. Đây là hoạn quan duy nhất trong chuyến đi, và đương nhiên là người cầm đầu nhóm. Ông ta khoảng bốn mươi tuổi, mặt gầy quắt, lúc này đang cố giữ bình tĩnh, nhưng khi ngẩng đầu lên thì ánh mắt sáng quắc đầy uy lực. Bàn tay đang nâng chén trà, ngón út chĩa sang bên, giọng nói lạnh tanh, “Lâm Hưởng, ngươi cảm thấy thế nào?”

Lâm Hưởng thận trọng đáp, “Nhờ phúc công công, gươm không dính máu, con lừa già ương ngạnh ấy rốt cuộc cũng hiểu ra thế nào là lợi hại, đã chủ động rút lui.”

“Xem ra ngươi rất đắc ý?” Kỳ công công nhấp ngụm trà, “Không phải ta cố tình bắt bẻ, nhưng lời qua tiếng lại ta đã nghe rõ, đúng là hắn nén giận rồi rút lui, nhưng chưa chắc hắn đã chịu dừng lại không đeo bám nữa. Ngươi tính sao?”

Lâm Hưởng biết mục đích chủ yếu của Kỳ công công ở chuyến đi này là ra sức bới lông tìm vết.

Đông Xưởng hai trăm năm nay luôn truyền cho duy nhất một người. Kỳ công công và Nam công công nhiều năm qua vẫn ngấm ngầm so đọ với nhau. Nam công công võ nghệ cao hơn một bậc, lại có thâm niên, tuy mẫn cán hơn nhưng đến nay vẫn chưa được đại hoạn quan đốc chủ Đông Xưởng là Tào Hóa Thuần [*] để mắt đến. Còn Kỳ công công giỏi bợ đỡ lấy lòng, hành động tàn độc thẳng tay thì lại được trọng dụng, đã nhiều lần dẫn thuộc hạ đi tróc nã nghi phạm và phá trọng án.

(ct): * (1589-1662), một hoạn quan học rộng đa tài, được Sùng Trinh vô cùng tin dùng.

Lâm Hưởng là người của Nam công công, chuyến này đi theo Kỳ công công thì rõ ràng là bị đẩy vào chảo lửa, gã thậm chí nghe thấy tiếng cười giễu cợt lộ liễu của Hứa Thuận ở sau lưng mình.

Hứa Thuận là chó săn của Kỳ công công, dọc đường không bỏ qua cơ hội nào để châm chích nói kháy Lâm Hưởng. Lâm Hưởng hiểu rằng vì đại cục, mình cần phải nhẫn nhịn. Chuyến đi về phương Nam lần này đến giờ vẫn sóng lặng gió yên. Mạc Tông Trạch bất ngờ xuất hiện, vừa khéo là một cơ hội để Kỳ công công gây khó dễ cho Lâm Hưởng.

Lâm Hưởng thuộc hàng tinh anh trong lớp trẻ Đông Xưởng, nhưng tiền đồ không mấy sáng sủa, điều này thì ai cũng rõ. Ở Đông Xưởng, muốn thăng lên các chức vụ bậc trung như bách hộ, thiên hộ [*] ... đều phải có xuất thân danh giá hoặc có chỗ dựa vững chắc, nhưng Lâm Hưởng chỉ có Nam công công. Chính Nam công công còn đang nhọc nhằn vật lộn trên hoạn lộ của mình, không trông đợi được gì nhiều, nhìn chung là một chỗ dựa bấp bênh.

(ct): * Bách hộ, thiên hộ, vạn hộ trong cơ chế quan binh là các chức danh chỉ huy đặt ra từ đầu thời nhà Kim. Bách hộ quản lý 120 người, thiên hộ (hạ-trung-thượng) quản lý lần lượt 300-500-700 người. Vạn hộ (hạ-trung-thượng) quản lý lần lượt 3000-5000-7000 người. Riêng thời Nguyên đổi cách gọi tương ứng thành bách phu trưởng, thiên phu trưởng, vạn phu trưởng.

