← Quay lại trang sách

Chương 11 Hồi ức

Bên bờ hồ Động Đình, Sở Ca lại xách thi thể mấy tên sai dịch lên, “Ta phải quét rêu, chôn xác chúng đã! Vân lão đệ là người khôn ngoan mà đi tin cái chuyện vớ vẩn về bản đồ lăng mộ đại hãn ấy à?”

“Vớ vẩn là sao?”

“Nếu đúng là năm xưa có người vẽ lại vị trí lăng mộ đại hãn thì tại sao suốt bốn trăm năm qua không ai đào được Thiên thư và báu vật chôn theo, để chờ các vị ngày nay tơ tưởng thèm khát? Và linh kỳ rơi vào tay gia tướng của Bá Nhan? Bá Nhan là kẻ tham lam, sao lão lại không đi tìm Thiên thư, sau đó chiếm lấy giang sơn Đại Nguyên?”

Vân Lăng bước lên, giúp Sở Ca khiêng xác ra ngoài lều, “Khi đó Bá Nhan là quan đầu triều, nếu đã nghe nói về phép thuật tà dị và bùa chú độc địa yểm quanh mộ thì lão đâu dám mạo hiểm để lấy Thiên thư nữa?”

“Theo ta, Thiên thư lại còn vớ vẩn hơn!”

Cả hai xếp bốn cái xác vào một chỗ, Sở Ca ra sau lều lấy xẻng rồi đào hố chôn xác, “Thành Cát Tư Hãn là bậc kỳ tài trên lưng ngựa, dùng binh như thần, mấu chốt ở chỗ linh hoạt chiến thuật chứ không câu nệ theo binh pháp. Nghe nói ông ta không biết chữ, làm gì có chuyện trước khi chết viết lách để lại hay soạn ra Thiên thư! Thế mà cũng tin. Và nếu có viết Thiên thư thật thì tại sao ông ta không truyền cho hậu duệ mà lại đem chôn đi?”

Vân Lăng ra ao cá rửa tay, “Tài dùng binh của Thành Cát Tư Hãn không thua bất cứ danh tướng, quân sư nào trong lịch sử. Không ai muốn kiến thức cả đời mình bị mai một, vì thế ông ta mới để sách lại. Không viết được thì cũng đọc ra cho người ta chép được chứ. Nhưng lúc sắp chết, con người đều hướng thiện. Khi lâm bệnh nằm liệt giường, đại hãn sẽ nghĩ gì? Có xót thương các vong hồn, các tử sĩ không? Ông ta biết dân tộc mình hiếu chiến, các bộ lạc không ngớt tàn sát nhau, huynh đệ tương tàn, chém giết đến một mất một còn. Nếu truyền lại Thiên thư thì chỉ khiến thiên hạ càng không yên ổn, cho nên mới bắt chôn theo. Bất đắc dĩ phải làm thế, đó là hành vi đúng đắn của bậc đại trí.”

Sở Ca dừng đào hố, nhìn Vân Lăng, thấy sắc mặt hắn nghiêm túc, bèn bật cười ha hả.

“Huynh cười gì?” Vân Lăng hơi cau mày, vẻ cáu giận.

Sở Ca cười thêm một lúc mới nói, “Vân đệ... đệ thật đáng yêu!”

Vân Lăng hơi đỏ mặt, “Không ngờ huynh lại có hứng với nam giới đấy.”

“Không phải thế.” Sở Ca thôi cười, “Vân đệ vừa nói Thành Cát Tư Hãn chôn Thiên thư là điều may mắn, lại vừa mỏi miệng bảo ta từ bỏ cuộc sống nhàn tản này trở lại giang hồ để gươm đao đổ máu, muốn ta giúp đệ đi tìm kho báu Bá Nhan, tìm bản đồ lăng mộ đại hãn, rồi khai quật Thiên thư, là muốn khiến thiên hạ đại loạn à?”

“Thiên hạ đại loạn sẵn rồi còn gì?” Vân Lăng cau mày.

Sở Ca khẽ than thở, “Và đệ muốn loạn hơn nữa?”

“Chẳng lẽ huynh không muốn Đại Minh khôi phục thời thái bình thịnh trị?”

Sở Ca lấy lại vẻ bình thản như mọi ngày, cười trừ, “Nhờ vào chúng ta, hai kẻ áo vải, hai tên đạo tặc ấy hả?”

Vân Lăng bỗng mỉm cười, dịu giọng, “Giả sử chục năm trước Viên đốc sư vớ được Thiên thư, thì sẽ ra sao nhỉ?”

Bên ngoài lều nhỏ, hồ Động Đình mênh mông nước, sóng lặng gió yên, nhưng Vân Lăng bỗng có cảm giác sát khí tràn đến. Mũi nhuyễn kiếm bật tới trước mặt hắn như linh xà vồ mồi. Sở Ca lao theo, ánh mắt cũng sắc như kiếm. Nhưng Vân Lăng vẫn đứng im như một cây tùng, không hề có ý né tránh hoặc chống trả, lẳng lặng đối mặt với mũi kiếm và ánh mắt gần trong gang tấc ấy.

“Các hạ là ai?” Mấy chữ phát ra từ miệng Sở Ca sắc nhọn như giết người.

Ánh mắt Vân Lăng bỗng trở nên tinh nghịch, “Trước khi giết người, Sở huynh luôn lịch sự như thế này à?”

Sở Ca lạnh lùng hừ mũi, thu kiếm lại, “Ngươi thừa biết là ta không định giết ngươi!”

“Nếu Sở huynh giết đệ thì mũi kiếm sẽ nhằm vào yết hầu chứ không nhằm vào mặt.” Vân Lăng chắp tay vái, rồi lại nói, “Xin thưa, đệ là Vân Lăng thứ thiệt, không mạo danh.” Hắn biết, ba chữ “Viên đốc sư” đã tác động đến Sở Ca. Viên đốc sư chính là Viên Sùng Hoán, từng là anh hùng thống soái, trụ cột của triều đình, uy danh vang dội biên thùy khiến hai đời vua Hậu Kim phải nể sợ. Nhưng về sau bị xử lăng trì [*] , bị trong triều ngoài nội phỉ nhổ vì tội bán nước, câu kết với địch, cùng vô số tội danh khác mà lũ oắt con chưa ráo máu đầu ở kinh đô còn thuộc làu làu. Dù có đem Viên Sùng Hoán ra chặt làm muôn mảnh cũng không đủ xoa dịu nỗi căm giận của dân chúng. Chốn quan trường cũng như võ lâm thường lưu truyền một câu dọa đùa, rằng chỉ khen Viên đốc sư vài câu dù trong mơ thôi, sai dịch của Đông Xưởng cũng sẽ phi ngựa đến bắt.

(ct): * Còn gọi là tùng xẻo. xẻo từng miếng thịt nhỏ trên người tội nhân cho đến khi họ chết. Nguyên tắc lăng trì là không được phép để tội nhân chết trước khi xẻo xong miếng thứ 2000, nhưng không phải kĩ thuật của kẻ hành hình nào cũng tốt như thế.

Vân Lăng lại nói, “Người ta đồn ràng Viên đốc sư lấy ít thắng nhiều, đánh bại quân Hậu Kim ở Ninh Viễn, huấn luyện được ba vạn quân thiết kỵ kiêu dũng vô địch, là vì ngẫu nhiên có được vài trang sách rách ra từ Thiên thư.”

