← Quay lại trang sách

Chương 7 Tà ma

Chợ Tước Vĩ ở mạn Tây Nam thành Giang Kinh, ban ngày tấp nập đông vui, từ rau quả thịt cá cho đến kim chỉ may vá và các đồ lặt vặt chẳng thiếu thứ gì. Mấy năm nay, vì khắp nơi loạn lạc, xa gần lại thêm thiên tai địch họa, chợ dần vắng vẻ tiêu điều, nhưng vẫn là chốn náo nhiệt trong thành. Tối đến, vài lều trại không tháo dỡ lại trở thành nơi trú thân của đám ăn mày. Phủ Giang Kinh tuy có một phân đà của Cái Bang nhưng những người ngủ qua đêm ở chợ Tước Vĩ đều là những kẻ ăn mày tự do.

Tin về sáu cái xác bên hồ Chiêu Dương cũng đã truyền đến chợ Tước Vĩ, cho nên, Vô Kê đạo trưởng vừa xuất hiện liền bị đám trẻ con vây kín, vòi lão kể chuyện Đoạn Chỉ Ma. Lão xua tay làm vẻ muốn đuổi chúng đi, “Trẻ con, không nên biết!” Tiếp đó lại có mấy người ăn mày bước đến hỏi, có phải Đoạn Chỉ Ma tái xuất và giết nhiều người ở bên hồ Chiêu Dương? Vô Kê chỉ cười giễu, “Các ngươi có biết Đoạn Chỉ Ma giết người như thế nào không?”

“Đã lâu lão không kể chuyện, ai mà nhớ được?”

“Kể lại đi mà!”

Được họ hứa cho chút cơm thừa canh cặn, Vô Kê không thể từ chối, bèn tặc lưỡi giở nghề cũ là kể chuyện rong.

Tiểu bổ khoái A Kiệt đang đứng gần đó. Mạc bổ đầu cử gã bám theo lão già Vô Kê bí hiểm, lúc này nghe thấy lão sắp kể về vụ Đoạn Chỉ bèn tập trung chú ý. Đoạn Chỉ Ma cũng là đề tài gây xôn xao ở nha môn, nhưng đều chỉ dưới dạng các mẩu tin đồn chắp vá, A Kiệt không dám hỏi bổ đầu, cũng chưa biết tối nay Vô Kê đạo trưởng có kể tường tận không.

Tay Vô Kê gõ hai mảnh tre lách cách, bắt đầu kể, “Năm tiên hoàng Vạn Lịch thứ 47 [*] ...”

(ct): * Năm 1619.

“Lần trước lão nói là năm thứ 46 kia mà?” Có người phì cười.

Vô Kê lừ mắt, “Bới lông tìm vết vớ va vớ vẩn! Năm quan trọng hay người chết quan trọng?”

Đám đông cười ầm lên. Vô Kê lại tiếp tục, “Năm Vạn Lịch thứ 47...”

•••

... Trong khói sương chiều thu, ngôi lầu nhỏ bên bờ sông Thanh An trông âm u rờn rợn.

Cách đó không xa, bổ đầu phủ Giang Kinh Lã Diệp Hàn ngồi thụp trong cái hố, quan sát ngôi lầu qua khe ván đậy bên trên. Rùng mình. Tà ma vẫn chưa xuất hiện mà cái lạnh đã từng đợt từng đợt tràn đến, như con thú tàn độc gặm nhấm gáy ông.

Đau quá! Lã Diệp Hàn khẽ nguyền rủa rồi đưa tay chộp gáy, túm được một con chuột chù răng còn dính máu đang giãy thật lực. Ông bóp mạnh. Đợi con chuột phòi qua các kẽ tay thì rảy ra, lại lôi hồ lô rượu đeo bên hông lên tu một ngụm. Vị cay nồng của rượu ngấm vào ruột gan, tạm thời chuốc tê nỗi lo lắng trong lòng.

Thời ở Đông Xưởng, Lã Diệp Hàn một lòng một dạ phục vụ nên mang tiếng xấu khắp trong ngoài, cả giang hồ đều biết. Là một thiên tài điều tra phá án, một dịch trưởng đeo kim bài khiến mọi người nể sợ, được ban danh “tận trung báo quốc”, nhưng thật ra toàn làm những việc phải hổ thẹn với trời. Cho nên, cởi bỏ mũ giáp rời khỏi kinh đô, nhìn qua tưởng là hành động rời bỏ sự nghiệp ngay khi còn ở đỉnh vinh quang, kỳ thực là ông không muốn tiếp tục sa ngã nữa.

Từ chức nhưng không về vườn, Lã Diệp Hàn lựa chọn làm một bổ khoái bình thường, giúp dân đen xử lý vài ba vụ án vụn vặt, tích chút âm đức, mong sao sau khi hưởng trọn tuổi trời sẽ không bị đày xuống địa ngục. Tuy nhiên, hiếm thấy bổ khoái tài ba nào được hưởng trọn tuổi trời, và các vụ việc đến tay Lã Diệp Hàn cũng không hề vụn vặt.

Trong số đó có một vụ, mà đám kể chuyện rong chúng ta thường gọi là án Đoạn Chỉ! Hung thủ hoành hành ở Giang Kinh ba năm trời, hơn chục nạn nhân đều là các cô gái trẻ, sau khi bị làm nhục đủ bề, bị giết, còn bị chặt một ngón tay. Các nạn nhân này xuất thân khác nhau, tiểu thư khuê các, thiếu nữ nhà lành, gái quê lam lũ, gái làng chơi... đủ cả. Rõ ràng, hung thủ là kẻ cuồng sát khát máu chỉ nhằm hại phụ nữ vô tội chứ không có mục đích rõ ràng.

Lã Diệp Hàn làm ở Đông Xưởng ba mươi năm, phá vô số vụ án kỳ quái tàn độc, ông biết, phải gọi y bằng hai chữ “tà ma”, võ công cao siêu lại ranh mãnh cảnh giác, giỏi giấu mình. Trong vòng ba năm đã có vài bổ khoái dạn dày kinh nghiệm phải bỏ mạng hoặc bị thương dưới lưỡi kiếm của y. Chết, đều là một nhát xuyên tim. Bị thương, đều là ở đầu, quên bẵng cả họ tên nhà cửa, không nhận ra thân thích, tinh thần điên loạn, bài tiết bừa bãi, sống không bằng chết.

Trước thảm cảnh ấy, Lã Diệp Hàn thầm thề độc sẽ báo thù rửa hận cho các đồng liêu, giành lại tôn nghiêm cho nha môn, diệt ma trừ ác cho bách tính.