Lâm Hưởng đáp gọn, “Công công thấy nên thế nào, xin dạy bảo.”

Kỳ công công nói, “Ta chỉ biết làm việc cho lão đại nhân thôi, nói cách khác là nghe trời sắp đặt, không có gì để dạy bảo cả.” Lão đại nhân tất nhiên là hoàng thượng. Kỳ công công đặt chén trà xuống bàn, rút từ tay áo thụng ra một ống trúc dài khoảng năm tấc. Lâm Hưởng chợt thấy lòng nặng trĩu. Kỳ công công hay chơi cái trò này, trong ống trúc có ba thẻ, mỗi khi gặp phải việc khó xử, ông ta thường xóc thẻ để ra quyết định. Nội dung các thẻ là: cho qua, lấy độc trị độc, xách đầu về gặp.

“Cho qua”, đúng theo nghĩa đen, tức buông tha, dĩ nhiên là thẻ an nhàn nhất. Nếu xóc được “lấy độc trị độc”, tức là phải bắt sống về kinh, tống ngục, tra tấn, hỏi cung, rồi xử lý, đương nhiên là vất vả hơn. “Xách đầu về gặp”, rất rõ ràng, là thủ tiêu ngay tại chỗ và đem chứng cứ về.

Kỳ công công rút ba cái thẻ chìa cho Lâm Hưởng xem, rồi lại thả vào ống, đậy nắp lại. Giữa nắp rạch một khe “ý trời”,, thẻ nào thò ra từ đấy chính là cái được chọn. Kỳ công công lắc ống trúc, tiếng thẻ lọc xọc va vào thành ống làm Lâm Hưởng căng thẳng. Sau hai mươi tám lượt lắc, Kỳ công công hừ khẽ rồi dừng tay, tiếng “cạch” vang lên cùng lúc một cái thẻ thò đầu ra khe nắp. Nhìn qua chỉ là động tác lắc giản đơn, nhưng dân nhà nghề đều biết, muốn làm cho thẻ tự thò đầu ra cần có nội lực tinh thâm. Người bình thường hoặc nội lực còn non thì đừng nói là hai mươi tám lượt, lắc hai mươi tám năm cũng không thấy thò ra cái gì.

“Hứa Thuận, cho Lâm Hưởng xem thẻ đi.”

Hứa Thuận mở nắp ống, rút cái thẻ đang mắc kẹt ở khe nắp, liếc mắt nhìn sắc mặt liên tươi roi rói, đủ biết đó là thẻ gì. “Xách đầu về gặp.”

Lâm Hưởng nói, “Mạc Tông Trạch kiếm pháp cao siêu, tiểu nhân tài mọn, giữ được tính mạng đã là may mắn rồi.”

Kỳ công công ra lệnh, “Thế thì để Hứa Thuận đi cùng ngươi.”

Quay vào đến bờ, Mạc Tông Trạch bỗng muốn uống thật say. Có lẽ đó là tâm trạng của kẻ yếm thế. Dù sao thì, rượu mạnh và giấc ngủ sau hơi men cũng giúp ông nhìn nhận rõ bản thân, một kẻ nhu nhược không hơn không kém. Không có can đảm chết theo A Uyển. Cũng không có dũng khí khiêu chiến với số phận của mình. Nhất Trượng Hồng cà mũi vào cánh tay chủ, khẽ phì phò, nhớ nhung, thấu hiểu và an ủi.

Mạc Tông Trạch lên ngựa, ông không phi nước đại như lúc đến, mà chỉ lững thững ra khỏi khu rừng thưa bên sông, cũng dần thôi tự trách, chuyển sang phân tích vụ án trước mắt. Lão Khâu đã phát hiện ra nguồn gốc ba cái xác chưa? Đã đoán ra hung thủ chưa? Có đúng Đoạn Chỉ Ma tái xuất không? Nếu viên ngỗ tác kỳ cựu đã tìm ra manh mối, thì cái xác mà Đông Xưởng vừa cướp biết đâu lại giúp lão phá được án? Ngộ nhỡ đúng thế, bổ đầu như ông tay không trở về chắc chắn sẽ khiến thuộc hạ thất vọng.