Sở Ca phì cười, “Nghe còn hoang đường hơn cả Thiên thư. Trận Ninh Viễn đánh bại Nỗ Nhĩ Cáp Xích là nhờ khéo dùng hồng y đại pháo để giữ thành. Thiết kỵ Quan Ninh [*] đương nhiên dũng mãnh nhưng cũng chỉ ngang tầm với kỵ binh của Hậu Kim mà thôi. Chứ chưa nói đến...” Sở Ca hơi nghĩ ngợi, “Cứ cho là có binh pháp truyền thế chôn trong lăng mộ Thành Cát Tư Hãn thật, Viên đốc sư cũng làm sao lấy được vài trang rách chứ?”

(ct): * Lực lượng kỵ binh tinh nhuệ nổi tiếng của Viên Sùng Hoán.

Vân Lăng nhìn thẳng vào mắt Sở Ca. Điểm này khiến Sở Ca cảm thấy hắn ta thật khác người. Chuyên trị nhìn thẳng vào mắt đối phương, dù ôn hòa hay sắc bén. Sở Ca nhìn lại, bốn mắt cùng chờ đợi. Ta muốn hiểu thêm, các hạ là ai? Là thủy tặc nổi danh giang hồ, thế đã đủ chưa?

“Chưa chắc Vân đệ sẽ trả lời nhưng ta vẫn muốn hỏi, làm sao đệ biết mối quan hệ sâu xa giữa ta và Viên đốc sư?”

Vân Lăng cười xòa, “Xưa nay tai vách mạch rừng, Thiên thư bí mật là thế mà dân gian còn biết nữa là.”

Viên Sùng Hoán có mười tám tiểu tướng tài ba tâm phúc, gọi chung là Thiết huyết thập bát phiêu, đứng đầu là Sở Ca. Mười năm trước, xảy ra biến cố Kỷ Tỵ, mười vạn quân của Hoàng Thái Cực áp sát thành Bắc Kinh, Viên đốc sư từ xa chạy về cứu nguy nhưng bị nịnh thần vu khống, hoàng đế sinh nghi. Sau khi chỉ huy quân sĩ quyết chiến giải vây kinh đô và các vùng lân cận, ông bị kết tội phản quốc, câu kết với địch, tôi chịu lăng trì xử tử. Sở Ca bèn rời quân doanh, giã từ binh nghiệp đi làm thủy tặc.

Vân Lăng nhìn nét mặt Sở Ca, nhận ra y không tin giả thuyết “tai vách mạch rừng”, bèn nói tiếp, “Không phải Sở huynh không để lại chút dấu vết nào. Thiết huyết thập bát phiêu là thân tín của Viên đốc sư, là cái gai trong mắt Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng từ lâu. Huynh náu mình gần năm năm, đến tháng Tám năm Sùng Trinh thứ 7, Hậu Kim xâm lược lần thứ hai, huynh đột nhập quân doanh Hậu Kim ở Đại Đồng để ám sát Hoàng Thái Cực, suýt nữa thành công.”

Sở Ca than thở, “Ta náu mình năm năm để tính toán mà vẫn chưa chu toàn, vẫn đánh giá thấp hộ vệ của Hoàng Thái Cực.”

“Đêm hôm đó Sở huynh đã giết gần ba chục tướng sĩ Hậu Kim, người lầy lụa vết thương, máu đỏ lênh láng mà vẫn phá vòng vây chạy thoát. Chiến tích ấy đã trở thành giai thoại trong giang hồ. Quân Thát Đát phương Bắc xâm lấn lần thứ nhất thất bại tơi bời bỏ chạy, đó là nhờ xương máu của Viên đốc sư và đại quân Quan Ninh. Nghe nói quân Hậu Kim xâm lược lần thứ hai phải lui binh, là vì Sở huynh đang đêm đột nhập doanh trướng Hoàng Thái Cực khiến bọn chúng hoảng sợ.”

Sở Ca phì cười, “Phóng đại gì mà quá đáng thế. Mình ta đại náo mà khiến chục vạn quân phải rút lui, điều này cũng khó tin hệt như Thiên thư của đại hãn, như chuyện Viên đốc sư điều binh khiển tướng thành công là dựa vào mấy tờ giấy rách ấy.”

“Sở huynh quá khiêm tốn rồi.” Vân Lăng lại nhìn Sở Ca, “Đại sự thành bại xưa nay luôn gắn liền với một hai cá nhân, điều này Sở huynh cũng biết. Cũng giống như... nếu Viên đốc sư vẫn còn ở biên ải phía Đông...”

“Đằng sau là triều đình tối tăm thối nát thì một mình Viên đốc sư làm nên trò trống gì?” Sở Ca biết tại sao Vân Lăng cứ nói mãi về Viên đốc sư, “Đáng tiếc, tối nay Vân đệ đến đây mất công toi. Tại hạ chẳng tài cán gì đã đành, lại sớm bỏ ý nghĩ tung hoành thiên hạ rồi. Dù có lòng kế thừa chí hướng và nguyện vọng của Viên đốc sư thì cũng sẽ tìm một kế sách thực tế hơn, chứ không theo đuổi cuốn Thiên thư hư ảo đấy.”

Sở Ca cho rằng mình từ chối thế là dứt khoát lắm rồi, ai ngờ Vân Lăng không nản chí, lại tủm tỉm cười, “Giả sử tiểu đệ đưa ra lời hứa, nếu hai huynh đệ ta hợp sức thì nhất định sẽ lấy được Thiên thư của đại hãn, liệu huynh có chịu xuống núi, à, rời hồ không?”

Lần này đến lượt Sở Ca nhìn thẳng vào mắt Vân Lăng, “Tại sao Vân đệ cố chấp với Thiên thư như vậy? Làm sao biết chắc sẽ thành công?”

Vân Lăng trừng trừng nhìn lại, “Sở huynh vẫn chưa hiểu à? Lẽ nào bao năm qua huynh thực sự chỉ loanh quanh ở căn lều này, không đi đâu và không biết thế sự ra sao? Khắp nơi khói lửa, giặc từ miền Đông đánh vào, nghĩa quân nổi dậy đánh lên, bao người tan nhà nát cửa. Sở huynh được Viên đốc sư dạy bảo, hẳn phải biết rằng bây giờ mà còn trên đời thì ông sẽ không ngồi yên chứ?”

Sở Ca cảm thấy ngực trĩu nặng như đá đè, tay bỗng siết chặt nhuyễn kiếm bên hông.

Vân Lăng nhận thấy, lại khẽ nói, “Đại hiệp thời xưa, gặp sự bất bình luôn ra tay cứu giúp, là vì ai? Trước có Viên đốc sư, sau đó có Lư Tượng Thăng. Đại Minh không thiếu những bậc văn thần võ tướng trung thành đầy nhiệt huyết. Chỉ cần những người vì đại nghĩa có được Thiên thư thì hẳn sẽ chấm dứt được tình hình nhiễu loạn hiện nay. Đệ vốn ưa mạo hiểm, và càng muốn được như Sở huynh, hiểu đại cục, làm đại sự, để không phải làm thủy tặc cho đến chết!”

Sở Ca đang định hỏi lại, tại sao đệ dám quả quyết sẽ thành công, thì mặt bỗng hơi biến sắc.

Mới quen biết một lúc, Vân Lăng đã hiếu Sở Ca là người luôn giữ bình tĩnh trong mọi tình huống. Khi mặt điềm nhiên như không, thì có lẽ kẻ địch đang tiếp cận. Khi mặt hơi biến sắc, chứng tỏ kẻ địch đã bao vây! Y như rằng, Sở Ca đặt ngón trỏ lên môi ra dấu “im lặng”, sau đó chỉ về bốn phía Đông Tây Nam Bắc. Vân Lăng căng tai lắng nghe. Quả nhiên, rừng cây xung quanh vọng lại tiếng chân bước nhè nhẹ. Bao nhiêu người? Mười lăm, hai mươi? Họ đang từ từ áp sát, đang chờ hiệu lệnh, hay đang chờ cơ hội? Khinh công và định lực của họ cao thấp khác nhau.