Nhưng suốt ba năm trời, hành tung của Đoạn Chỉ Ma chìm khuất giữa sông nước Giang Kinh, hi vọng bắt tội đồ về quy án ngày càng mong manh.

Lã Diệp Hàn cất công thu thập tất thảy hồ sơ ghi chép về vụ Đoạn Chỉ, địa điểm, thời gian, thủ đoạn, các đặc trưng của nạn nhân. Rồi ông nghiền ngẫm, suy luận, ước đoán bước tiếp theo của Tà ma để bắt sống y. Nhưng y toàn cố ý để rớt vài ba dấu vết cho các bổ khoái tiếp cận, rồi hết lần này đến lần khác tẩu thoát trong gang tấc.

Mỗi lần y thoát hiểm là một thiếu nữ phải bỏ mạng. Theo ngày tháng, lòng kiên nhẫn của Lã bổ đầu bị bào mòn, lòng tự trọng bị gặm nhấm.

Trong vòng ba năm, Giang Kinh thay đổi ba vị tri phủ, quan trên ngày càng ít nhẫn nại, không thể không phàn nàn sau lưng Lã Diệp Hàn khi ông phá án chậm trễ, thậm chí còn ngầm có tính toán khác. Mạc Tông Trạch được điều động từ kinh đô đến làm phó bổ đầu, là người được tri phủ chuẩn bị để thay thế Lã Diệp Hàn.

Mạc Tông Trạch trẻ tuổi, có tài. Khi làm hiệu úy Cẩm Y Vệ, đã từng phá mấy vụ trọng án kinh đô, tiếng lành đồn xa. Người này được điều về Giang Kinh hỗ trợ phá án Đoạn Chỉ, rành rành là để tỏ thái độ thất vọng của quan trên đối với Lã Diệp Hàn.

Xét từ mọi phương diện, Mạc Tông Trạch đều trội hơn Lã Diệp Hàn. Lã Diệp Hàn đã ngoài bốn mươi, mặt mũi nhăn nheo. Mạc Tông Trạch đang độ thanh xuân, da trắng môi hồng. Lã Diệp Hàn dáng người lòng khòng, Mạc Tông Trạch hiên ngang mạnh mẽ. Lã Diệp Hàn ít được các quan tiếp chuyện, Mạc Tông Trạch vui vẻ nâng chén cùng hai hàng văn võ. Lã Diệp Hàn đến giờ vẫn độc thân, Mạc Tông Trạch sớm thành gia thất, phu nhân yêu kiều nết na, dòng dõi quan võ khai quốc công thần ở kinh đô, nghe nói võ công cũng chẳng kém gì chồng. Và, thật bực mình, Mạc Tông Trạch vừa đến Giang Kinh đã hỏi, bổ đầu có nghĩ, tại sao Tà ma cứ thích sát hại thiếu nữ vô tội, tại sao lại chặt ngón tay nạn nhân? Lã Diệp Hàn đáp, y muốn thể hiện cho thiên hạ biết rằng mình siêu việt hơn các cao thủ mà triều đình ưu ái nuôi dưỡng, ngón tay nạn nhân tựa như niềm kiêu hãnh lấy được đầu tướng giặc đem cắm trên mũi thương.

Mạc Tông Trạch lại gạt đi, đó là hung thủ tự bù đắp cho mình đấy. Bù đắp cái gì á? Bù đắp cho nỗi cô đơn, suy tàn, sự nghiệp không như ý, thậm chí là... liệt dương, vì ngón tay... không phải đại diện cho “của quý” của đàn ông sao? Suy diễn xằng bậy của Mạc Tông Trạch lại được tri phủ gật đầu tán thưởng, khiến Lã Diệp Hàn càng thêm uất ức.

Lã bổ đầu ngửa cổ tu một ngụm Nhất giang thu, thứ rượu mạnh nổi tiếng trong vùng. Gần đây ông hay mất ngủ đến sáng, cô quạnh suốt đêm dài dằng dặc, hồ lô rượu là bạn thân duy nhất và cũng là kẻ địch lớn nhất của ông. Men rượu mạnh chẳng khác gì dao cùn cứa thịt cắt da, bào mòn thể lực, nhưng cũng khiến ông tạm gác lại dằn vặt về lòng tự tôn và những thành kiến, tạm quên đi nỗi buồn “công danh ba chục năm, chỉ còn là cát bụi” [*] . Ông chợt nhớ đến bức họa Nhạc Phi treo ở đại sảnh Đông Xưởng, và bức hoành “Bách thế lưu phương” [*] ở cổng vào. Lúc này, “Bách thế lưu phương” lại biến thành sự châm biếm sâu cay dành cho Đông Xưởng, vì hành động của họ đi ngược lại ý nghĩa của con chữ. May thay, những trải nghiệm ở Đông Xưởng cũng dạy cho Lã Diệp Hàn bài học, muốn giành phần thắng thì phải biết không từ thủ đoạn. Đây là ưu thế lớn nhất của Lã Diệp Hàn trong cuộc chiến nhằm đánh bại Tà ma.

(ct): * Một câu trong bài từ theo điệu Mãn giang hồng của Nhạc Phi. Từ là một thể loại văn học Trung Hoa, thịnh hành và phát triển rực rỡ vào thời Tống, nên còn gọi là Tống từ. Có nhiều điệu (do tiền thân là lời hát trên nền nhạc), mỗi điệu có một quy định về số chữ, điểm gieo vần. Các bài từ không có tên gọi riêng, hoặc dùng luôn câu đầu làm tên, còn nói chung sẽ gọi theo tên làn điệu. Thời Tống người ta làm từ nhiều hơn thơ, hành vi làm từ gọi là “điền từ”. Người chuyên điền từ gọi là từ nhân. Ở Việt Nam, từ không phổ biến, nghe lại nhịp nhàng vần vèo nên hay bị tưởng/nhầm là thơ.

(ct): * Trăm năm còn mãi tiếng thơm.

Hung thủ Đoạn Chỉ Ma trăm vụ trăm thắng, rồi y sẽ dần chủ quan xem thường. Trên đời này đâu chỉ mình y biết bài binh bố trận?

Ngôi lầu nhỏ bên sông, cách đây bốn tháng có người đến ở, gồm một quý phụ độc thân, một bà già giúp việc và một a hoàn. Quý phụ nọ mới góa chồng, nhan sắc hơn đời, trang phục lộng lẫy, đồ đạc bày biện trong nhà đều tao nhã quý giá. Nàng tinh thông cầm kỳ thư họa, biệt tài vẽ hoa.

