Chương 8 Tàn phế
Tạ ơn trời đất, một ngày nữa trôi qua mà không thấy thêm thi thể thiếu ngón tay nào nằm bên bờ hồ. Dẫu tin tức chiến loạn ở nhiều nơi cứ tới tấp truyền đến, nhưng phủ Giang Kinh vẫn giữ được cảnh yên bình sung túc, như chưa từng có chuyện trong một đêm chết đến mấy mạng người.
Trời sẩm tối, A Kiệt rời nha môn trở về nhà. Nét ngao ngán thất thần của Mạc Tông Trạch vẫn choán đầy tâm trí gã. Cũng phải thôi, tự nhiên mất đi con ngựa quý gắn liền với bao kỷ niệm về người vợ hiền...
Nhưng ngựa chết cũng tốt. Tội gì khư khư giữ mãi những ký ức khổ đau? Mất đi một tín vật nhưng lại bớt được một nỗi buồn thương, đỡ phải uống say cho hao mòn thể lực và tâm hồn. À mà, có lẽ vụ Đoạn Chỉ tái xuất mới là nguyên nhân khiến bổ đầu phải tổn hao tâm trí sức lực.
Nhà A Kiệt cách nha môn không xa, nhà cửa do tổ tiên để lại không bề thế nhưng cũng không xập xệ. Liêu gia là dân bản địa Giang Kinh, từ đầu thời Minh đến nay, đời đời làm tuần bổ, nhà không bao giờ cần khóa cửa, cũng chẳng ai dám bén mảng tới quấy phá.
A Kiệt vừa nghĩ ngợi vừa đẩy cửa. Bốn mũi cốt tiêu [*] vù vù phóng thẳng đến. Không thể nấp đi đâu cũng không kịp rút kiếm chặn lại, A Kiệt đành giơ tay phải lên che trước mặt. Cốt tiêu phóng vào tay vẫn còn hơn là trúng đầu xuyên óc.
(ct): * Phi tiêu mài từ xương thú, làm vũ khí.
Thông thường, các cao thủ phi tiêu nếu khéo vận sức ở cổ tay, tiêu chạm vào da xong sẽ xoáy vào cơ, thậm chí xoáy vào xương. Cốt tiêu đâm vào óc thì chết tươi đã đành, nhưng nếu cắm vào tay, sống cũng khổ hơn chết.
May mà A Kiệt đã xòe bàn tay kẹp luôn cả bốn mũi cốt tiêu. Vậy mà chúng còn “giãy giụa” muốn xoáy tới, làm năm ngón tay gã nóng như lửa đốt.
“Chà! Hơi chậm!” Tiếng Liêu Kiếm Phàm vang lên trong sảnh đường, vọng ra sân, “Nếu gặp phải cao thủ thứ thiệt thì con mất mạng rồi!”
A Kiệt biết tính cha mình, ông chẳng bao giờ hài lòng, gã bướng bỉnh đáp, “Con đang mải nghĩ ngợi nên phản ứng có phần...”
“Kẻ địch muốn lấy mạng con, trước khi phóng ám khí, hắn sẽ vui vẻ uống rượu để giải sầu cho con chắc?” Liêu Kiếm Phàm đi ra khỏi phòng khách. Gọi là “đi ra”, thực chất ông ngồi trên cái ghế đẩu phi ra. Bốn chân ghế nhích lên hoặc lùi lại, là do ông thao tác bằng tay. “Con còn nhớ tại sao cha mất đôi chân không?”
A Kiệt thầm nghĩ, cha già lại dạy bảo rồi! Nhưng nhìn hai ống quần trống trơn buông thõng trước ghế, lòng gã bỗng thắt lại, “Cha đã nhắc cả trăm lần, con quên sao được?”
Người cha đã mất hai chân từ lâu này là một trong những người mà A Kiệt kính phục nhất trên đời. Không chỉ vì mẹ gã mất sớm, ông vừa là cha vừa là mẹ nuôi nấng gã khôn lớn, mà ông còn là đối thủ duy nhất sống sót dưới lưỡi kiếm của Đoạn Chỉ Ma!