Sở Ca bước tới, thì thầm với Vân Lăng, “Ra bờ ao, chuẩn bị nghênh chiến.” Chắc chắn bọn họ không đến để mua cá.

Cả hai di chuyển ra bờ ao, quay lưng vào nhau, sẵn sàng tư thế hiệp đồng tác chiến.

Bóng tối bao trùm.

Ba người xuất hiện đầu tiên đi qua cửa, coi như viếng thăm một cách đường hoàng. Bước chân họ không nhanh cũng không chậm, cứ như bách bộ sau bữa tối, không có vẻ gì là bao vây tấn công.

Khi đèn đuốc sáng lên soi tỏ mặt mũi họ, Sở Ca và Vân Lăng không khỏi sửng sốt, lập tức suy nghĩ rất lung tính kế thoát hiểm.

Ba người này, đi đầu là một đạo sĩ có khuôn mặt xương xương, râu dài, mũ cao, tuổi ngoài sáu mươi nhưng mắt vẫn tinh anh sắc sảo, đủ thấy nội công vô cùng thâm hậu. Và điểm đáng kể nhất chính là thanh trường kiếm đeo sau lưng ông ta, Trảm Vân kiếm truyền đời của các chưởng môn phái Điểm Thương.

Người thứ hai là một ni cô già cầm bình bát bằng bạc. Ni cô mặt mày hiền hậu, bát thì bé xíu không đủ đựng đồ hóa duyên. Tuy nhiên, chỉ cần có chút kiến thức về võ lâm thì không ai muốn gây chuyện với vẻ mặt hiền hậu đó cũng như biết rõ bát kia chỉ để giấu ám khí bên trong. Phái Nga Mi không có ai tay mềm. Họ xuất gia, chủ trương không sát sinh, nhưng cũng chẳng ngại nhìn máu chảy đầu rơi hay tránh cho đối thủ biến thành tàn tật dưới đao kiếm của mình. Một khi họ đã giở binh khí thì nhất định có kẻ phải quỳ xuống xin tha.

Người đi sau cùng là một nam nhân cao ráo khôi ngô tuổi ngoài ba chục, khuôn mặt trắng trẻo, hàng ria lún phún xén tỉa ngay ngắn, trang phục mềm mại, dáng vẻ nho nhã tự nhiên, tay cầm một ống tiêu làm bằng trúc tím. Lúc cao hứng, chủ nhân của nó sẽ thổi khúc nhạc du dương như nhạc tiên, nhưng lúc khác, ống tiêu có thể biến thành roi sắt đoạt hồn hay mũi kim khéo léo điểm huyệt đối thủ. Người này thổi được mọi làn điệu từ thời Hán Đường đến nay, cũng thông thạo nhiều loại binh khí và quyền pháp chứa đựng tinh túy của các đời chưởng môn Ngô Việt Thế Gia.

Ba vị khách đủng đỉnh bước đến cách Sở, Vân khoảng ba trượng thì dừng lại. Ngoài số đệ tử cầm đuốc theo sau họ, rừng cây còn lố nhố nhiều bóng đen nữa, ít cũng hơn hai chục người. Bị ba chưởng môn tấn công đã đủ nguy rồi, lại thêm bao nhiêu đệ tử thì sẽ thế nào đây? Sở Ca ngẫm nghĩ, rồi lẩm bẩm, “Phiền chết!”

Vân Lăng cố trấn tĩnh, nhưng người vẫn run run chứng tỏ hắn đang phát hoảng.

Sở Ca lừ mắt nhìn Vân Lăng, khẽ nói, “Khách đến nhà ta, thì để ta tiếp!”

Vân Lăng làu bàu, “Huynh muốn đệ ngậm miệng chứ gì?”

Sở Ca đáp, “Chính thế!” Rồi y lớn tiếng, “Tất đạo trưởng, Vô Tâm sư thái, Diệp công tử và chư vị hào kiệt! Tại hạ thất lễ không ra đón từ xa. Chẳng rõ các vị có việc gì phải hạ cố đến hàn xá mà không đánh tiếng trước? Đông người thế kia, tại hạ không đủ bát để mời uống trà đâu.”

Vân Lăng bỡn cợt, “Đây là cách tiếp khách của huynh? Thà đừng nói còn hơn!”

“Người anh em, im cái mồm một lát có được không?”

“Không.” Vân Lăng ngoan cố cười.

Sở Ca nói nhỏ, “Họ đều thuộc các môn phái bề thế, chúng ta chỉ là hạng đạo tặc tép riu, làm ăn nhỏ. Chớ xem thường họ. Ta nên đối xử cho đúng lễ.”

Công tử của Ngô Việt Thế Gia là Diệp Tri Thu cười nhạt, “Tối nay vốn không định quấy rầy các hạ, nhưng nhìn thấy mấy vị này...” Rồi chĩa ống tiêu vào bốn cái xác đang lấp dở, “Đều là người Đông Xưởng thì phải? Họ bỏ mạng ở quý phủ, đủ biết các hạ chẳng phải tay vừa.” Họ Diệp lại chỉ ống tiêu vào Vân Lăng, “Chúng ta đến đây chỉ để đưa tên thủy tặc khét tiếng này đi, mong... à, xin lỗi, không biết quý tính đại danh của các hạ là gì, nhưng đừng can dự thì hơn.”

Sở Ca trỏ Vân Lăng, “Hắn ta là ai?”

Có người đáp, “Vân Lăng!”

Sở Ca chỉ vào mình, “Tại hạ là Sở Ca.”

Ba vị chưởng môn đều hơi biến sắc.

Vân Lăng, Sở Ca, Phượng Trung Long và Tân Hoài được giang hồ gọi là “Tứ đại thủy khấu”, hành tung bí ẩn, không ngờ hôm nay chạm trán tận hai tên.

Tất Liên Sinh chưởng môn Điểm Thương cất tiếng, “Ngưỡng mộ quá! Sở Ca và Vân Lăng đều lừng danh giang hồ, nào ngờ lại là bạn thân.”

Sở Ca cảm thấy hai chữ “bạn thân” có vẻ châm biếm, ác ý, và cả sát khí nữa. Y nói, “Các vị muốn đưa bạn thân tại hạ đi, thì cũng phải cho biết lý do vừa lỗ tai chứ? Nếu không, các vị khác gì mấy gã Đông Xưởng này?”

“Hỗn hào!” Một đạo sĩ áo xám lướt đến, mũi kiếm lấp loáng ánh đuốc nhằm thẳng ngực Sở Ca.

Tất Liên Sinh nhắc, “Cẩn thận!”

Nhưng gã đệ tử lỗ mãng kia không kịp thu tay lại, trường kiếm của gã và nhuyễn kiếm của Sở Ca đã giao nhau. Nhuyễn kiếm vừa đụng trường kiếm thì bám chặt, thoăn thoắt bò lên như linh xà leo cây, rồi quấn lấy cổ tay của gã đệ tử Điểm Thương!

“Ối...” Gã kêu lên. Hăng hái xông ra giúp chưởng môn thể hiện uy vũ, định dạy cho tên đánh cá hôi tanh một bài học, nào ngờ lại bị nhuyễn kiếm ngoạm chặt cổ tay, hậu quả chỉ có một, cổ tay gã bị xén gọn.