Sự xuất hiện của nàng đương nhiên thu hút vô số tài tử phong lưu vùng Giang Kinh. Người đã có gia thất, kẻ chưa vợ hoặc sắp thành thân đều đua nhau tìm đến gặp gỡ, như đàn bướm ong đi tìm hoa thơm mật ngọt. Nàng luôn đối xử lễ độ với họ, luôn mỉm cười với những ngôn từ bỡn cợt khêu gợi, nhưng tuyệt đối không buông thả hay vượt quá giới hạn, chỉ vừa đủ để các nhân sĩ phong lưu cứ việc tưởng tượng và khát vọng.

Khéo dò la mấy câu, cánh đàn ông sẽ biết ngay Thích phu nhân tuổi vừa tròn đôi mươi, xuất thân danh gia vọng tộc ở Nam Kinh. Gia đình Thích phu nhân đông con nhiều cháu, hoặc theo hoạn lộ hoặc làm ăn buôn bán, ai nấy đều giàu sang vinh hiển. Trò chuyện với bất kỳ vị nào trong số đó thì sẽ biết ngay, trước khi thành thân, Thích phu nhân nổi tiếng là một mỹ nhân tuyệt thế vùng Kim Lăng, khiến vô số sĩ tử danh giá và các anh hùng hào kiệt phải say mê. Nhưng số phận an bài nàng lựa chọn tài tử Trương Hữu Linh làm chồng. Thích tiểu thư trở thành Trương phu nhân, quả là một giai thoại thú vị.

Tiếc rằng chuyện hay thường ngắn, tài tử thường bạc mệnh, chưa đầy hai năm sau khi kết duyên, Trương Hữu Linh bỗng từ giã cõi đời, danh xưng Trương phu nhân gọi chưa quen đã phải trở về họ thời con gái mà thành Thích phu nhân.

Tuổi hoa góa bụa, Thích phu nhân khóc than đứt ruột, không muốn nán lại vùng đất đớn đau nhưng cũng không muốn rời bỏ phồn hoa, nên mới chọn dừng chân ở Giang Kinh này.

Thích phu nhân là mấu chốt trong kế hoạch do Lã Diệp Hàn vạch ra. Chỉ có gia đình họ Thích biết rõ sự thật, Thích phu nhân chân chính đã bí mật cắt tóc đi tu, nương nhờ thanh đăng cổ Phật để cứu rỗi tâm hồn tổn thương sâu nặng. Mỹ nhân trong ngôi lầu kia chỉ là một ca kỹ mới xuất hiện trên sông Tần Hoài.

Thích phu nhân giả cũng có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành và bản lĩnh cầm kỳ thư họa, Lã Diệp Hàn gần như vét hết gia sản để thuê cho nàng ngôi lầu này, thuê cả bà giúp việc và a hoàn, lại cung cấp mọi chi tiêu sinh hoạt.

Con em họ Thích đều tự nguyện nói dối cho phù hợp để giúp Lã Diệp Hàn, vì năm xưa nhà họ từng chịu ơn lớn của ông. Trong vụ án cuối cùng mà Lã Diệp Hàn xử lý trước khi rời Đông Xưởng, ông đã làm trái quy tắc giết nhầm còn hơn bỏ sót của Đông Xưởng. Ông đã tha cho nhà họ Thích bị tố cáo là kéo bè kéo đảng lén tụ tập làm loạn. Sau khi điều tra rõ họ vô tội, Lã Diệp Hàn chỉ kết luận nhà họ Thích “không tốt với dân thôn”, buộc họ nộp phạt vào quốc khố, còn thì giữ được mạng người và tài sản. Từ đó nhà họ Thích mang ơn Lã Diệp Hàn, nay được Lã bổ đầu dùng vào việc, họ đương nhiên dốc sức hỗ trợ để thi hành diệu kế.

Sau khi điều tra phân tích kỹ càng, Lã Diệp Hàn nhận ra những nạn nhân mà Đoạn Chỉ Ma nhắm đến, không hẳn là không có tiêu chí.

Ban đâu, có lẽ Tà ma còn “non nớt”, y toàn chọn dân nữ bình thường, thiếu phụ giận chồng bỏ về nhà mẹ đẻ, thiếu nữ bí mật gặp gỡ tình lang, a hoàn về nhà qua ngõ vắng, ca kỹ hết thời xuân sắc hành nghề trong lầu xanh xập xệ... Xử lý họ dễ như trở bàn tay, nha môn cũng không mấy bận tâm phá án.

Ít lâu sau trở nên dày dạn, y chọn đối tượng “chất lượng” hơn, tiểu thư khuê các, đào hát nổi tiếng, nữ đạo sĩ tinh thông pháp lực... Vụ gần đây nhất, nạn nhân là tiểu thiếp của chỉ huy sứ đại nhân, nếu tiếp diễn chỉ e sẽ đến lượt thiên kim tiểu thư của tri phủ. Đám cháy sắp bén vào cửa nhà quan, bởi vậy Mạc Tông Trạch được cấp tốc điều đến.

Lã Diệp Hàn suy luận rằng, Tà ma càng gặt hái nhiều thành công thì càng to gan, và càng muốn gây ra những vụ án chấn động thiên hạ, có như thế y mới đạt đến đỉnh điểm thỏa mãn. Điều này khiến Lã Diệp Hàn càng tự tin mình chắc thẳng. Ông và Tà ma như có cảm ứng, ông hiểu ham muốn của y, còn kỳ công giúp y định vị mục tiêu tiếp theo. Mục tiêu này chính là Thích phu nhân, con nhà danh giá ở Kim Lăng và đang nhanh chóng nổi tiếng ở Giang Kinh. Tà ma đương nhiên sẽ đến theo lời mời.

Mấy tháng nay, đêm nào Lã Diệp Hàn cũng mai phục bên ngoài nơi ở của Thích phu nhân. Tà ma thường gây án vào ban đêm, trùm đầu bịt mặt, cho nên chưa ai nhìn thấy diện mạo y bao giờ. Các bổ khoái từng trực tiếp giao đấu với Tà ma đều chết hoặc bị thương nặng và mất trí nhớ, coi như cũng không nhìn thấy Tà ma.

Đôi khi buổi tối Thích phu nhân cũng tiếp khách, “đàn văng vẳng vọng, nến hắt mờ mờ” [*] . Những lúc tiếng nhạc êm dịu vui tai vang lên, Lã Diệp Hàn tranh thủ chợp mắt. Khách về hết rồi, trong ngoài ngôi nhà lại tối đen như mực, ông nhất định phải tỉnh táo. Cứ thế theo dõi mãi, sức lực hao mòn, trong người mệt mỏi, nếu không có nội công thâm hậu thì ông đã gục ngã rồi.