Mười tám năm trước, Đoạn Chỉ Ma điên cuồng đến đỉnh điểm, hai đời bổ đầu phủ Giang Kinh đều bế tắc, các cạm bẫy thiết kế phục kích sẵn đều bị y phát hiện. Bổ đầu tiền nhiệm mất mạng, bổ đầu đương nhiệm thì mất vợ. Đều có liên quan đến y.
Mạc Tông Trạch đau đáu nỗi đau mất vợ, vừa nhậm chức đã dày công nghiên cứu phương án vây bắt Đoạn Chỉ Ma, vào lúc gần như chắc chắn thành công thì Đoạn Chỉ Ma lại thoát nạn như được thần linh phù hộ, dọc đường trốn chạy còn giết luôn hai bổ khoái mai phục, sau đó giao đấu với nhóm phục binh đánh chặn cuối cùng, là Liêu Kiếm Phàm và Ưng Trường An. Hai người được xếp bọc hậu vì cùng có võ công cao cường, chỉ thua bổ đầu. Mạc Tông Trạch hi vọng họ cầm cự với Đoạn Chỉ Ma một lúc để chờ quân tiếp viện đến.
Nhác thấy bóng Tà ma, hai người liền bắn hỏa tiến lên không làm tín hiệu gọi đồng đội, sau đó hợp sức vây đánh y.
Đoạn Chỉ Ma lưng đeo tay nải, trường kiếm áp đảo một đao một kiếm của hai bổ khoái. Tuy nhiên, hai bổ khoái đã từng tập phối hợp đối kháng với Mạc Tông Trạch, nên lúc này cả hai bổ sung cho nhau, liên thủ ăn ý, vẫn đủ sức giữ vững thế trận chờ viện binh tới. Tình hình có vẻ ổn thỏa như kế hoạch.
Bỗng có tiếng trẻ khóc vọng ra từ cái tay nải sau lưng Tà ma. Hơn chục năm qua Tà ma chuyên giết phụ nữ, có phải đêm nay y đã giết mẹ của đứa bé này? Liêu Kiếm Phàm sửng sốt. Ưng Trường An cũng chững lại. Khoảnh khắc ngớ người của hai bổ khoái đã tạo cơ hội cho Tà ma. Liêu Kiếm Phàm vừa nghe tiếng rú của Ưng Trường An thì cũng thấy vai mình đau nhói, chắc là kiếm của Đoạn Chỉ Ma vừa sượt qua. Liêu Kiếm Phàm liếc thấy Ưng Trường An đưa tay ôm ngực, lảo đảo sắp ngã, thì hiểu rằng cả hai không giữ được ưu thế nữa, bèn tung mình nhảy vọt lên toan chạy.
Nhưng mũi kiếm của Tà ma đã lia theo.
Liêu Kiếm Phàm chỉ biết thân dưới vừa nhẹ vừa đau, lập tức bất tỉnh nhân sự, rơi thình xuống đất.
Khi tỉnh lại thì đã mấy ngày trôi qua, Liêu Kiếm Phàm nằm trên giường, Liêu phu nhân ngồi bên mép giường, nước mắt lã chã. Liêu Kiếm Phàm thấy thân thể nặng mà cũng nhẹ, cảm giác thật kỳ quái. Tiếp đó là đau đớn, đau khắp người. Khi nhận ra đôi chân của mình phải cưa bỏ vì vết thương quá nặng, ông khóc rống lên như con thú sa bẫy cùng đường.
Nhưng người cha của A Kiệt vẫn là một kỳ tích! Trước trận chiến này, đa số bổ khoái giao chiến với Tà ma đều tử trận ngay tại chỗ, chỉ có ba người sống sót nhưng đều mất trí, sau mấy năm sống lay lắt, họ cũng lần lượt ra đi. Liêu Kiếm Phàm là ngoại lệ duy nhất, vẫn sống gần hai chục năm qua, tinh thần tỉnh táo, thậm chí còn giữ được võ công vốn có.
