← Quay lại trang sách

Chương 10 Thiên thư

Nội dung mà Mạc bổ đầu nghe được cũng tương tự. Sau hai ngày im ắng, án mạng lại xảy ra, nếu Vô Kê đạo trưởng không luôn miệng lải nhải rằng Thiên thư liên quan đến hung án thì Mạc Tông Trạch cũng chẳng thiết nghe những chuyện lặt vặt cũ rích của lão.

“Tại hạ chỉ là bổ đầu một địa phương nhỏ, đương nhiên ít hay biết về những bí mật giang hồ.” Mạc Tông Trạch trỏ xác chết nằm dưới chân lão Khâu cách đó không xa, “Xem ra Giang Kinh sẽ biến thành nghĩa địa của giới võ lâm, nếu đạo trưởng vẫn còn giữ kín tình tiết nào, e sẽ chẳng ích lợi gì. Tại sao bọn họ lại đua nhau chạy đến hồ Chiêu Dương? Phủ Giang Kinh và Thiên thư có mối liên hệ gì?”

Vô Kê đạo trưởng vân vê chòm râu thưa lốm đốm bạc, bàn tay run run, lưỡi đảo qua đôi môi khô nẻ, “Đã rõ quá rồi còn gì? Dưới hồ Chiêu Dương ẩn chứa bí mật về Thiên thư.”

Mạc Tông Trạch lắc đầu, “Thiên thư chỉ là mẩu chuyện lạ kể ra cho vui. Ngày trước cha ta vẫn bảo thế. Hôm nay lão Khâu cũng nói vậy...”

“Kẻ không tin sẽ coi Thiên thư là chuyện hoang đường, người tin sẽ không cho đó là chuyện kể cho vui. Cũng như kẻ không tin đạo cho rằng tôi giả vờ bí hiểm, người tin thì dâng đồ cúng xong có khi còn nghe được thiên tôn ợ một tiếng. Vấn đề là ông có tin hay không.” Vô Kê bất chợt ợ một cái, sực hiểu mình đã há miệng mắc quai. Mạc bổ đầu chiêu đãi không chỉ để cảm ơn mà còn muốn dụ lão nói thật nói hết. Lão thở dài, đầu óc hiện ra truyền thuyết về Thiên thư.

Bốn trăm năm trước, đại quân Mông Cổ càn quét khắp thiên hạ, thôn tính một nửa giang sơn nhà Tống. Đội quân tinh nhuệ của họ còn giày xéo cả miền Tây Vực, Bắc Tân Cương và vô số các tiểu quốc xa xôi. Quân Mông Cổ bách chiến bách thắng, tạo nên kỳ tích chưa từng có. Để giành được kỳ tích, ngoài thiên thời địa lợi nhân hòa ra, thì phải nói đến tài điều binh khiển tướng của Thiết Mộc Chân, tức Thành Cát Tư Hãn. Thiết Mộc Chân qua đời, võ công binh pháp biến hóa như thần ấy cũng tan biến theo xác phàm, hậu duệ không được chân truyền, rốt cuộc đế quốc Đại Nguyên chỉ duy trì được trăm năm, kỵ binh Mông Cổ bị đám đông ô hợp nổi lên làm phản đuổi cổ khỏi Trung nguyên.

Ngay sau khi đại hãn qua đời, có tin đồn rằng trước lúc lâm chung, ông đã ghi chép lại tỉ mỉ thuật dùng binh trong cuốn Thiên thư, rồi sai chôn theo mình. Cuốn sách chưa từng được công bố ấy đã trở thành vật báu khiến giang hồ khao khát suốt mấy trăm năm qua. Thành Cát Tư Hãn đã chinh phục được bốn phương nhờ binh pháp và chiến thuật của mình, nghĩa là ai sở hữu cuốn sách cũng có khả năng giành được thiên hạ.

Mạc Tông Trạch lắc đầu, “Cứ cho là Thiên thư có thật, nó cũng không thể nằm dưới đáy hồ Chiêu Dương.”

Vô Kê nhìn ra mặt hồ Chiêu Dương, thầm sắp xếp lại các tình tiết, “Giang Kinh thời Nguyên Mông do lộ nào quản lý?”