Tất Liên Sinh tức giận hừ mũi, rút kiếm Trảm Vân ra, trút chiếc áo choàng đạo sĩ màu xanh xuống đất. Sở Ca thu kiếm về, mỉm cười, cùng Vân Lăng đứng giáp lưng, cứ như chiêu độc vừa tung ra chỉ là trò chơi của hai người bạn thân. Gã đệ tử mất tay mặt mày xám ngoét, lẩn vào bóng tối. Phái Điểm Thương đã mất một kiếm khách.

Sư thái Vô Tâm của phái Nga Mi khẽ thốt “Mô Phật!”, rồi nói, “Sở thí chủ thật từ bi, thiện tai! Sử dụng nhuyễn kiếm cũng tài, phóng ra thu về như ý muốn, diệu tai! Nhưng lại bao che cho tặc tử hung tàn, ngu tai! Bi tai!” [*]

(ct): * Các chữ “tai” này là thán từ. Thiện tai: tốt lắm thay. Diệu tai: khéo lắm thay. Ngu tai: ngu lắm thay. Bi tai: buồn lắm thay.

Sở Ca nói, “Tại hạ chỉ biết là nghe ù cả tai, mong sư thái nói rõ hơn?”

“Hắn... Vân Lăng, đã hại hai sư muội của chúng ta!” Một ni cô trung niên đứng sau Vô Tâm gắt lên.

Sở Ca thầm giật mình, nhưng vẫn tỏ ra bình thản, “Bà có tận mắt nhìn thấy không?”

Ni cô giận dữ, “Ngươi là tri huyện hay sao mà đòi căn vặn ta? Ngươi cứ hỏi bạn thân ngươi xem, có phải hắn đã từng thân mật với hai nữ đệ tử tục gia của phái Nga Mi không?”

Sở Ca cau mày, “Lắm thứ thân thân... khó hiểu quá, ta đi đánh cá cho xong!”

Vân Lăng cười nhạt, “Hai bên đều là tự nguyện kia mà! Hai nữ hiệp có tình cảm với tại hạ. Đủ thấy môn phái các vị dạy bảo đệ tử chu đáo, rất thạo đường đi lối về.”

Vô Tâm thốt lên, “Tội lỗi!”

Ni cô trung niên tuốt phắt trường kiếm ra, “Trước mặt sư thái chưởng môn, cấm nói những lời rồ dại trơ trẽn đó!”

Vân Lăng tra kiếm vào vỏ, ung dung tháo cái túi gấm trên lưng xuống, lấy ra một binh khí có hình thù kỳ lạ, thân kiếm màu bạc, nhưng lại có mũi đinh ba màu vàng. Đây là vũ khí thủy chiến nổi tiếng của hắn, có tên Kim Ngân Hoa.

“Tại hạ đã dám làm những chuyện phong lưu đàng điếm thì ngại gì nói ra vài lời trơ trẽn! Sư thái chưởng môn đức cao vọng trọng, tất nhiên sẽ không chấp nhất đếm xỉa gì.”

“Vậy là ngươi đã nhận tội?” Ni cô trung niên bước lên một bước, giơ kiếm chỉ vào Vân Lăng.

Vân Lăng hắng giọng bật cười, “Khi tại hạ và hai nữ hiệp bịn rịn chia tay, họ nhẹ nhõm vui vẻ như cá bơi trong ao này. Về cái chết của họ, tại hạ không biết, có khi các vị biết rõ hơn đấy.”

Vô Tâm chậm rãi nói, “Ý ngươi là gì?”

“Hai nữ hiệp kia trưởng thành ở núi Nga Mi, phẩm chất của họ ra sao, các vị không thể không biết. Tại sao họ buộc phải hoàn tục, các vị cũng thừa hiểu. Xông pha giang hồ, họ đương nhiên không phải hạng kém cỏi, các vị cũng đã lường trước. Vì cớ gì họ đến hồ Chiêu Dương, chắc các vị cũng đoán ra ít nhiều. Họ bị cuốn vào chuyện thị phi, rồi bỏ mạng. Nhìn cả quá trình đó, các vị phải đoán trước được kết cục này chứ?” Vân Lăng khẽ thở dài, rồi nói tiếp, “Kể cũng tiếc thật, hai cô nương xinh đẹp như hoa như ngọc.”

Sư thái Vô Tâm cau mày, vẻ mặt hiền hòa cũng hơi biến sắc. Hai đệ tử đó vốn nặng lòng riêng tư, họ lên Kim Đỉnh lén học độc chưởng, vì thế bị buộc phải hoàn tục, đuổi xuống núi, suýt nữa bị tước kiếm Ngọc Nữ và phế bỏ võ công. May sao các trưởng bối thương tình, xét tới triển vọng thành tài...

Diệp Tri Thu ho khẽ đánh tiếng, rồi nói, “Ngươi còn dan díu với cả nữ tử bản phái?”

Sở Ca hơi nhức đầu, có cảm giác đang đứng ngoài chợ xem các mụ đanh đá đấu khẩu cãi vã, chỉ chực xua tay nói “Các người cứ việc tranh cãi, tôi đi chôn mấy tên tay chân Đông Xưởng còn dễ chịu hơn”, nhưng y vẫn muốn xem Vân Lăng thanh minh ra sao.

Vân Lăng cười nhạt, liếc nhìn Diệp Tri Thu, “Đinh phu nhân của quý phái... có nhan sắc đấy nhưng hơi cứng tuổi, không hợp khẩu vị tại hạ. Vả lại... Đinh phu nhân ham rượu, rượu vào lời ra, nói rằng mình và công tử...”

“Nhảm nào!” Diệp Tri Thu quát. Giang hồ đều biết Diệp Tri Thu đã yên bề gia thất, vợ là con gái của Diêm Bang [*] ở Giang Nam, không nên đắc tội với cô ta.

(ct): * Bang buôn muối.

Vân Lăng đáp, “Thì thôi, hai ta đều hiểu là gì rồi, các vị khác cứ coi như điếc cho xong.”

Tất Liên Sinh hỏi, “Ngươi đã giết đệ tử phái Điểm Thương ở hồ Chiêu Dương, đúng chứ?”

“Tại hạ tham lam háo sắc thật, nhưng không hề hứng thú với việc giết người.”

Tất Liên Sinh lại hỏi, “Tại sao mấy đệ tử bản phái trước khi bị giết đều giao du với ngươi?”

Vân Lăng đáp, “Đạo trưởng nên hỏi rằng tại sao mấy đệ tử mỗi người một ngả ấy đều tụ tập ở hồ Chiêu Dương chứ?”

Diệp Tri Thu nói, “Chúng ta đều là những người hiểu biết, khỏi cần úp úp mở mở, mấy đệ tử bị giết đó đều đến hồ Chiêu Dương tìm kho báu Bá Nhan và linh kỳ đại hãn. Ngươi tiếp cận với họ, đương nhiên cũng vì kho báu ấy, nay họ bị giết... thế thì phải giải thích thế nào đây? Ngươi đã có được thứ cần có, sau đó diệt khẩu...”

Sở Ca hiểu ra, bật cười ha hả.

Diệp Tri Thu phát cáu, “Lời nói của tại hạ có gì đáng cười ư?”

“Lời nói không đáng cười. Buồn cười là ở chỗ khác. Thì ra các vị săn đuổi Vân Lăng không phải để đòi công bằng cho đệ tử, mà thực chất là muốn đòi tiền. Các vị đoán bạn thân của tôi đã nắm được bí mật về kho báu Bá Nhan và linh kỳ đại hãn từ các nạn nhân xấu số kia, nên muốn ép hắn phải khai ra!”

Vân Lăng nói thêm, “Xác đệ tử của các vị mới xuất hiện ở Giang Kinh cách đây ba ngày. Ba ngày mà đủ để các vị từ đất Thục, Lĩnh Nam và Hàng Châu chạy đến Giang Kinh rồi ngoặt vào hồ Động Đình á? Chân tướng chỉ có thể là, biết rõ họ liên quan đến kho báu Bá Nhan nên đi truy tìm, gần đến nơi thì nghe tin họ chết. Phải thế không?”