“Đêm hôm đó, nếu không vì tiếng khóc của đứa bé ấy thì hai chúng ta đã không phân tâm, Ưng Trường An sẽ không mất mạng, ta cũng không mất phương tiện để đi lại. Con đang trẻ măng như vậy, có gì mà phải suy tư lắm thế?” Liêu Kiếm Phàm nhìn con trai.
A Kiệt nói, “Nhiều năm qua phủ Giang Kinh không xảy ra trọng án, thế mà nay chỉ sau một đêm có sáu người mất mạng, đều là người trong giới võ lâm, một trong số đó là Phượng Trung Long khét tiếng, mấy hôm nay vẫn chưa lần ra manh mối. Con là bổ khoái, lẽ nào không nên lo lắng băn khoăn?”
“Mạc bổ đầu thì sao?”
“Còn làm gì được? Buồn rầu, bạc cả tóc.” A Kiệt bước đến bên bếp lò, múc gáo nước uống ừng ực.
Liêu Kiếm Phàm thở dài, “Cha muốn hỏi xem tâm trạng ông ta thế nào? Có tập trung tinh thần để phá án không?”
“Hai hôm nay ông ấy không uống rượu... Ông ấy đáng thương lắm. Hôm nay con mới nghe nói con ngựa tảo hồng [*] của ông ấy chết đúng vào ngày mấy thi thể xuất hiện.”
(ct): * Màu mận chín.
“Tảo hồng cái gì? Nó là Nhất Trượng Hồng, thuộc loại ngựa quý có mồ hôi đỏ như máu ấy!” Liêu Kiếm Phàm dịch chuyển bốn chân ghế, đi theo con trai, “Mạc bổ đầu và lão Khâu đều là dân kỳ cựu, sao chưa có tiến triển gì?”
“Không hẳn là không tiến triển. Lão Khâu đã tra ra lai lịch, tình trạng tử vong của các nạn nhân. Mạc bổ đầu thậm chí còn lần ra họ tên của họ, như họ Sài ở phái Điểm Thương, họ Đinh ở Ngô Việt Thế Gia, họ Phó ở Thần Nông Giáo...”
“Đồ khỉ này! Là bổ khoái tài ba thì phải nhớ đủ cả họ lẫn tên chứ? Đặc biệt khi nạn nhân đều là nhân sĩ võ lâm. Tên, chính là manh mối tốt.” Liêu Kiếm Phàm sốt ruột “đi đi lại lại”, chỉ tiếc rằng không thể đứng bật dậy khỏi cái ghế. “Hôm qua con nói có nữ đệ tử tục gia của phái Nga Mi bị treo cổ. Cha quên chưa hỏi, lão Khâu căn cứ vào đâu để kết luận như thế?” Liêu Kiếm Phàm đã rời nha môn mười tám năm nhưng vẫn tự cho mình là bổ khoái. Con trai ông mấy hôm nay ít về nhà, bây giờ gần nửa đêm mới về liền bị ông gặng hỏi ráo riết.
A Kiệt đáp, “Hai nạn nhân đó đeo Ngọc Nữ kiếm của phái Nga Mi, lưỡi kiếm bằng thép trắng luyện ở núi Nga Mi, lớ ngớ như con cũng thừa sức nhận ra.”
“Tức là, hai người đó bị giết quá nhanh, không kịp tuốt kiếm.”
“Đúng thế! Giống như khi họ giết ba người kia, nạn nhân đều không có cơ hội xuất chiêu chống đỡ.”
Liêu Kiếm Phàm lắc đầu, “Đệ tử của phái Nga Mi sao lại lớ ngớ như thế? Còn ba người kia đều là người hành tẩu giang hồ, không thể không có ý thức phòng bị!”