“Thuộc tỉnh Hà Nam phía Bắc Trường Giang.” Mạc Tông Trạch càng lúc càng sốt ruột, “Điều đó...”

“Vào cuối thời Nguyên, tên thối tha nào cai quản Hà Nam, chắc Mạc bổ đầu không thể không biết?”

Mạc Tông Trạch đáp lời, “Sao lại không biết? Đó là thừa tướng Bá Nhan! Một tên ác độc hung tàn, từng dâng thư lên Thuận Đế đòi giết sạch năm họ Trương, Vương, Lý, Lưu và Triệu của người Hán. Nhưng chuyện này liên quan gì đến Thiên...”

“Có liên quan đấy! Bá Nhan lòng tham không đáy, đam mê châu báu ngọc ngà nên vơ vét vô số thứ. Nhưng kỳ lạ là về sau, khi Bá Nhan thất thế và bị tịch thu gia sản thì triều đình không tìm được dù là một hạt ngọc nhỏ. Vậy kho báu lão tom góp cả đời đi đâu? Gần đây trên giang hồ xì xào rằng kho báu khổng lồ ấy được giấu dưới hồ Chiêu Dương.”

Mạc Tông Trạch kinh ngạc, bất giác lại thở dài, nhưng vẫn chưa nghe ra mối quan hệ giữa kho báu Bá Nhan và Thiên thư, ông nhắc mình nhẫn nại nghe tiếp. Vô Kê kiếm sống bằng nghề kể chuyện rong giữa chốn dân gian, khó tránh khỏi cái tật nói năng khề khà.

“Bổ đầu nghĩ thử xem, nếu Thiên thư là có thật, thì nó ở đâu?”

Mạc Tông Trạch lắc đầu, “Đã chôn theo đại hãn rồi, muốn tìm thì phải tìm ra lăng tẩm của Thành Cát Tư Hãn đã. Nhưng mấy trăm năm nay mộ của đại hãn vẫn là bí ẩn lớn nhất đấy thôi? Không thấy sử sách nào ghi chép về chỗ chôn cất ông ta. Hồi ở kinh đô, ta có nghe nói Hồng Vũ Đế [*] sau khi khai quốc đã phái Cẩm Y Vệ đến hoang mạc phương Bắc để tìm mộ Thành Cát Tư Hãn.”

(ct): * Chu Nguyên Chương (1328-1398), hoàng đế lập ra nhà Minh.

“Kết quả ra sao?”

Mạc Tông Trạch khẽ thở hắt ra, “Cả toán lên miền Bắc không một ai sống sót quay về.”

Lúc này, xa xa thấy bóng hai người phi ngựa đến, là Liêu Nhất Kiệt và Đào Đại. Mạc Tông Trạch ra lệnh cho hai tiểu bổ khoái đến chỗ viên ngỗ tác cao niên để học hỏi, và sang mé trái gần đó tìm kiếm hung khí hoặc những dấu vết mà nghi phạm để lại.

Chờ họ đi rồi, Vô Kê đạo trưởng nói, “Đại hãn Mông Cổ chết, phần lớn sẽ thiên táng hoặc mật táng [*] , lý do là vì người Mông Cổ luôn di chuyển, các bộ lạc đều không có cương vực cố định, vó ngựa của họ đi đến đâu thì nơi ấy là nhà. Cho nên, việc chôn người chết cũng không có địa điểm cố định và cũng không để lại bất cứ ký hiệu nào. Thiết Mộc Chân là đại hãn huy hoàng nhất trong lịch sử Mông Cổ, mộ ông ta đương nhiên đặc biệt bí mật. Thành Cát Tư Hãn chết trên đường đi chinh phục Tây Hạ, tương truyền tám trăm phiêu kỵ đã đưa xác ông ta trở về Mông Cổ để bí mật chôn cất. Trên đường gặp người lạ thì giết luôn, nhằm ngăn chặn người đời sau biết tung tích mộ đại hãn.”

(ct): * Để lộ thiên, hoặc chôn ở nơi bí mật.