(ct): * Trích bài từ theo điệu Thanh ngọc án của Tân Khí Tật (1140-1207), từ nhân nổi tiếng thời Tống.

Mạc Tông Trạch tới Giang Kinh, lập tức được ông kéo theo để cùng nếm mùi khổ cực, cũng là cơ hội cho một bổ khoái trẻ tuổi trải nghiệm sự gian truân của việc điều tra phá án.

Mạc Tông Trạch đánh giá rất thấp bữa “tiệc đêm” của Lã Diệp Hàn. Đường đường là một bổ đầu, đêm hôm khuya khoắt nấp né trước nhà đàn bà và thô lỗ xông vào bắt kẻ gian, đâu phải cung cách của người phá án?

Nhưng Mạc Tông Trạch cũng khó chối từ, thân là phó bổ đầu, không thể không phục tùng thượng cấp.

Trước lúc đến Giang Kinh, khi còn làm chức quan nhỏ trong Cẩm Y Vệ, Mạc Tông Trạch đã nghe nói về thành tích và tính tình của Lã Diệp Hàn, có khen cũng có chê, tùy cách nhìn nhận của mỗi người. Người này nói Lã Diệp Hàn phá án như thần, không a dua xu nịnh. Người kia bảo ông ta lập dị khó tính, hay chấp vặt. Nhưng không thấy ai nhắc đến cái tật nghiện rượu của ông. Bổ đầu tỉnh say khó lường, là đề tài đàm tiếu ở nha môn Giang Kinh. Lúc mới đến, Mạc Tông Trạch biết chuyện này thì rất choáng váng, lòng ngưỡng mộ cũng vì thế mà giảm sút đôi phần.

Giờ đang là đêm dài tĩnh mịch, nhưng Mạc Tông Trạch không cần rượu mạnh bầu bạn, vì con tim chàng đang đầy ắp hình ảnh A Uyển. Thành thân đã bảy tháng, có còn gọi là tân hôn, mà sao lòng vẫn say đắm như vậy? Bảy tháng qua là bảy tháng hạnh phúc nhất đời Mạc Tông Trạch. Chẳng biết mình có tài đức gì mà gặp được A Uyển, “càng không tưởng được có ngày mình nắm tay nàng và ôm nàng vào lòng” [*] . Nàng nói năng nhỏ nhẹ, đôi mắt sáng trong, đôi môi ấm nồng, kể cả kiếm pháp sắc bén của nàng, đều khiến Mạc Tông Trạch như say như mê. Cụ tổ A Uyển từng theo Tống Thái Tổ chinh chiến giành lấy giang sơn, và là khai quốc công thần duy nhất không rơi vào kết cục được chim bẻ ná được cá quên nơm. Mạc Tông Trạch và A Uyển nên duyên từ kiếm thuật, đường kiếm khiến cả hai cùng xiêu lòng, ngay lần đầu gặp gỡ đã không muốn rời xa.

(ct): * Trích Kinh Thi, tuyển tập thơ ca thượng cổ Trung Hoa.

Mạc Tông Trạch tuy thuộc dòng dõi võ quan nhưng luận tầm vóc và vị thế gia đình thì vẫn không sánh được với A Uyển. Nhưng hễ nghe Mạc Tông Trạch nhắc đến điều ấy, A Uyển lại nói, theo chàng là quyết định sáng suốt nhất đời nàng.

Thời làm hiệu úy ở Cẩm Y Vệ, Mạc Tông Trạch liên tiếp lập công phá án, nhưng vì không giỏi xiểm nịnh lấy lòng nên thăng tiến vô vọng, khó tránh khỏi chán ngán. A Uyển khuyên chàng rời kinh đô, tìm nơi khác mà cống hiến, thực hiện hoài bão, làm nên tên tuổi, chẳng lo mai kia không có cơ hội nở mày nở mặt trở lại Cẩm Y Vệ, đường công danh từ ấy ắt sẽ thẳng tắp và xán lạn.

Đúng! Nếu phá được vụ án Tà ma Đoạn Chỉ, thì có thể lắm chứ!

A Uyển tự nguyện rời kinh thành nơi nàng sinh ra và lớn lên, từ biệt cha mẹ và anh em ruột thịt, bằng lòng làm vợ một bổ khoái bình thường, cùng Mạc Tông Trạch đến Giang Kinh. Cho nên, ngoài ái tình đằm thắm, Mạc Tông Trạch còn có thêm vài phần kính nể nàng.

Vì thế, trong lúc Lã Diệp Hàn mường tượng cảnh mặt đối mặt với cường địch, Mạc Tông Trạch lại da diết tơ tưởng người thiếu phụ chăn đơn gối chiếc ở nhà.

Ừ nhỉ, A Uyển muốn đi theo để cùng bổ đầu bắt kẻ gian, sao ta lại từ chối? Chắc hẳn Lã Diệp Hàn cũng đã nghe nói kiếm pháp của ta thuộc hạng xuất sắc trong lớp trẻ phái Côn Luân, kiếm pháp của A Uyển cũng chẳng thua kém gì. Hai vợ chồng đấu kiếm không bao giờ phân tài cao thấp, là vì cả hai đều không muốn vận hết tài nghệ để quyết chiến đến cùng. Nghĩ đến mấy chữ “phân tài cao thấp”, Mạc Tông Trạch khẽ mỉm cười. A Uyển muốn đến mai phục cùng, là vì muốn so chiêu với Tà ma cũng nên? Nếu là hồi chưa thành thân, có lẽ Mạc Tông Trạch sẽ bằng lòng ngay, nhưng không hiểu sao... chắc là vì tình càng đằm thắm lại càng lo được mất. Dù sao đây cũng là chiến địa của các bổ khoái, Đoạn Chỉ Ma đâu phải kẻ tầm thường, số người bỏ mạng dưới tay y, ít nhiều cũng khiến Mạc Tông Trạch ngần ngại.

Lã Diệp Hàn có cảm giác, đêm nay, thời khắc kia sẽ đến.

Hồi sáng bà già giúp việc của Thích phu nhân bỗng dưng đau thắt ngực, thầy thuốc đã ra ra vào vào mấy lượt. Bà là dân Giang Kinh, người con trai nhận được tin mẹ ốm vội đến đón về nhà chăm sóc. Sau đó, chẳng hiểu tại sao, Thích phu nhân nổi giận mắng mỏ a hoàn một trận, làm nó bưng mặt khóc rồi chạy ra khỏi nhà, đi đâu không biết. Thế là chỉ còn lại một mình nàng góa phụ. Mạc Tông Trạch bị “mời” đi cùng, được Lã Diệp Hàn bố trí đứng canh bên hông nhà, quan sát các động tĩnh ở cửa sổ lầu hai và cổng sau. Lã Diệp Hàn dặn chàng chớ nôn nóng manh động, khi nào nhìn thấy pháo sáng màu đỏ thì mới xông vào. Hai người chặn đánh từ hai ngả thì Tà ma dẫu mọc cánh cũng không thể chạy thoát.