Ba vị chưởng môn bị nói trúng tim đen, cùng im re, hai ba chục đệ tử thì càng không dám ho he. Cả khu sân sau bên bờ ao im ắng chỉ còn tiếng lá cây xào xạc.

Cuối cùng, lại là Vân Lăng lên tiếng, “Các vị đi chuyến này đã mất công toi. Tại hạ không giết người, và cũng không thể nói gì về kho báu Bá Nhan và linh kỳ đại hãn.”

Vô Tâm bỗng hỏi, “Trên giang hồ, có mấy người biết dùng ám khí độc môn huyền thiết châu như Vân thí chủ?”

Vân Lăng chưa hiểu ra sao, “Huyền thiết châu là ám khí độc môn của tại hạ... thì chỉ có tại hạ dùng mà thôi.”

Diệp Tri Thu tỏ ra hiểu biết, “Nghe nói nó được đúc từ huyền thiết cực hiếm ở Thiên Sơn, phát quang trong bóng tối, và chỉ đúc được một trăm chín chín viên là hết nguyên liệu. Không rõ lúc đầu ai đúc ra chúng, rồi rơi vào tay Vân lão đệ. Mấy năm nay Vân lão đệ ăn nên làm nổi, lừng danh khắp chốn. Nghe nói chỉ cần cầm một viên huyền thiết châu đi khắp chín vịnh tám mươi mốt đảo lớn ở biển Hoa Đông, bất cứ ai trong giới lục lâm nhìn thấy cũng như gặp lệnh bài, đều kính sợ răm rắp, muốn gì được nấy. Vì thế Vân lão đệ mỗi lần phóng ra một viên huyền thiết châu thì nhất định phải nghĩ cách thu nó về. Ngoại trừ khi giết người mà muốn phô diễn uy danh thì mới nhét vào xác chết một viên làm dấu hiệu. Những lời đồn đại này, có đúng không?”

Vân Lăng thở dài, “Đúng,” lòng đã đoán được động thái tiếp theo của đối phương.

Sư thái Vô Tâm giơ tay, Vân Lăng và Sở Ca chột dạ ngỡ ám khí bay ra, nhưng cái bình bát của bà chỉ kêu leng keng mấy tiếng, ni cô đứng sau nói oang oang, “Trong người các đệ tử bị hại đều có một viên huyền thiết châu, họ Vân nhà ngươi thử giải thích xem?”

Sở Ca cười, “Dựa vào mấy viên bi sắt ấy, kết luận sao được? Bi sắt là loại ám khí bình thường, đến chỗ tôi còn có.”

Chưa thấy Vô Tâm động đậy gì, một viên thiết châu bóng loáng đã từ bình bát bắn ra, bay về phía Vân Lăng.

“Vân thí chủ thử nhìn xem có phải huyền thiết châu này không?” Sư thái Vô Tâm nói, giọng ôn hòa nhưng ánh mắt thì sắc lạnh.

Vân Lăng đưa tay ra bắt lấy, vân vê, nương nhờ ánh đuốc từ bốn phía chăm chú quan sát, rồi nhét nó vào túi da hươu tinh xảo đeo bên hông. “Đúng. Đa tạ hoàn trả.”

Tất Liên Sinh mở miệng, giọng vang như sấm rền, khiến cá trong ao cũng phải quẫy nhảy vì bất an, “Tức là, Vân thí chủ đã thừa nhận mình giết người!”

Vân Lăng lắc đâu, “Đã đến nước này, xem chừng không thừa nhận cũng khó! Nếu tại hạ hé lộ bí mật đã nắm được từ các đệ tử kia, thì câu chuyện sẽ kết thúc êm đẹp chứ?”

Ai nấy trầm mặc, như thể ngầm đồng ý.

“Các vị phải gật đầu hoặc nói ‘Được’ thì tại hạ mới yên tâm để có lời.”

Vô Tâm và Diệp Tri Thu đều nhìn Tất Liên Sinh, rõ ràng vị đạo sĩ già phái Điểm Thương là người cầm đầu trong chuyến đi này.

Tất Liên Sinh nói, “Được! Chỉ cần nộp ra thứ đã lấy từ các xác chết, chúng ta sẽ tha mạng cho, bằng không đêm nay, dù mọc cánh ngươi cũng không thể bay thoát.”

Sở Ca luôn mồm “Tội lỗi, tội lỗi, thiện tai, thiện tai” cứ như thể chỉ mới một lúc đã bất chợt quy y cửa Phật.

Vân Lăng lẩm bẩm, “Các vị đều là nhân vật danh giá, hi vọng đã nói thì sẽ giữ lời.” Hắn hạ cái túi gấm đeo lưng xuống, thò tay lần tìm. “Tất đạo trưởng mở lời trước nên tại hạ xin bắt đầu từ phái Điểm Thương.” Rồi lấy ra một chiếc xuyến ngọc. Sở Ca hiếu kỳ quan sát. Dưới ánh sáng yếu ớt, khuôn mặt Tất Liên Sinh và hai đệ tử cứng tuổi đứng hai bên bỗng biến sắc. “Mùng 8 tháng Mười năm ngoái, một vị công tử nhà Tất đạo trưởng...”

Sở Ca ngắt lời, “Ông ta không phải người xuất gia à?”

“Sở huynh hỏi hay đấy. Tất đạo trưởng tuy là người xuất gia nhưng dương khí dồi dào, trước khi đắc đạo thành tiên vẫn là con người bằng xương bằng thịt, ‘công lực’ đỉnh cao, sành sỏi đại pháp lấy âm bổ dương, tạo phúc trạch cho dân nữ vùng Thương Sơn. Ông ấy đã giúp vài phụ nữ có chồng hoặc chưa chồng sinh ra bảy trai ba gái. Cho nên dân chúng trong vùng gọi ông ấy là ‘Thập toàn đạo trưởng’. Thực xứng với cái tên ‘liên sinh [*] ’...”

(ct): * Liên tiếp sinh con.

“Nói láo!” Gã đệ tử bị Sở Ca cắt cổ tay lúc trước gầm lên, lại định xông ra, nhưng Tất Liên Sinh đã giơ tay ngăn lại.

Vân Lăng coi như không thấy, tiếp tục nói, “Tất đạo trưởng ưng nhất đứa con út Kình Thiên, tuổi vừa tròn mười sáu, thông minh tuyệt đỉnh, có năng khiếu võ học, kiếm pháp của gã đã vượt lên vài vị huynh trưởng. Kình Thiên kế thừa võ công của Tất đạo trưởng, ‘công lực’ cũng mạnh mẽ như cha hồi thiếu niên, mới tí tuổi đã cưỡng bức trên chục dân nữ. Trong vùng, phái Điểm Thương quyền uy bằng trời, đa số gia đình có con gái bị hại đều nhận vài chục lạng bạc rồi ngậm miệng nuốt hận. Nhưng một nạn nhân lại có người cha không thức thời, cả cha và anh trai đều là võ sư có chút tiếng tăm, tính tình nóng nảy, nghĩ rằng nhà mình có tiềm lực, chuẩn bị kiện lên quan phủ. Nào ngờ chưa viết xong đơn kiện thì đã bị một toán cường đạo xông vào giết sạch, không sót một ai.”

Sở Ca thở dài, “Đang thời loạn, đạo khấu hoành hành khắp nơi, đúng là gặp vận xui...”