“Xem ra, chỗ yên nghỉ của người chết còn quan trọng hơn tính mệnh của người sống.” Mạc Tông Trạch như nhìn thấy hành trình thảm khốc ấy.

“Nghe nói sau khi chôn cất, người ta không dựng bia cũng không đánh dấu mộ phần, lại cho hàng ngàn con ngựa quần thảo khắp trăm dặm vuông để xóa mọi dấu vết, rồi trồng cây thành rừng. Cho nên hài cốt của đại hãn có thể nằm dưới bất kỳ gốc cây nào. Oái ăm hơn, toàn bộ thợ đào mộ xây lăng đều bị chôn vùi trong lòng đất, các võ sĩ hộ tống thi hài cũng bị đầu độc chết sạch. Ngay đám tướng sĩ Mông Cổ phụ trách việc diệt khẩu nói trên, trở về doanh trại cũng bị xử tử với danh nghĩa ‘chết vinh quang’. Lăng mộ dưới lòng đất thì được phù thủy làm phép, yểm bùa chú, ai vào đều mất mạng.”

Mạc Tông Trạch rùng mình, nhìn ra xác chết gần đó. Lẽ nào, bốn trăm năm sau, vòng giết chóc luẩn quẩn lại bắt đâu chỉ vì một nấm mộ huyễn hoặc tù mù? Mà tất cả những chuyện này liên quan gì đến hồ Chiêu Dương?

Vô Kê đạo trưởng thủng thẳng tiếp tục, “Chắc Mạc bổ đầu đang nghĩ rằng mộ Thành Cát Tư Hãn không bao giờ được tìm thấy và Thiên thư cũng biến mất theo thời gian? Nhưng mọi sự trên đời đều có ngoại lệ. Đại hãn Mông Cổ dù được chôn cất bí mật nhưng tập tục tế bái thì không thể bỏ qua. Hoàng tộc nhà Nguyên cũng vậy. Sau khi chôn cất, họ dắt một cặp mẹ con lạc đà đến bên mộ, chọc tiết con lạc đà con đang độ tuổi bú sữa. Tiếp theo mới cho ngựa quần thảo. Lần tế năm sau, họ dắt con lạc đà mẹ đến, nó vẫn nhận ra mùi máu tanh của con mình, không ngớt kêu rống bi ai, chỉ cần ngửi mùi là sẽ tới đúng nơi lăng mộ bị vùi lấp...”

Mạc Tông Trạch bất giác siết chặt hai tay, cõi lòng như lửa đốt, tại sao ta không thể ngửi thấy mùi máu của vợ, từ đó tìm ra Đoạn Chỉ Ma? Không thể ngửi thấy mùi máu Nhất Trượng Hồng để tìm tên khốn Đông Xưởng mà tử chiến với gã...

“Mạc bổ đầu! Bần đạo nói sai à?”

“Không... không. À, tức là không phải không có người biết vị trí mộ Thành Cát Tư Hãn.”

“Đúng thế! Trong vài chục người hoàng tộc dẫn lạc đà đi đến cúng vái, có người để ý nhớ kỹ vị trí mộ, về sau vẽ lại trên lá linh kỳ của Thành Cát Tư Hãn dùng lúc sinh thời. Mạc bổ đầu nhìn thấy linh kỳ Mông Cổ bao giờ chưa?”

Mạc Tông Trạch nhớ láng máng là có thì phải, bèn đáp, “Rất tiếc, tại hạ chỉ nghe nói qua loa chứ chưa hiểu rõ. Nó là quân kỳ thì phải?”

Vô Kê đạo trưởng đáp, “Thế thì tôi xin giải thích rườm rà một chút, mong Mạc bổ đầu đừng chê cười.”

Hóa ra bài giảng giải lê thê bên trên mới chỉ là phần mở đầu.