“Lão Khâu còn kể cho con một sự tích dài thòng về phái Lã Lương với Nga Mi duyên hận mắc mớ... Cha đã nghe nói đến Hận lôi độc chưởng chưa?”
Mặt hơi biến sắc, Liêu Kiếm Phàm lắc đầu, “Cha có nghe nói về đại loạn cách đây trăm năm, dẫn đến sự suy tàn của phái Lã Lương. Còn Hận lôi độc chưởng thì cha không biết.”
“Hai nữ đệ tử Nga Mi này đã được chân truyền độc chưởng, họ đánh úp hạ gục ba người kia. Chắc ban đầu cả bọn đồng hành với nhau, đều là danh môn chính phái vui vẻ kết giao nên tinh thần cảnh giác không cao, nhất là không ai ngờ hai cô gái trẻ lại thản nhiên xuất độc chưởng lấy mạng mình chứ. Ba người kia không có cơ hội chống trả là phải.”
“Nhưng, bỗng dưng, sao phải giết người? Lũ trẻ ngày nay rõ thật là... Hừ!”
A Kiệt cười hề hề, “Tại sao lại giết người, chỉ còn cách hỏi hai cô đó. Nhưng tiếc rằng họ không hé răng được nữa rồi.”
“Mạc bổ đầu không có manh mối gì về động cơ giết người của họ à?”
A Kiệt lại đáp, “Dù có thì ông ấy cũng không nói với kẻ non tay như con... Năm xưa cha từng tham gia truy bắt Đoạn Chỉ Ma, chắc cha cũng biết, Đoạn Chỉ Ma giết người hầu như không có động cơ gì.”
Khuôn mặt Liêu Kiếm Phàm biến sắc, “Có đúng là Đoạn Chỉ Ma không? Có đúng là... Đoạn Chỉ Ma gây tội ác không?”
A Kiệt lo cha già sẽ đứng bật dậy rồi ngã nhào xuống đất. “Còn ai nữa? Cắt ngón tay trỏ của người đã chết là dấu hiệu riêng của y xưa nay.”
Liêu Kiếm Phàm hơi khép mắt như để điều chỉnh tâm trạng, hồi lâu sau mới nói, “Dấu hiệu riêng của Đoạn Chỉ Ma là chỉ giết phụ nữ, cũng chỉ cắt ngón tay phụ nữ. Con cứ nghe Mạc bổ đầu và lão Khâu là được. Họ đã phá án nhiều, nhiều hơn số bữa cơm con đã ăn nữa.”
A Kiệt dẩu môi, định lý sự, thế mà mười tám năm qua họ vẫn không phá nổi vụ Đoạn Chỉ đó thôi. Nhưng gã biết, nói nữa cũng vô ích, đành chuyển chủ đề, “Cha có biết Vô Kê đạo trưởng không?”
“À cái quân lang thang đầu đường xó chợ lừa gạt người ta! Hai ba chục năm qua vẫn thế.” Thời còn làm bổ khoái, Liêu Kiếm Phàm cũng đã mấy lần tiếp xúc với Vô Kê.
“Kể ra thật thú vị, hôm qua Mạc bổ đầu lại mở tiệc linh đình chiêu đãi Vô Kê đạo trưởng ở Thanh An Các. Bao cả gian gác.”
Liêu Kiếm Phàm hừ mũi. Ông hận mình không thể ra khỏi nhà, không thể tham gia phá vụ trọng án này. Mọi hi vọng, ông gửi gắm cả vào con trai. Cũng may, A Kiệt có tư chất, lại cần cù chăm chỉ, hết lòng suy nghĩ về công việc.
“Con nghiền ngẫm mãi, đã đoán ra điều gì chưa?”
“Con đang định thỉnh giáo cha. Nhiều năm nay thiên hạ không yên ổn, nhất là vùng Sơn Tây, Thiểm Tây, thảo khấu hoành hành xưng là nghĩa quân, quan binh phải truy sát tiêu diệt vất vả, gần đây mới tạm dẹp yên. Nghe đồn nhiều nhân sĩ võ lâm cũng gia nhập nghĩa quân... Vậy vụ Đoạn Chỉ này liệu có liên quan đến nghĩa quân làm phản đó không?”