“Xuyến ngọc này vốn đeo ở cổ tay phải thiếu nữ bị hại, bên trên khắc nhũ danh, vẫn còn dính máu cô ấy. Vốn dĩ có một đôi, đều khắc tên, chiếc đeo bên tay trái đang để ở nha môn làm vật chứng. Người của nha môn không ngờ bọn cường đạo ấy chính là Tất chưởng môn và mấy gã đạo hữu thân tín. Một tên trong số đó bí mật chôm cái xuyến, ỉm đi, hẳn là có ý dùng nó để tống tiền trục lợi. Tên đạo hữu này đã lên miền Bắc, đến Giang Kinh. Tình cờ gặp nhau, tại hạ nổi máu đạo tặc, cuỗm lấy chiếc xuyến ngọc đem về làm kỷ niệm. Tại hạ nghĩ gã chẳng thể thọ lâu, có giữ vật này cũng vô ích.” Vân Lăng lại cất xuyến ngọc vào túi gấm, rồi nhìn Vô Tâm và Diệp Tri Thu. “Tiếp theo nên nói về nhà nào, mong hai vị gợi ý rõ?”

Vô Tâm ngoảnh nhìn Tất Liên Sinh, “Hắn nói đúng không, Tất đạo trưởng?”

Tất Liên Sinh cười vang, “Sư thái nghĩ sao, lời một tên trộm, liệu có mấy phần đáng tin?”

Vân Lăng cười khẩy, “Sư thái xem cái này đi, rồi sẽ biết tên trộm đáng tin đến đâu.” Nói đoạn hắn lục túi gấm lấy ra pho tượng Phật bằng ngọc cao khoảng một gang tay, giơ lên. Dù ánh sáng không đủ, Sở Ca vẫn nhận ra pho tượng trong suốt, ngọc tạc tượng hẳn là thứ ngọc thượng hạng.

Vô Tâm không đổi sắc mặt, chỉ giọng nói là hơi khàn đi, cứ như cổ họng đột nhiên bị mắc mấy sợi mì khô cay, “Vật này... ở đâu ra?”

“Hai nữ hiệp bị đuổi khỏi núi Nga Mi, lúc sắp đi đã tiện tay thó ở quý am. Chắc là để dự phòng hành tẩu giang hồ, gặp cảnh túng bấn sẽ đổi lấy bạc để tiêu xài. Tại hạ thừa cơ nẫng luôn trong khi vui vẻ thân mật với họ. Tượng này tinh xảo giá trị thế nào, mong sư thái chỉ bảo cho.” Vân Lăng cười tinh quái.

Sở Ca thầm than khổ. Đang lúc cần sinh tồn, vuốt râu hùm làm gì chứ?

Vô Tâm chưa cất tiếng, Diệp Tri Thu đã tỏ ra kinh ngạc, “Định Tôn Phật đây mà. Nghe nói, các đời chưởng môn Nga Mi sẽ viết tên chưởng môn kế nhiệm nhét vào bụng tượng này. Sau khi chưởng môn viên tịch, nhóm trưởng lão sẽ lấy mảnh giấy ra trước sự chứng kiến của các cao tăng thần ni, tuyên bố chưởng môn kế nhiệm...”

Dứt lời, gã tò mò nhìn tay Vân Lăng.

Vân Lăng nghiêng pho tượng, rút cái nút ở đáy tượng ra, để lộ một khoảng trống nhỏ, moi lấy một mẩu giấy.

“Chưởng môn tiền nhiệm của Nga Mi là thần ni Minh Như, có ba đệ tử ngang ngửa nhau về trình độ Phật pháp và võ công, đều là ứng viên hàng đầu để kế nhiệm chưởng môn. Trong đó, Thiên Tâm nhiều tuổi và đức cao vọng trọng nhất, Vô Tâm trội nhất về võ công và y thuật, Nguyên Tâm tinh thông Phật pháp hơn cả. Nga Mi có được ba vị này, vốn là điều may mắn, nhưng lại là mối băn khoăn của chưởng môn Minh Như.

“Năm ấy Minh Như đã ở tuổi tám mươi mà sức khỏe vẫn dồi dào. Bà cùng các tăng ni cao niên luận bàn rằng, ba đệ tử nói trên đều có bản lĩnh và ưu thế riêng, thật khó đưa ra quyết định. Nhưng kỳ lạ là sau hôm đó, sức bà yếu dần, việc chọn chưởng môn vốn vẫn dùng dằng giờ phải tiến hành nhanh chóng.

“Suốt chiều dài lịch sử, Nga Mi đều lấy Phật học làm gốc, cấp độ tu hành của các ni cô là trên hết, rồi mới đến trình độ võ công kiếm pháp. Trong ba đệ tử xuất chúng này, Nguyên Tâm luôn được công nhận là đứng đầu về Phật học, cho nên thần ni Minh Như không do dự nữa, bà viết hai chữ ‘Nguyên Tâm’ ra giấy rồi nhét vào bụng tượng Phật. Bà giữ kín quyết định này cho đến khi sức tàn lực kiệt, hiểu rằng mình sắp ra đi, mới gọi Nguyên Tâm và một trưởng lão là Tín Như vào gặp, dặn dò về việc truyền chức, sau đó nhắm mắt xuôi tay về Tây thiên.

“Nào ngờ, đến hôm tuyên đọc di chúc, khi sư thái Tín Như moi tờ giấy ở đáy tượng ra...”

Mọi người đang nghiêm túc đứng nghe, bỗng phì cười. Vô Tâm hơi lim dim mắt, lẩm bẩm, “Thiện tai...”

“Thì trên giấy lại viết hai chữ ‘Vô Tâm’!” Vân Lăng đắc ý vung vẩy mẩu giấy trong tay.

Ni cô trung niên đứng sau Vô Tâm tức giận gắt lên, “Bẻm mép, bịa đặt! Chỉ láo lếu là giỏi!”

Vân Lăng ngẩng đầu nghĩ ngợi, rồi nói, “Việc lập chưởng môn tiến hành cách đây hai chục năm. Trông sư phụ không còn trẻ mấy, chắc năm ấy cũng có mặt, sư phụ còn nhớ thái độ của sư thái Nguyên Tâm không?”

Ni cô trung niên cau mày, “Bà... bà ấy phẩy ống tay áo đi ra. Ai cũng biết ba vị sư thái đều là thần ni và đều là nhân tuyến xứng đáng. Sư thái Nguyên Tâm tự cho mình là Phật pháp cao thâm, chắc mẩm sẽ được làm chưởng môn. Thái độ của bà ấy lúc đó không hay lắm...” Ni cô trung niên cười nhạt, “Đủ thấy, Phật pháp chỉ là lý thuyết suông, bản thân vẫn nặng lòng phàm tục. Sau đó bà ấy rời chùa, giam mình trong động Kim Đỉnh mà sống âm thầm. Bụng dạ hẹp hòi, chẳng có vẻ thần ni gì cả!”

Vân Lăng khẽ nói, “Ni cô chỉ ăn chay, mổ bụng ai bao giờ mà biết lòng dạ người ta hẹp hòi?”

Đám đệ tử Nga Mi cùng hét lên, “Láo quá!”

Vân Lăng ôn tồn nói, “Nguyên Tâm biết có kẻ đã giở thủ đoạn đánh tráo di thư mà vẫn cam chịu, không đại náo Nga Mi, vì bà nghĩ cho đại cục. Đó là Phật tính tại tâm sâu nặng, coi nhẹ vinh nhục.”