“Đúng đấy. Linh kỳ Mông Cổ vốn dĩ là quân kỳ, biểu trưng của linh hồn tướng sĩ. Cán là trường mâu, dưới mũi mâu nhọn là chiếc vòng xâu tám mươi mốt chùm lông bờm ngựa. Vì sao lại có tạo hình như thế? Tương truyền thời gian đầu giao chiến với các bộ lạc, Thiết Mộc Chân đánh đâu thua đấy, lòng quân rối loạn. Giữa muôn trùng vây, ông ta cầu khẩn trời xanh cứu vớt. Thành tâm thì được linh ứng, bầu trời bỗng sáng rực hào quang, một thanh trường mâu lơ lửng rơi xuống. Thiết Mộc Chân ra lệnh cho một đại tướng đón lấy, nhưng người này cố hết sức cũng không thể kéo xuống được.

“Thiết Mộc Chân vỡ lẽ, bèn đích thân tiến ra đón nhận. Ông ta cúi mình trên lưng ngựa, vuốt bờm ngựa rồi sụp lạy, trường mâu quả nhiên hạ xuống tay. Chứng kiến sự kiện thần kỳ, sĩ khí trào dâng. Dưới sự chỉ huy của trường mâu, binh sĩ xông lên giết địch như đi vào chốn không người.

“Sau đó Thiết Mộc Chân xưng hãn, lập quốc. Bên ngoài trướng và hành cung thường dựng ba lá linh kỳ chính màu đen, trắng và có hoa văn, nhiều linh kỳ phụ khác vây quanh linh kỳ chính, thể hiện uy nghiêm tối cao của đại hãn. Linh kỳ trắng do Thành Cát Tư Hãn thiết chế lúc thống nhất các bộ lạc Mông Cổ, nên trở thành quốc kỳ của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi đại hãn qua đời, ba ngọn linh kỳ chính này do các đại hãn kế tiếp tôn thờ, các võ sĩ Mông Cổ trong dân gian cũng dựng linh kỳ tự chế để nêu cao quốc uy và sự dũng mãnh của bản thân.

“Linh kỳ vẽ vị trí mộ đại hãn là một linh kỳ phụ. Vị vương công đã ghi lại vị trí mộ đại hãn cảm thấy lo lắng, nhất là khi nghe nói dưới mộ có yểm bùa phù thủy thì càng sợ mình sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, nên nảy ra ý định đốt bỏ linh kỳ có bản vẽ, nhưng lo đốt ở nhà không tiện bèn sai một gia nhân không biết chuyện đem linh kỳ ra sa mạc hoang vu để đốt. Nhưng gia nhân ấy đi rồi không thấy trở về, từ đó linh kỳ cũng mất tích.

“Trăm năm sau, linh kỳ lại xuất hiện. Cuối thời Nguyên, gian thần Bá Nhan nắm quyền lớn trong tay, nuôi riêng ba ngàn gia tướng dũng mãnh, trong đó có một nhóm không phải làm bất cứ việc gì ngoài đi khắp năm sông bốn bể để vơ vét châu ngọc báu vật.

“Một hôm, vào lúc canh ba, một kẻ trong nhóm này bỗng xộc thẳng vào thư phòng thừa tướng rồi gục xuống chết, không kịp trối trăng gì. Bá Nhan xem xét, thấy trên người hắn chi chít thương tích, máu chảy đầm đìa, sau gáy còn gắn một mũi tên độc, mép cũng đang rỉ máu, lưng đeo một túi da bò. Bá Nhan đoán trong đó phải có báu vật nên tên này mới quyết tử bảo vệ. Lão thận trọng mở túi, vừa nhìn thấy thì run lên vì sợ...”

“Linh kỳ?” Mạc Tông Trạch hừ mũi. Đúng là cái tật của đám kể chuyện rong. Chuyện đáng một hai câu là xong thì cứ vẽ vời sao cho thật tù mù bí hiểm, mà lúc này có thính giả nào để ném mấy xu Sùng Trinh vào bát rượu của lão ta đâu cơ chứ.

Vô Kê gật đầu, “Trong túi là lá linh kỳ bị chặt cán. Linh kỳ không hiếm trong dân gian Mông Cổ, tại sao tên này phải mạo hiểm đem về? Bá Nhan mở linh kỳ ra xem xét kỹ, thấy trong tua cờ bằng bờm ngựa có một tấm bản đồ. Lão ta sinh ra và lớn lên trong hàng ngũ quý tộc Nguyên Mông, đương nhiên có nghe truyền thuyết về lăng mộ đại hãn, và cũng từng nhiều lần tới sa mạc phía Bắc thăm họ hàng hoặc tế tổ, nên chỉ liếc mắt đã nhận ra ký hiệu đánh dấu lăng mộ thuộc về một khu cấm địa thần bí, có lẽ chính là mộ Thành Cát Tư Hãn. Bá Nhan lập tức nghĩ đến Thiên thư và số báu vật đồ sộ chôn theo. Bổ đầu đoán xem lão ta sẽ làm gì?”