Nhất Trượng Hồng bỗng dừng lại. Một gã áo đen chặn đường, trang phục giống hệt gã áo đen kiếm pháp cao siêu trên thuyền ban nãy, chỉ khác là nhiều tuổi hơn, thân hình vạm vỡ, mặt vuông vức, ánh mắt hung dữ nhưng không lộ sát khí hiểm độc như người kia. Trong tay gã là cặp loan đao, dài và cong hơn loại đao mà Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng vẫn dùng. Để sử dụng song đao thế này, chủ nhân phải có đôi cánh tay phù hợp, và phải khổ luyện nhiều năm để đôi tay vận động được nhịp nhàng ăn ý.

“Tiếc thay, ngươi đã luyện nhầm binh khí!” Mạc Tông Trạch vừa buông lời thì đối phương đã lia ra ba nhát đao, đều là đòn chí mạng.

Mạc Tông Trạch xuống ngựa ứng chiến, nhận ra gã không phải là đối thủ của mình, ông vừa dễ dàng hóa giải vừa nói, “Hình thể và sức vóc trời cho thì được, nhưng luyện loan đao cần có cánh tay dài, thân thể nhẹ nhàng linh hoạt. Ngươi ục ịch, luyện song đao sẽ yếu thế trong chiến đấu, tương lai khó có thành tựu. Cứ ép ta phải phản kích, liệu có ích gì cho ngươi không?” Nói đến đây, ông bỗng rùng mình, thuộc hạ mà Đông Xưởng phái đi không thể là một gã non nớt thế này, hẳn phải có địch thủ khác! Nghĩ chưa dứt, đã thấy kiếm khí bắn đến sau lưng. Mạc Tông Trạch liền nhảy chéo sang bên, vận dụng kiếm pháp Côn Luân che chắn mọi chỗ hiểm yếu trên thân thể. Kiếm khí đọ kiếm khí, người có nội lực mạnh hơn, dụng khí tài tình hơn sẽ áp đảo đối phương.

Kẻ vừa tập kích chính là gã áo đen giỏi đánh kiếm trên thuyền ban nãy. Mạc Tông Trạch biết trong vòng trăm hiệp mình sẽ không thua gã, thậm chí chắc thắng, nhờ vào kinh nghiệm chinh chiến mấy chục năm. Nhưng nếu gã và tên cầm song đao hợp sức tấn công, thì ông chẳng trụ nổi bao lâu. Xem ra hôm nay lành ít dữ nhiều.

Hứa Thuận thấy mình và Lâm Hưởng dần chiếm thế thượng phong, bèn hô, “Cứ thẳng tay vào! Thừa thắng xông tới!”

Nghe vậy, Mạc Tông Trạch bừng tỉnh. Đông Xưởng chuyên làm việc mờ ám, không muốn bại lộ nên làm gì cũng phải bảo đảm chắc ăn. Hai tên áo đen tuy đang có ưu thế, nhưng nếu muốn ông không thoát được, thậm chí muốn áp đảo và xử gọn ông, chắc hẳn số thuộc hạ Đông Xưởng phái tới không chỉ có hai kẻ này.

Lòng bàn tay nhớp mồ hôi, Mạc Tông Trạch hơi thu kiếm khí, dồn sức để tung tuyệt chiêu chí mạng. Hai thanh loan đao quay vun vút, Mạc Tông Trạch thậm chí còn nhìn thấy nét cười đắc ý của đối phương. Nào ngờ song đao đang lia vù vù bỗng “choang, choang” rơi xuống, đối phương gục ngã không kịp kêu một tiếng.