Mạc Tông Trạch cố nhịn cười, đáp, “Được! Bỉ chức tuyệt đối không chớp mắt! Giả sử kẻ địch có đột nhập, bỉ chức cũng sẽ răm rắp chờ hiệu lệnh của đại nhân!”

Hai chữ “giả sử” hàm chứa mối nghi hoặc, tại sao họ Lã này lại biết đêm nay Tà ma sẽ hiện thân?

Lã Diệp Hàn không nông cạn đến nỗi không nhận ra ngụ ý trong câu trả lời của thuộc hạ, nhưng ông không nổi giận. Thành quả bắt được đêm nay sẽ là bài học sâu sắc cho kẻ hậu sinh ngạo ngược này.

Đã quá nửa đêm, trên lầu vẫn không mảy may động tĩnh. Trong kế hoạch của Lã Diệp Hàn, “động tĩnh” là điểm then chốt. Tà ma đương nhiên sẽ không xông vào một cách ồn ào, đôi mắt cay sè mệt mỏi của viên bổ đầu đứng tuổi không đủ bao quát kín kẽ suốt đêm. Cho nên, trước khi chuyển Thích phu nhân giả đến nhà này, ông đã đích thân lắp đặt một hệ thống nho nhỏ, đó là một ống sắt từ phòng ngủ chạy xuống dưới đất, tiếp tục kéo dài đến cái hố mà đêm đêm ông nấp. Nếu có động tĩnh bất thường, ông sẽ nắm được ngay. Giữ được mạng sống cho cô gái đáng thương ấy thì công đức viên mãn, còn không thì coi như cái giá xứng đáng cho việc bắt sống hoặc tiêu diệt tên Tà ma tàn độc đã gây nhiều nợ máu kia.

Gió từ mé sống thổi đến, giá lạnh thấu tim. Lã Diệp Hàn lại tợp một ngụm rượu. Một tiếng kêu kinh hãi nghèn nghẹn vọng ra từ ống sắt.

Quả nhiên! Lã Diệp Hàn đứng bật dậy, húc vỡ tấm ván đậy bằng đất trộn cỏ. Ông nhảy vọt lên không trung rồi bắn pháo sáng như đã hẹn, một vệt lửa rạch toang màn đêm.

Lúc này Tà ma có phát hiện mình đã sa bẫy thì cũng khó mà thoát thân trước vòng vây của hai bổ khoái kiệt xuất. Sau vài lần lăng mình đi, Lã Diệp Hàn đã phóng đến trước ô cửa sổ khép hờ trên lầu hai, rồi lao vào. Đây là phòng ngủ của Thích phu nhân, gió thổi tung màn trướng, khiến đám vòng treo trên đó va nhau leng keng. Không có âm thanh nào khác. Màn đêm dâng tràn căn phòng không một bóng người!

Nhưng Lã Diệp Hàn cảm giác có ai đó đang lặng lẽ áp sát ông. Hừ, hung thủ phải sở hữu khinh công phi thường mới gây án được suốt ngần ấy năm mà vẫn thoát lưới trời.

Sát khí toát ra từ bên kia tấm rèm cửa đính ngọc châu, Lã Diệp Hàn hết sức cảnh giác. Tay cầm kiếm, lòng bàn tay nhớp mồ hôi nhưng vẫn nắm chắc không run. Rèm châu rung lên, kiếm ảnh tung hoành. Ông không nhớ mình từng gặp đối thủ nào có kiếm pháp đỉnh cao như kẻ này. Các công công đại nội điều hành Đông Xưởng đều biết Lã Diệp Hàn là tay kiếm nhất nhì trong hàng trăm cao thủ ở Đông Xưởng, ai đọ mười chiêu với ông, người ấy đã siêu việt rồi. Kẻ này thậm chí còn trên tầm. Mình đã già và mệt mỏi rồi chăng? Hay chỉ buồn ngủ và say rượu?

Lã Diệp Hàn vã mồ hôi trán. Mình vẫn đang sống sao? Tay kiếm của ông không hề run, tay kiếm của đối thủ cũng không nao núng, mũi kiếm gí thẳng vào yết hầu Lã Diệp Hàn. Vừa may, mũi kiếm của ông cũng chĩa thẳng vào họng y.

“Lã bổ đầu!” Đối thủ kêu lên, vội thu kiếm về.

Thì ra là Mạc Tông Trạch!

Lã Diệp Hàn thu kiếm, thở phào. Nhưng ông lập tức giật mình, nhảy vào khuê phòng. Chỉ thấy trống vắng, Thích phu nhân giả đã biến mất!

Cả hai không cần trao đổi nửa lời, đều biết ngay sau đây phải làm gì. Lã Diệp Hàn nhảy ra ngoài cửa sổ, đạp tung cửa chính của ngôi lâu tôi bắt đầu lục soát từ lầu trệt. Mạc Tông Trạch ở lại lầu hai, lục soát nốt phòng ngủ và gian áp mái.

Không thấy bóng dáng Thích phu nhân!

Cả hai gặp lại nhau. Mạc Tông Trạch nhận ra nét chán nản thất vọng trên khuôn mặt già nua của Lã Diệp Hàn, bèn an ủi, “Lã bổ đầu đừng quá buồn phiền.” Rồi lập tức phóng hai mũi tiêu lửa ra ngoài cửa sổ, “Các huynh đệ mai phục xung quanh nhìn thấy sẽ tập trung tinh thần cao độ, biết đâu vẫn kịp chặn bắt hung thủ.”

Lã Diệp Hàn ngạc nhiên, sao lại có các huynh đệ mai phục nữa?

Mạc Tông Trạch cười trừ, “Bỉ chức biết đại nhân đã bố trí chặt chẽ rồi, nhưng bỉ chức vẫn tự sắp xếp thêm các bổ khoái trực ban hoặc rỗi rãi đi mai phục trong phạm vi một dặm quanh đây...”

“Vớ vẩn! Toàn làm việc rỗi hơi!” Lã Diệp Hàn chỉ trích, “Dù huy động hết các bổ khoái thì binh lực vẫn không đủ! Vả lại, càng đông người đi thì kế hoạch đêm nay càng dễ bại lộ, và nếu một người nào đó chạm trán tên ác ma ấy thì cũng không địch nổi y, sẽ lại bỏ mạng vô ích!”