Ni cô trung niên nói, “Cam chịu cái gì? Giấy viết là giấy lụa Hồng Vân dành riêng cho chưởng môn viết tài liệu hoặc kinh văn. Mặt khác, hôm tuyên đọc tên chưởng môn mới, có mặt năm trăm tăng ni của các chùa, và có ít nhất ba chục vị cao tăng thần ni truyền tay xem tận mắt, đều công nhận đó là bút tích của thần ni Minh Như. Sư thái Nguyên Tâm có quyền nói năng hay đại náo cái gì chứ?”

Vân Lăng cười nói, “Điều này thì nên hỏi Diệp công tử.”

Trước mặt mọi người, Vân Lăng tung pho tượng Phật cho Diệp Tri Thu. Gã nhẹ nhàng bắt lấy.

Vân Lăng nói, “Diệp công tử dòng dõi thư hương, kiến thức sâu rộng, phiền công tử nhìn cho rõ hai chữ ‘Vô Tâm’.”

Diệp Tri Thu moi từ bụng tượng ra mẩu giấy vuông, mỗi chiều rộng nửa gang tay, trên đó có hai chữ “Vô Tâm” viết theo lối Hành thảo [*] khá đẹp. Xem xong ngẩng đầu, vẻ mặt khinh bỉ liếc nhìn sư thái Vô Tâm. Bà ta quắc mắt.

(ct): * Thể chữ viết tháu.

“Chuyện chẳng liên quan đến ta. Ta giữ mồm giữ miệng thì hơn.” Diệp Tri Thu lắc đầu thở dài.

Vân Lăng mỉm cười, “Thế lôi chuyện của Ngô Việt Thế Gia ra cho liên quan nhé?”

Diệp Tri Thu thầm cân nhắc, môn phái mình đông người lắm chuyện, không tránh khỏi những chuyện chẳng ra gì, tốt nhất không nên để bươi móc. Gã bèn ho khan, “Sư thái! Tại hạ đắc tội vậy. Chữ ‘vô’ có vấn đề, chữ này không được viết một mạch theo lối Hành thư, mà đã bị sửa chữa, thêm vào vài nét... ở nửa trên và nửa dưới...”

Tất Liên Sinh ngắt lời, “Công tử nói thẳng ra luôn đi!”

“Vốn là chữ ‘nguyên’. Có người thêm vào mấy nét để thành chữ ‘vô’.” Diệp Tri Thu chòng chọc nhìn sư thái Vô Tâm.

Mọi người lại trầm mặc. Câu chuyện tranh quyền đoạt vị này, khỏi cần nói thêm nữa rồi.

Ni cô trung niên đứng sau sư thái Vô Tâm cất cao giọng, “Mong Diệp công tử trả lại vật đó cho chúng ta!”

Diệp Tri Thu nhét trả mẩu giấy vào bụng tượng rồi tung về phía ni cô trung niên, “Món ăn chạm vào bỏng tay này, ta cũng không ham thưởng thức!” Bụng bảo dạ, Vân Lăng đã vất vả thó báu vật của Nga Mi, cớ sao còn trả lại? Không dùng để đàm phán cơ hội thoát chết ư?

Như đoán được ý nghĩ của Diệp Tri Thu, Vân Lăng mỉm cười, “Công tử không cần xót ruột hộ tại hạ! Có đến hai nữ hiệp Nga Mi bên bờ hồ Chiêu Dương cơ mà, cho nên báu vật tại hạ thó được không chỉ có một.” Nói rồi hắn lục túi gấm lấy ra một chiếc lư hương xinh xắn, “Các vị sư thái, nhận ra chú?”

Vô Tâm ngẩng nhìn, hơi chột dạ, “Đây là lư hương của Minh Như chưởng môn ngày nào, nhiều năm trước bị mất trộm...”

“Không phải là mất trộm,” Vân Lăng nói. “Nguyên Tâm bỗng dưng bị cướp chức chưởng môn, bèn rời chùa Phục Hổ, đem theo lư hương đến ẩn mình tu hành trong một sơn động ở ngọn Kim Đỉnh. Nguyên Tâm không tham lam như tại hạ, sao bà ấy phải đem lư hương đi? Xem ra, sư thái không biết là do nhiều năm không viếng thăm sư muội của mình rồi, tại chột dạ hả? Ôi, thiện tai, thiện tai! Người xuất gia không nên nuôi dã tâm...”

“Láo quá!” Ni cô trung niên lại tuốt trường kiếm khỏi vỏ.

Vân Lăng kêu lên, “Sư thái, nhìn thứ này đã rồi hãy ra tay!” Hắn tách lư hương thành hai phần, phô ra một khoảng trống giữa bụng lư và phần đế. “Tại hạ hay nghịch ngợm, tò mò tìm hiểu, nên đã phát hiện ra điều bí mật mà hai nữ hiệp Nga Mi xấu số kia chưa biết. Khoảng trống giữa lư và đế có cài một cuộn giấy bé xíu, đọc chữ thì biết đó là bút tích của chưởng môn Minh Như, ghi chép các vị thuốc bà đã uống trong mấy tháng trời kể từ khi đổ bệnh. Mà Nga Mi ngày đó, sư thái nào giỏi y thuật nhất?”

Tất cả đều im lặng, nhưng đa số đã đoán ra ít nhiều.

Sở Ca giả bộ ngớ ngẩn, “Có phải là sư thái Vô Tâm không?”

Vân Lăng cười, “Đúng thế đấy! Chưởng môn Minh Như mới nói hôm trước rằng mình đang khó xử, chưa quyết định được để ai kế nhiệm, thì hôm sau bà lăn ra ốm. Thuốc men đều do Vô Tâm phụ trách. Minh Như ghi chép tỉ mỉ bệnh tình và thuốc đã uống, nhằm để lại cho đời sau vận dụng điều trị. Nhưng khi thể lực dần suy kiệt, bà chợt nghĩ ra một khả năng đáng sợ, rằng mình trúng độc, và độc đang ngấm từ từ... Nhưng bà không sao chứng minh được nghi ngờ, và càng không muốn nội bộ xảy ra rối loạn vào giai đoạn chuyển giao quyền lực. Cho nên bà giấu tư liệu này vào lư hương. Lúc lâm chung, bà dặn dò Nguyên Tâm về kế sách điều hành môn phái và có nhắc đến cái lư. Tại hạ đoán, ý của bà là ‘Sau khi ta viên tịch, con phải gìn giữ lư hương chu đáo’, nhưng không nói rõ là có một thứ cất giấu trong đó, và cứ thế chầu trời. Nhiều năm qua, Nguyên Tâm vẫn bảo quản lư hương nhưng không nhận ra bí mật bên trong.”

Sở Ca lạnh lùng chêm vào một câu, “Có thể không phải là không nói rõ, mà là chưa kịp nói đã tàn hơi rồi.”

Ni cô trung niên tức giận mắng, “Hai tên đạo tặc này, kẻ tung người hứng, vu khống chưởng môn của ta! Chưởng môn không chấp hai ngươi, nhưng đệ tử bọn ta nghe ngứa lỗ tai quá rồi!” Chưa dứt lời, ni cô đã nhảy vọt lên, lưỡi kiếm loang loáng ánh lửa. Gần như đồng thời, vài bóng người cũng từ các phía bay đến, đều mặc áo nhà chùa đen xám, cầm kiếm Ngọc Nữ dài nhỏ, tất cả xuất cùng một chiêu.

Đám ni cô vừa tới gần, Sở Ca bất thần hô, “Lên!”

Vân Lăng nhảy vọt lên cao, nhưng không phải đánh chặn các đường kiếm, mà giẫm hai chân lên vai Sở Ca, mau chóng cất lư hương vào túi gấm, một tay vung Kim Ngân Hoa đâm lia lịa, tay kia phóng ra ba viên huyền thiết châu cùng lúc. Bên dưới, Sở Ca cầm nhuyễn kiếm gạt quanh. Chỉ chốc lát đã gây ra một đống thương tích, đẩy lui đám ni cô.