Mạc Tông Trạch đành lắc đầu, “Dù sao đây cũng là hiện trường khám nghiệm, đạo trưởng nên nói nhanh thì hơn?”

“Ông cứ đoán đi?” Vô Kê bắt đầu nổi cơn gàn.

“Đương nhiên là lập tức sai người lần theo bản đồ, lên sa mạc tìm lăng mộ đại hãn, tha hết Thiên thư và châu báu về!”

Vô Kê khoái chí, “Lão ta lập tức đốt luôn bản đồ!”

“Là sao?” Mạc Tông Trạch nghe mà phát mệt.

“Bá Nhan biết những cảnh báo lưu truyền trong dân gian, tuyệt đối không được đụng đến mộ đại hãn! Vì thật ra lòng người trong thiên hạ đều giống nhau, người Hán chúng ta cũng thế thôi, có được đào mộ tổ tiên lên không? Huống chi, trước khi chôn cất Thành Cát Tư Hãn, các phù thủy đã làm phép yểm xung quanh khu mộ, kẻ nào xâm phạm ắt bị trời phạt. Thực tế thì bao kẻ dại dột hoặc lũ trộm cướp Mông Cổ tham lam thám thính khu cấm địa quanh mộ đại hãn đều thiệt mạng cả. Thời gian dần trôi, người Mông Cổ cũng từ bỏ ý đồ ấy. Bá Nhan tham lam cực độ nhưng không phải hạng ngu dốt, lão ta biết linh kỳ chẳng phải thứ tốt lành, nếu mình dám đào mộ thì tất phải hứng chịu hậu quả. Linh kỳ này giữ lại cũng không sao, nhưng để rơi vào tay kẻ khác thì chỉ e sẽ dẫn đến hậu quả chết chóc, vì thế lão ta đốt bỏ, mong sao bí mật về nó sẽ khép lại từ đây. Và đại hãn được an nghỉ trong lăng mộ, không bị ai quấy nhiễu, cũng không ai mất mạng vì nổi lòng tham mò vào trộm cắp nữa. Nhưng...”

“Nhưng sao?” Mạc Tông Trạch tò mò hỏi, dù đã đoán được là cái túi da bò đó sẽ gây ra vô số rắc rối.

“Nhưng, Bá Nhan bỗng nghĩ lại, rồi thọc tay vào đám lửa lấy linh kỳ.” Vô Kê hào hứng nói, cứ như tận mắt chứng kiến.

“Tại sao?” Đốt thì hợp tình hợp lý hơn chứ nhỉ!

Vô Kê kể tiếp, “Không ngoài hai chữ ‘sợ hãi’. Báu vật truyền thế của đế quốc Mông Cổ biến mất bởi tay mình, sau này mà Mông Cổ suy tàn, lại không tìm được Thiên thư để cứu vãn, thì mình thành ra tội đồ ngàn năm hay sao? Mặt mũi nào mà gặp lại tổ tiên và trời xanh đã ban cơ nghiệp cho Mông Cổ? Tóm lại, lão trộn linh kỳ vào một đống báu vật nữa, chôn xuống đáy hồ Chiêu Dương!”

Đến đây Mạc Tông Trạch đã hiểu tại sao Phượng Trung Long và đám cao thủ võ lâm bị giết. Hẳn là cả đám nghe tin kho báu của Bá Nhan và linh kỳ của đại hãn cất giấu dưới hồ nước, bèn chạy đến Giang Kinh để chấm mút đây. Ông lẩm bẩm, “Không phải vô duyên vô cớ mà bọn Phượng Trung Long tìm đến Giang Kinh, hồ Chiêu Dương rộng lớn như thế, nếu không có tin tức đáng tin cậy thì biết tìm kho báu ở chỗ nào? Chắc lời đồn thổi trên giang hồ cũng phải tương đối cụ thể một chút thì họ mới xúm lại như thế.”