Mạc Tông Trạch đanh giọng, “Lẽ nào Thích phu nhân giả không bỏ mạng vô ích? Khi sắp đặt kế hoạch này, Lã bổ đầu có nghĩ cho cô ta không?”

Lã Diệp Hàn giận dữ trợn tròn mắt, chỉ vào mặt Mạc Tông Trạch, “To gan! Ta... ta...” Lồng ngực bỗng nhói đau. Thất bại đắng cay dâng lên nghẹn họng, hơi men và tình trạng thiếu ngủ cũng đồng thời tấn công, khiến ông hoa mắt chóng mặt. Nét cười đắc ý của Tà ma bỗng choán lấy tầm nhìn. Lã Diệp Hàn cố nén cơn đau, nhắm nghiền đôi mắt...

Khi tỉnh lại, viên bổ đầu thấy mình đang nằm trên tấm phản gỗ ở nhà, cảm giác rất thân thiết, dù không mấy êm ái dễ chịu.

“Bổ đầu thấy khá hơn chưa?” Người hỏi là một thầy lang thường vẫn qua lại thân thiết với nha môn.

Dưới ánh đèn, khuôn mặt Mạc Tông Trạch đầy vẻ quan tâm. “Vừa nãy đại nhân bị ngất ở hiện trường, bỉ chức dìu đại nhân lên ngựa rồi đưa về đây. Thầy lang nói, đại nhân mất ngủ nhiều ngày, khí huyết không đủ nên thể lực suy kiệt... Mong đại nhân không trách bỉ chức nhiễu sự. Đại nhân là trụ cột của phủ ta, không thể để sinh bệnh, xin đại nhân bảo trọng.”

Lã Diệp Hàn cảm thấy ấm lòng. Xem ra, mình đã hơi hà khắc với Mạc Tông Trạch. Phó bổ đâu vẫn là con người tốt bụng.

Thầy lang ra về, nói là sẽ bốc thuốc tôi sai đồ đệ cầm đến.

Lã Diệp Hàn niềm nở, “Phó bổ đầu về nhà nghỉ ngơi đi. Trời sắp sáng rồi còn gì.”

Nhưng Mạc Tông Trạch vẫn ngồi yên bên đầu giường, “Về cũng không ngủ được. Bỉ chức ngồi lại với đại nhân.”

“Ta sống một mình đã quen rồi. Phó bổ đầu... còn có gia đình, đừng để phu nhân phải thấp thỏm chờ đợi.”

Mạc Tông Trạch mỉm cười, “Tiện nội cũng quen rồi, nàng đã chiếu cố lấy bỉ chức thì cũng phải chấp nhận những đêm ở nhà một mình.”

Không hiểu tại sao Lã Diệp Hàn bỗng cảm thấy bất an, “Mạc bổ đầu đã nán lại, thế thì chi bằng hai ta bàn bạc xem, bước tiếp theo...”

“Đại nhân đang cần nghỉ ngơi, đợi bình phục rồi bàn bạc.”

“Không! Vụ án Thích phu nhân hệ trọng, xảy ra sau vụ án tam phu nhân của chỉ huy sứ vỏn vẹn một tháng, chứng tỏ hung thủ gây án ngày càng mau, vụ tiếp theo có thể xảy ra ngay sau đây. Và, nạn nhân là một nữ nhân nổi bật hơn, khó nhằn hơn cả hai người này... chúng ta cần sớm có biện pháp ngăn chặn.” Lã Diệp Hàn đắn đo về mối lo thầm lặng của mình.

Mạc Tông Trạch rốt cuộc cũng nhận ra Lã Diệp Hàn ám chỉ điều gì, mặt biến sắc, “Ý đại nhân là... là nhà bỉ chức...”

Mạc Tông Trạch bật dậy, chạy vọt ra đến cửa, nhưng nghĩ sao lại do dự, lắc đầu, “Võ công và sự linh hoạt cảnh giác của tiện nội không thua bỉ chức, trong nhà lại lắp đặt cơ quan bảo vệ, hung thủ chẳng làm gì nổi. Và, dẫu lâm nguy thì nàng vẫn còn ám khí tuyệt mật, đủ để đối phó.”

“Thế ư?”

“Tiện nội luôn đeo chiếc nhẫn đính ngọc đen ở ngón áp út trái, trông thì bình thường nhưng thật ra bên trong chứa chất độc, dù hai tay bị trói thì chỉ cần dùng ngón giữa và ngón út kẹp lại, chất độc sẽ bắn ra... Nói thì hơi xấu hổ, nhưng chỉ những khi đầu gối tay ấp nàng mới yên tâm tháo nhẫn...”

Lã Diệp Hàn nói, “Tức là, ngoại trừ lúc phu nhân mất cảnh giác...” Ông chợt nhớ mình từng nghe Mạc Tông Trạch kể chuyện này với ai một lần rồi. Ở nha môn phải không nhỉ?

Mạc Tông Trạch cảm ơn Lã Diệp Hàn đã quan tâm nhắc nhở, rồi mới cáo từ. Trong nhà giờ còn lại một mình Lã Diệp Hàn, như hôm qua, hôm kia và vô số tháng ngày trong quá khứ. Cô tịch. Ông lim dim mắt. Bao hình ảnh không ngừng biến hóa lướt nhanh trước mặt, chứ không phải một khoảng trống tĩnh lặng như ngày thường. Ông đi theo những hình ảnh đó, như bước vào một thế giới khác, điều đáng buồn là thế giới ấy chẳng khác gì thực tại, cũng vắng vẻ quạnh hiu, cũng có căn gác nhỏ run rẩy bởi cơn gió ngoài sông thổi lại, cũng có bóng kiếm vờn lượn, cũng có thiếu nữ tàn tạ như cánh hoa rơi lả tả, cũng có những ngón tay xanh xao. Lã Diệp Hàn vã mồ hôi, bước xuống giường.

Trời vẫn chưa sáng, đèn nến đã tắt. Hơn chục năm trời sống một mình, ông đã thuộc lòng ngôi nhà nhỏ này. Gió mát lách qua khe cửa sổ, thổi vào làn da nhớp nháp mồ hôi khiến ông run rẩy. Nhưng ông không cảm thấy thế. Trong bóng tối, ông lật bức tranh Nhạc Phi treo trên tường, rút một viên gạch ra. Hốc bên trong có một cái hộp đan bằng tre, dài rộng chừng một gang tay. Mùi thối khé mũi bốc ra nồng nặc.