“Nếu có thì sao?” Liêu Kiếm Phàm chưa rõ con trai đang nghĩ lan man đi đâu.
“Con định nhắc bổ đầu nên chú ý theo hướng này. Biết đâu lần ra mối liên quan giữa hung thủ với nghĩa quân...”
“Có liên quan, thì sao?” Liêu Kiếm Phàm cất cao giọng.
A Kiệt hơi nao núng, vì đây là dấu hiệu cha già sắp nổi giận. “Thì báo về Đông Xưởng! Mấy năm nay Đông Xưởng luôn cảnh báo tuần bổ các nha môn châu phủ phải căng mắt, dỏng tai mà quan sát, khi phát hiện thấy nhân sĩ võ lâm câu kết với thảo khấu phải bẩm báo ngay...”
“Bẩm báo, rồi sao nữa?” Liêu Kiếm Phàm đã bình tĩnh trở lại, hỏi rành rọt từng chữ một.
A Kiệt ưỡn ngực, “Thì con sẽ có cơ hội đến Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ làm việc...”
Bốn mũi cốt tiêu bỗng phóng vù ra cửa. A Kiệt không kịp xòe tay bắt, đành ngồi thụp xuống. Cốt tiêu bay xẹt qua đầu, hai mũi tiêu hất bay cái mũ bổ khoái hình vuông.
Ông già gắt toáng lên, “Nếu con dám đi làm cho Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng, ta sẽ đóng đinh con lên cánh cửa kia!”
A Kiệt ấm ức, “Làm việc cho Đông Xưởng thì có sao? Bổ khoái ở các nha môn ai chẳng muốn lên Đông Xưởng làm việc? Cha thấy không, ở địa phương, bọn con lúc nào cũng thu mình, chỉ như kẻ đầu đường chẳng ai thèm chào hỏi, suốt ngày dọn dẹp rắc rối lặt vặt và lũ trộm gà bắt chó. Còn người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ, ra đường mặc áo đẹp cưỡi ngựa hay, ai nhìn thấy cũng phải nể sợ, họ xử lý những vụ án lớn lưu danh sử sách ảnh hưởng xã tắc! Con biết gia đình ta đã nhiều đời làm bổ khoái ở Giang Kinh, nhưng rồi sẽ đi đến đâu? Suốt hai trăm năm chưa ai được làm bổ đầu!”
“Nói láo!” Liêu Kiếm Phàm gầm lên, hai tay chống trên ghế run bần bật, nuốt nước bọt mấy lần, nhưng rốt cuộc không nổi giận đùng đùng, cũng không phóng cốt tiêu nữa, ông chỉ thở dài, “Ta thật đáng trách vì không dạy bảo con đến nơi đến chốn.”
A Kiệt sửng sốt, đôi mắt đỏ lên, “Cha đừng nói thế, con sợ nghe cha nói những lời như vậy.”
“Năm xưa hai cụ tổ Liêu Thượng Trung và Liêu Thượng Hiếu nhà chúng ta theo đức Thái Tổ khởi nghĩa chống Nguyên, vào sinh ra tử, thương tích đây mình trở về Giang Kinh này, có tuyệt kỹ võ công nhưng không theo đuổi công danh hay quan tước mà chỉ làm bổ khoái bình thường, là tại sao? Tại vì hai vị chỉ mong được tận trung tận hiếu với phụ mẫu và bà con quê hương. Thời đó chiến loạn chưa yên, phủ Giang Kinh vẫn chìm trong khói lửa, cướp bóc hoành hành, nhiều đời nhà họ Liêu đã cùng các đồng sự đổ máu bảo vệ, Giang Kinh mới dần được thái bình. Nhà họ Liêu không phải khờ khạo gì, nhưng đã tự lựa chọn làm bổ khoái đế trừ gian diệt ác. Còn Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ thì đánh mất nhuệ khí trung trinh ban đầu, biến thành những thích khách phục vụ yêm đảng [*] tiêu diệt những người bất đồng chính kiến. Đó là sự thật chứ không phải lời đồn đại nơi kẻ chợ hoặc chuyện tầm phào của các nghệ nhân giang hồ! Con muốn mặc đẹp cưỡi ngựa tốt để giết hại đàn bà trẻ em vô tội, vây bắt những tướng soái nhiệt tình báo quốc, phải thế không? Không nói xa xôi, bổ đầu tiền nhiệm Lã Diệp Hàn, con biết chứ?” Liêu Kiếm Phàm ánh mắt rực sáng, nhìn con trai.