Lâm Hưởng thầm kinh hãi, không hiểu chuyện gì xảy ra, một thoáng phân tâm khiến kiếm khí yếu đi. Gã nhìn thấy cách đó không xa, có hai bóng đen đang quấn vào nhau, lúc nhanh lúc chậm. Một trong hai là Giang Trọng Vũ, dịch trưởng cùng đi chuyến này, sở trường nội công và khinh công. Vừa rồi Giang Trọng Vũ nấp trong chỗ khuất phòng hờ Mạc Tông Trạch tẩu thoát. Thế kẻ kia là ai? Hay Mạc Tông Trạch đã lường trước nên bố trí trợ thủ mai phục?

Còn đang băn khoăn, kiếm khí của Mạc Tông Trạch đã ồ ạt tràn đến, đầy ắp cuồng nộ quyết hạ gục đối thủ.

“Còn chờ gì nữa? Mau ra tay đi!” Giọng Giang Trọng Vũ trầm trầm.

Lâm Hưởng biết, lên lưng hổ khó mà xuống được, không giết nổi Mạc Tông Trạch thì đừng mong quay về. Kỳ công công đã cho gã thẻ “xách đầu về gặp”, không làm nổi tức là trái lệnh, mà trái lệnh là chết.

Thoáng chốc, kẻ bị dồn vào đường cùng, phải quyết một trận sống mái không còn là Mạc Tông Trạch mà đã thành Lâm Hưởng.

Gã quát to, vận đầy kiếm khí. Người dùng khí ngự kiếm thường tránh dùng hết nội lực quá sớm. Mạc Tông Trạch thấy vậy, cũng hiểu Lâm Hưởng quyết ý liều mình, bèn chầm chậm lùi lại, hóa giải đợt tiến công mạnh mẽ của đối phương. Một, hai, ba bước... kiếm khí uy mãnh bỗng tan biến trên không, tên sai dịch trẻ tuổi thình lình mất hút ngay tại chỗ, cứ như gã vẫn ở trên thuyền chứ chưa từng lên bờ chặn đánh ông.

Mạc Tông Trạch sửng sốt, chớp đỏ chói lòa trước mắt. Là máu. Ông rú lên thảm thiết.

Lâm Hưởng đã vút ra xa mấy trượng, thanh kiếm gã cầm tong tong rỏ máu.

Chén trà nguội ngắt trên tay Kỳ công công. Ba tên thích khách đi mãi chưa thấy về. Hay là chúng gặp rắc rối? Hay là mình quá chủ quan? Đúng! Mạc Tông Trạch đâu phải kẻ dễ nhằn, hắn là đệ tử tục gia xuất sắc nhất phái Côn Luân. Nhưng thiên hạ ai thèm quan tâm chứ? Người Đông Xưởng chỉ cần nghe, ba cao thủ ông phái đi không hạ nổi một bổ đầu địa phương, họ sẽ cau mày không hiểu, và cười cho thối mũi!

“Kỳ công công! Họ đã về!” Tên sai dịch canh gác bẩm báo.

Rèm vén lên, Kỳ công công vẫn ngồi yên nhìn ra mũi thuyền.

Trước hết, một cái xác được khiêng đến.

Hứa Thuận.

Kỳ công công đứng bật dậy. Hứa Thuận là người của ta! Tiếp theo là Giang Trọng Vũ, người đem xác Hứa Thuận vê. Gã cúi đầu vấn an, “Trợ thủ xuất hiện, bất ngờ tập kích Hứa Thuận, gã chưa chết, vẫn còn thoi thóp, bị thương nặng rồi hôn mê.”

Kỳ công công lẩm bẩm, nhưng lại như đưa ra câu hỏi, “Việc này vốn giao cho Lâm Hưởng. Ý trời cho biết, xách đầu về gặp.”

Nếu Hứa Thuận có mệnh hệ gì thì Lâm Hưởng cũng lãnh đủ hậu quả.

Lâm Hưởng ngồi vật xuống mạn thuyền, khuôn mặt tái xanh dính máu lấm tấm. Gã ném cái thủ cấp vào trước màn che khoang thuyền.