Ánh mắt Lã Diệp Hàn đờ đẫn khác hẳn mọi ngày, có lẽ vì đang ốm và thiếu ngủ, tay ông cũng lóng ngóng, rồi run lên bần bật. Ánh mắt đờ đẫn dừng lại ở một vốc xương đựng trong hộp. Những mẩu xương thon nhỏ, dài chừng một hoặc hai tấc, cũng có mẩu ngắn, nếu tỉ mỉ chắp ba mẩu lại với nhau thì vừa bằng một ngón tay!

Cuối cùng, Lã Diệp Hàn nhìn chằm chằm vào thứ duy nhất chưa héo khô, một ngón tay chưa nát rữa, thậm chí còn hơi ấm. Ngỗ tác Khâu Tam Giáp sẽ dễ dàng kết luận nó vừa mới bị chặt ra cách đây chưa đầy hai canh giờ. Ngón tay còn đeo một chiếc nhẫn đính ngọc đen. Là... chuyện gì thế này? Lã Diệp Hàn run run cầm ngón tay lên, chăm chú nhìn cái nhẫn đính ngọc. Thế này là sao? Cười điên dại. Ai đang cười điên dại? Cười cái thứ gọi là “ám khí tuyệt mật”.

Hồi thiếu niên luyện kiếm, ông thường chơi trò lia một nhát chém đầu con ruồi bay qua mặt. Nay tuổi đã cao, mắt không tinh như xưa, nhưng hạt ngọc đen chẳng khó nhận ra như đâu con ruồi. Ngón tay nuột nà đeo nhẫn ngọc đen nổi bật, khác nào bày sẵn cho kiếm khách điêu luyện xác định đúng hướng để chém trúng chỉ bằng một nhát kiếm. Đáng thương cho người thiếu phụ, bao năm trời luyện võ gia truyền coi như công cốc, chưa kịp tỷ thí thì đã gục ngã dưới lưỡi kiếm của ông. Chất độc chứa trong hạt ngọc đen không có cơ hội dùng tới, cùng ngón tay rơi vào cái hộp.

Lã Diệp Hàn run bắn. Hừ, tên điên đáng hận kia mà rơi vào tay ông, thì ông sẽ dốc hết bản lĩnh từ thời Đông Xưởng để bắt y phải chịu cực hình. Cười như điên. Hung phạm vẫn đang cười như điên. Lã Diệp Hàn đưa tay sờ đốc kiếm, kiếm đâu rồi? Chắc là Mạc Tông Trạch đã đặt nó bên giường của mình. Mình đã đi quá xa. Lã Diệp Hàn quay người lại thì vừa khéo đối mặt với một mũi kiếm, sau một thoáng ngần ngừ, mũi kiếm thọc thẳng vào tim ông.

Lã Diệp Hàn gục xuống đất, bất động. Mạc Tông Trạch thu trường kiếm về, mắt không nhìn xác Lã Diệp Hàn, cũng không nhìn mũi kiếm dính máu, chỉ đăm đăm nhìn ngón tay ấy. Ngón tay của A Uyển. Đeo nhẫn đính ngọc đen. Mạc Tông Trạch đưa tay về phía cái nhẫn. Chỉ cần bóp khẽ, chất độc phóng ra, mình sẽ bỏ mạng. Mạc Tông Trạch không thiết sống nữa.

Quá hối hận, chỉ muốn chết đi cho xong. Hối hận vì tự phụ, cho rằng mình tài cao, rốt cuộc lại rơi vào lập luận suông. Mạc Tông Trạch đã phân tích chính xác về Tà ma, một kẻ cô độc, tàn lụi, sự nghiệp thất bại. Tất cả đều phù hợp với Lã Diệp Hàn!

Mạc Tông Trạch đi điều tra ở các lầu xanh, thậm chí nghe thấy người ta thì thầm bàn tán, bổ đầu Lã Diệp Hàn “không cương được”, chà, không hổ danh là người xuất thân từ Đông Xưởng [*] . Ở kinh thành, Mạc Tông Trạch còn nghe nói, Lã Diệp Hàn rời Đông Xưởng không phải vì võ công chưa đủ cao, thủ đoạn chưa đủ độc, mà vì mắc chứng nộ uất, điên cuồng. Tiếng là từ chức nhưng thật ra là cách chức. Đến Giang Kinh làm bổ khoái, chứng nộ uất điên cuồng dĩ nhiên không thể bỗng dưng biến mất.

(ct): * Cẩm Y Vệ do quan lại bình thường đứng đầu. Còn Đông Xưởng do hoạn quan thừa hành hoàng đế đứng đầu.

Mạc Tông Trạch hối hận vì đã lơ đãng bỏ qua giả thuyết có vẻ hão huyền này. Lã Diệp Hàn chính là Tà ma bí hiểm giấu mặt. Cứ nhớ lại, sẽ thấy dấu hiệu không chỉ một.

Kẻ sát nhân nào có võ công cao siêu, thừa sức tiêu diệt hoặc đánh trọng thương dăm bảy cao thủ đại nội triều đình? Kẻ gây án nào đủ trình độ phát hiện ra cạm bẫy mà Lã Diệp Hàn dày công thiết kế? Chỉ có Lã Diệp Hàn mà thôi!

Lã Diệp Hàn chính là Tà ma, chính là kẻ bản thân ông ta đang gắng sức truy bắt. Một Lã Diệp Hàn là bổ đầu Giang Kinh, một Lã Diệp Hàn là tội phạm đích thực trong vụ Đoạn Chỉ. Nếu tên thứ nhất bắt được tên thứ hai, thì sẽ chứng minh được giá trị của Lã Diệp Hàn, sẽ khiến Đông Xưởng nhận ra một điều, sau khi bị “đày đi xa”, ông ta vẫn khám phá ra vụ trọng án đáng sợ bậc nhất. Nếu tên thứ hai tiếp tục khống chế tên thứ nhất, thì cũng chứng minh giá trị của Lã Diệp Hàn, dù bị rớt xuống hạng yêu tà, ông ta vẫn đủ sức khiến các chuyên gia phá án của Đông Xưởng bất lực.

Trong cái thân xác đang lão hóa ấy có hai Lã Diệp Hàn trái ngược. Bố trí Thích phu nhân giả, là một diệu kế, nhưng Mạc Tông Trạch không ngờ Lã Diệp Hàn thừa cơ mình canh chừng bên hông nhà, lẻn đi giết A Uyển. Đáng thương cho Mạc phu nhân, thấy đồng liêu của chồng đến, nàng tưởng Mạc Tông Trạch đã hi sinh khi làm nhiệm vụ... Vừa mở cửa ra thì trúng ngay một mũi kiếm của Lã Diệp Hàn, và thế là chốt bẫy, ám khí cũng như kiếm pháp cao siêu đều trở nên vô ích.