(ct): * Lũ bị hoạn.
A Kiệt hơi hoảng, “Biết ạ.”
“Năm xưa ông ta ở Đông Xưởng, làm sai dịch, dịch trưởng, rồi làm đến bách hộ, cuối cùng rời bỏ kinh đô, bỏ cả chức quan và phẩm hàm, về Giang Kinh chỉ để làm bổ khoái, là tại sao?”
A Kiệt gật đầu, “Trước đây con không hiểu chuyện, nay đoán là do chán ghét các hành vi của Đông Xưởng, ông ấy học tập tổ tiên họ Liêu chúng ta, về Giang Kinh yên tâm làm một bổ khoái trừ hại cho dân, truy bắt lũ trộm cướp lặt vặt.”
Giọng A Kiệt tuy có chút xem thường, nhưng Liêu Kiếm Phàm hiếu rằng lời ông nói đã tác động đến con, ông cười nhạt, “Vụ án Đoạn Chỉ Ma có gọi là trộm cướp lặt vặt không?”
A Kiệt không biết nói sao. Một hồi lâu sau mới hỏi, “Mẹ con mất như thế nào hả cha?”
Liêu Kiếm Phàm hơi ngẩn ra, hai vai run run ngồi thu mình trên ghế, buồn bã bi thương như lúc nhận được tin dữ năm xưa. “Con đã hỏi bao nhiêu lần rồi?”
Liêu phu nhân thấy chồng mất đôi chân, biến thành phế nhân, hằng ngày chứng kiến nỗi đau khổ của chồng, rốt cuộc bà không chịu đựng nổi, phát điên, rồi cầm kiếm cứa cổ tự sát.
“Con dù sao cũng đã làm bổ khoái một năm, đã va chạm với một số vụ án, con cứ có cảm giác cái chết của mẹ không giống như... Cha, có phải mẹ con bị Đoạn Chỉ Ma sát hại không?”
“Không, không phải!” Liêu Kiếm Phàm gầm lên.
A Kiệt không dám hỏi nữa. Ừ thì không phải, nhưng cha già có cần tức giận thế không?
Khoảng trống im lặng bỗng bị lấp đầy bởi tiếng vó ngựa đang phi đến gần, rồi dừng lại trước cửa nhà họ Liêu. Có người gọi to, “Tiểu tử A Kiệt, mau lết ra đây!”
A Kiệt đổi sắc mặt, nhìn sang cha. Liêu Kiếm Phàm chuẩn bị hành động, ít ra tay ông cũng đang cầm ba mũi cốt tiêu.
“Cha không nhận ra tiếng ai à? A Đại đấy!” Đào Đại là đồng liêu với A Kiệt, là một bổ khoái trẻ hơi láu táu vụng về.
A Kiệt nói vọng ra đường, “Chờ một lát!”
“Không chờ được! Triệu tập khẩn cấp, hỏa tốc!”
Cha con họ Liêu nhìn nhau, ánh mắt đều kinh ngạc.
Sau mấy hôm bận rộn, A Kiệt mới được thanh thản về nhà nghỉ ngơi, chưa kịp rửa mặt rửa chân thì lại bị triệu tập. Chỉ là...
“Mau lên, mau lên! Lại có án mạng, có xác chết!”