“Xúm lại thế nào?” Khám nghiệm tử thi đã hoàn tất, lão Khâu bước tới gần họ, hai tay bê bết máu me như tên đồ tể vừa xong cữ pha thịt. Mạc Tông Trạch cau mày lắc đầu, “Rửa qua cái tay đi không được à?”

“Vì tôi đang muốn ông xem một chi tiết mới,” lão Khâu xòe hai tay đỏ lòm, phô ra hai vật tròn tròn to bằng quả trứng gà, đỏ nhầy nhụa. “Thứ này gọi là thiết châu. Mồm nạn nhân rách nát, cổ họng cũng nứt toác, tức là, có kẻ cố nhét thiết châu vào mồm nạn nhân, khiến chúng trôi xuống bụng.”

Mạc Tông Trạch lạnh gáy, “Cũng có thể là hắn ném thẳng vào dạ dày như phóng ám khí.”

Lão Khâu gật đầu, “Hung thủ là tên điên cuồng táng tận lương tâm.”

“Có giống cách giết hai đệ tử phái Nga Mi không?” Mạc Tông Trạch đã nghĩ thế, ông hỏi thêm để nghe lão Khâu phân tích.

Lão Khâu hừ mũi, “Đây là vụ án quái dị nhất mà chúng ta từng gặp. Tình tiết chặt ngón tay thì giống nhau, nhưng hai nữ đệ tử Nga Mi còn chưa kịp rút Ngọc Nữ kiếm đã bị siết cổ chết. Người này thì càng thê thảm, chắc chắn nạn nhân đã giao đấu ít nhất mười chiêu với hung thủ.”

Mạc Tông Trạch gật đầu tán thành, vừa nãy ông đã xem xét hiện trường, bên cạnh xác chết có một thanh đoản thương, trên bãi ven hồ có nhiều vết chân lộn xộn, tức là hai bên đã giao đấu kịch liệt.

Mạc Tông Trạch và lão Khâu đều nhận ra nạn nhân bị chặt ngón tay này chính là Tôn Bá Hùng, một truyền nhân xuất sắc của Thích gia thương [*] , nổi tiếng cả trong võ lâm lẫn chốn sa trường. Nghe nói trong chiến dịch Liêu Đông năm xưa, ông ta từng tiêu diệt mười ba võ sĩ lừng danh của quân Hậu Kim, và mang về vết sẹo to bằng đồng xu ở má phải.

(ct): * Thương pháp và chiến thuật do Thích Kế Quang sáng lập từ đầu thế kỷ 15, nhằm tự vệ và đánh đuổi hải tặc người Oa.

Lão Khâu nói, “Mấy năm nay ông ta dẫn quân đi Thiểm Trung vây bắt thổ phỉ, sao lại nhàn rỗi để chạy đến tận đây?”

Mạc Tông Trạch nhìn sang Vô Kê đạo trưởng, “Kho báu Bá Nhan dùng muôn đời không hết cùng linh kỳ vô giá, đương nhiên sẽ hấp dẫn hơn việc truy sát lũ người ô hợp đói rét rồi!”

Lúc này A Kiệt cũng chạy đến, “Quanh đây không thấy manh mối nào. Bổ đầu, tiếp theo nên điều tra ra sao?”

Lão Khâu khẽ ho một tiếng, “Trong giới võ lâm, người thạo sử dụng thiết châu chỉ đếm trên đầu ngón tay...”

Mạc Tông Trạch trả lời A Kiệt, “Cứ xử trí như các vụ trước. Ngươi đến quán trọ của nạn nhân, hỏi han sự tình xem có khai thác được gì không. Những người khác thì chia khu vực ra, tra xét tất cả các quán trọ, kỹ viện trong ngoài thành Giang Kinh, thấy nhân sĩ võ lâm nào giắt theo đao kiếm thì ghi luôn họ tên, và khuyên họ mau rời khỏi Giang Kinh để tránh họa sát thân.”