Chạy về đến nhà, nhìn thấy xác vợ, Mạc Tông Trạch mới bừng tỉnh và lập tức hiểu ra, tại sao Giang Kinh có bao nhiêu quý nữ, Lã Diệp Hàn lại “chỉ lo rằng” Mạc phu nhân sẽ là nạn nhân tiếp theo.

Bởi vì Mạc phu nhân giờ là mục tiêu Lã Diệp Hàn nhắm đến, ông ta đã vạch kế hoạch tỉ mỉ rồi! Chỉ hiềm, Lã Diệp Hàn chính trực và Lã Diệp Hàn tà ma lại là một, trong lúc lú lẫn, Lã Diệp Hàn đã để lộ thiên cơ.

Mạc Tông Trạch nhòa lệ nhìn cái nhẫn ngọc đen, rốt cuộc đã từ bỏ ý định tự sát bằng chất độc của nó. Mình phải tiếp tục sống, để làm một bổ khoái đàng hoàng, có bản lĩnh, như thế mới xứng với sự hi sinh của A Uyển.

Còn Thích phu nhân giả mạo? Khỏi phải bàn, chắc cô ta đã bỏ mạng bởi hung thủ Lã Diệp Hàn, chỉ vài hôm nữa sẽ phát hiện ra thi thể và bàn tay mất ngón.

Một tháng sau, Mạc Tông Trạch chính thức nhậm chức bổ đầu Giang Kinh. Tri phủ đại nhân mở tiệc chiêu đãi, toàn thế bổ khoái đều đến dự, nâng cốc chúc mừng.

Giã biệt cựu bổ đầu nát rượu, nghênh đón tân bổ đầu tráng kiện, nhiệt huyết, các đồng liêu trong nha môn đều cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Đoạn Chỉ Ma chính là Lã Diệp Hàn, sự thật này sau đấy trở thành một điều bí mật, từ tri phủ, chỉ huy sứ cho đến Mạc Tông Trạch đều không muốn thiên hạ biết. Chẳng hay ho gì khi mớm cho người ta cơ sở để tin rằng đám quan lại phủ Giang Kinh đều bất tài vô dụng. Dân chúng sẽ ngao ngán về quan phụ mẫu “thanh liêm đức độ”, và Mạc Tông Trạch cũng khó ăn khó nói với gia đình nhạc phụ ở kinh thành. Cho nên, bổ đầu họ Lã được coi như bỏ mạng khi giao đấu với Tà ma, Mạc phu nhân tử nạn khi cùng lang quân tác chiến. Cuối cùng, Tà ma bị Mạc Tông Trạch tiêu diệt, xác chìm đáy sông. Cuộc giao tranh hết sức ác liệt nhanh chóng lan truyền khắp dân gian.

Cho đến đêm nay.

Bữa tiệc đêm nay, Mạc Tông Trạch uống hơi nhiều. Từ ngày người vợ yêu quý bị sát hại, Mạc Tông Trạch bắt đầu “bén duyên” với rượu, bắt đầu trải nghiệm cảm giác của một Lã Diệp Hàn luôn kè kè be rượu bên mình.

Sau vài tuần rượu, hầu bàn bưng một cái hộp rảo bước đến chỗ Mạc Tông Trạch, “Bổ đầu, có người đem hộp quà này đến, nói là phải đưa để ông đích thân mở.”

Mạc Tông Trạch cười nhạt, “Ai mà chu đáo thế? Cứ đặt ở kia, lúc nào rỗi rãi ta sẽ mở.”

“Người ấy nói, nếu ông không mở xem ngay thì sẽ gặp đại họa mất mạng.”

Chỉ huy sứ cũng chăm chú nhìn cái hộp.

“Hoang đường!” Mạc Tông Trạch tức giận, “Ăn nói lăng nhăng...”

Chỉ huy sứ hiếu kỳ giục giã, “Ông cứ xem đi. Dọa dẫm lăng nhăng thì sợ gì, để thỏa trí tò mò thôi.”

Mạc Tông Trạch không tiện thoái thác, đành nói “Được” rồi nhận lấy hộp quà. Nắp hộp không kèm danh thiếp hay viết họ tên người gửi. Mạc Tông Trạch đặt cái hộp lên bàn, bảo mọi người lùi lại, sau đó vỗ mạnh vào hộp. Lụa bọc bung ra, nắp hộp bằng gỗ mỏng bật lên, bên trong lại có một hộp nhỏ, cuối cùng là một cái hộp bé xíu bằng tre. Không có ám khí hay thuốc nổ. Mọi người thở phào.

Mạc Tông Trạch cau mày. Ông đã nhìn thấy cái hộp này, hoặc là cái hộp na ná như nó, bên trong chứa ngón tay của người vợ quá cố. Trong cái hộp này cũng có một ngón tay.

Ai nấy kêu lên thất thanh.

Mạc Tông Trạch chăm chú nhìn ngón tay, lát sau, ông lẳng lặng sải bước ra ngoài sảnh. Vài bổ khoái giàu kinh nghiệm cũng hiểu ý bước theo.

Trong ngôi lầu nhỏ bên sông, thi thể Thích phu nhân nằm tênh hênh trên chiếc giường trải đệm thêu hoa. Xác bị bươi nát bươm. Ngón tay trỏ đã mất. Ngỗ tác Khâu Tam Giáp đoán nạn nhân bị giết khoảng hai canh giờ trước. Mạc Tông Trạch cảm thấy đất trời đảo lộn, suy luận của ông trước kia là sai! Tà ma đích thực không phải Lã Diệp Hàn!

Mạc Tông Trạch bỗng hiểu ra, Lã Diệp Hàn bao năm truy tìm Tà ma đã quá nhập tâm, suy đoán triệt để, thấu hiểu nhất cử nhất động của y, nhưng ông ta vốn mắc chứng tâm thần phân liệt, nắm vững đối tượng rồi, bất giác lại mô phỏng y mà không biết, từ đó nối tiếp bằng các vụ Đoạn Chỉ của riêng mình.

Đêm hôm ấy, Lã Diệp Hàn lẻn đi sát hại Mạc phu nhân, còn Tà ma thực sự thì nhân cơ hội cướp Thích phu nhân đem đi, khống chế cho đến nay. Y chờ Mạc Tông Trạch nhậm chức mới gửi món quà hậu hĩ này đến. Ý chừng muốn tuyên bố rằng, Lã Diệp Hàn đã thất bại, từ nay là cuộc quyết đấu giữa Tà ma và Mạc Tông Trạch.

Mạc Tông Trạch tạm nguôi cơn giận, nhếch mép cười nhạt.

Được lắm! Ta sẽ tiếp ngươi đến cùng. Cuộc chiến bắt đầu từ đêm nay!