Vân Lăng cười khì, “Đứng trên cao, nhìn rõ cảnh vật quá... Á, ba vị chưởng môn... Tay lăm lăm đao kiếm, mặt sát khí đằng đằng...”

Sở Ca chưa kịp rùng mình, ba chưởng môn đã ập tới tấn công. Vân Lăng nhảy khỏi vai Sở Ca, ba món binh khí đồng thời xáp vào.

Vô Tâm nhảy vọt lên cao, tay phải múa kiếm, tay trái xoay bình bát, tám thứ ám khí bắn ra như hoa nở, vây chặt hai đối thủ. Khuôn mặt bà vẫn đầy vẻ từ bi. Người xuất gia thì không sát sinh, không làm hại dù một con sâu cái kiến, nhưng giết người là ngoại lệ. Bởi vì, nhiều khi con người còn đáng ghét hơn cả súc sinh.

Diệp Tri Thu cũng không có ý nương tay, ngón tay đặt lên lỗ tiêu, chất độc bắn ra như mưa. Vân Lăng dù chưa đả động đến những chuyện tồi tệ của Ngô Việt Thế Gia, nhưng ai biết trong túi gấm kia còn chứa những gì. Chi bằng trừ khử luôn cho nhẹ nợ.

Tất Liên Sinh dồn sức vào thanh Trảm Vân, tung ra những chiêu thức uy lực nhất của kiếm pháp Điểm Thương.

Sở Ca và Vân Lăng không đón đỡ, mà bỗng rùn thấp mình sát đất, trườn đi cực nhanh rồi nhảy vọt xuống ao như cá quẫy! Một loạt ám khí tới tấp bắn theo.

Trước khi đến lều Sở Ca, ba phái bàn bạc kế sách cũng có nghĩ đến cái ao cá. Nhưng họ đều nhận thấy là không đáng lo. Ao cá chẳng phải sông hồ, không bơi đi đâu được, mà nấp tại chỗ thì nín thở một lúc là cùng.

Tất Liên Sinh hô to, “Hai vị chưởng môn! Chúng ta chia nhau ra hành động, các đệ tử mang cung tên thì sẵn sàng nhằm xuống mặt nước, hễ thấy động tĩnh là bắn luôn. Để xem chúng trốn được bao lâu?”

Các đệ tử của ba phái vây quanh ao cá, ám khí và đao kiếm sẵn sàng trong tay, chỉ chờ hai tên thủy tặc nhô đầu lên là tiêu diệt.

Nhưng chờ mãi vẫn thấy mặt nước phẳng lặng, Sở Ca Vân Lăng đã mất tăm, biến thành cá rồi hay sao?

Diệp Tri Thu nhìn mặt nước im lìm, nỗi nghi ngờ lớn dần. Rồi gã quan sát căn lều, rừng cây, ao cá xem có điều gì khác thường không. Một âm thanh “lạch xạch” vọng đến từ hướng nào chẳng rõ. Tất cả ngẩng đầu nhìn quanh.

Tất Liên Sinh vội nhắc, “Không rời mắt khỏi mặt nước! Không được phân tâm!” Nhưng chính ông ta cũng bắt đầu mất bình tĩnh, vì mặt đất dưới chân đang nhão ra và sụt xuống. Nước ồ ạt dâng lên xen lẫn những tiếng kêu kinh hãi.

Diệp Tri Thu hô to, “Lên cây! Lên cây! Nước ngập!” Và thoăn thoắt trèo lên cây ô cựu bên bờ ao. Các đệ tử Ngô Việt Thế Gia cũng mau chóng trèo lên theo. Đệ tử và chưởng môn của hai phái kia còn bì bõm trong nước, muốn trèo theo mà có mấy cành yếu không kham nổi sức nặng, kêu răng rắc như sắp gãy. Những tiếng “lạch xạch” vẫn liên tục vọng đến, lại thêm âm thanh ầm ầm như sấm nổ. Nước càng lúc càng dâng cao, cứ như từ trên trời trút xuống. Lát sau, bên dưới các tán cây đã là biển nước mênh mông.

Diệp Tri Thu không khỏi lo lắng. Nước đã ngập cả lều tranh lẫn ao cá, mà sao vẫn có tiếng lạch xạch như cạm bẫy nào đó đang vận hành? Sẽ còn xảy ra chuyện gì nữa đây? Lạch xạch... rầm rầm rầm rầm...

Cùng một loạt tiếng kêu kinh hãi, các cây theo nhau đổ rạp, đệ tử và chưởng môn ba phái đều chới với trong nước.

Vân Lăng theo sau Sở Ca, cùng lặn sâu rồi bò lên bãi cát cách đó chừng hai dặm. Sở Ca vào bãi cỏ lau kéo ra một con thuyền nhỏ và hai mái chèo, đẩy ra hồ. Hai người chia nhau ngồi đối diện ở đầu và đuôi thuyền, chèo về hướng Đông Bắc. Tiếng mái chèo khua nước rào rào, chèo một hồi lâu, Vân Lăng lên tiếng, “Huynh bố trí đủ các thứ then bẫy, là vì lường trước sẽ có mối nguy ập đến. Huynh vẫn chờ ngày này, phải thế không?”

“Không phải.” Giọng Sở Ca lạnh tanh, y nhẩn nha chèo thuyền một lúc, lại giải thích, “Ta mong ngày này không bao giờ đến.”

Vân Lăng hào hứng nói, “Đệ nghe đồn khi xưa cùng Viên đốc sư chinh chiến ở Liêu Đông, huynh thiết kế đủ thứ bẫy rập để phá giặc. Tối nay mới được tận mắt chứng kiến. Thật không ngờ chốn đào nguyên nho nhỏ của huynh lại được xây dựng trên một cái lưới khổng lồ!”

Sở Ca nhẹ nhàng sửa lại, “Sáu cái.” Rồi y bâng khuâng thở dài.

Sau khi nhảy theo Sở Ca xuống ao cá, thấy y lặn một hơi xuống đáy, Vân Lăng hiếu kỳ cũng lặn theo, mới biết Sở Ca đi xoay bánh mâm. Mặt ao sóng sánh chuyển động, vách ao cựa quậy tách ra, có những tiếng lạch xạch ầm ì từ xung quanh truyền lại.

Sở Ca bơi đến bên Vân Lăng, khẽ đụng vào vai ra hiệu. Vân Lăng hiểu ý, bèn theo y bơi qua một lỗ hổng ở vách ao để thoát ra ngoài. Bơi được một quãng ngắn, Vân Lăng tò mò ló đầu lên mặt nước, chỉ thấy căn lều của Sở Ca, ao cá, rừng cây... tất cả đã là biển nước mênh mông.

“Ôi, cây cối... tiếc thật!” Vân Lăng cảm thán, hiểu rằng căn lều và ao cá tuy sơ sài nhưng vẫn là nhà của người này, bao năm qua sớm chiều vào ra, hẳn là gắn bó. Trong màn đêm, hắn không nhận ra sắc mặt Sở Ca đang dần nặng nề.

“Vân đệ đến đây cốt làm ta tan nhà nát cửa để phải bỏ đi. Ngang nhiên khui ra bê bối của cả ba phái rồi kéo ta vào cuộc. Đệ thừa biết ba chưởng môn đó ra tay thì hai chúng ta cầm chắc cái chết, cũng biết quanh lều của ta bố trí vô số cạm bẫy thoát thân. Đệ mặc sẵn quần áo lặn bên trong áo gấm, vì tin rằng ta sẽ dẫn đệ chạy trốn theo đường thủy. Thậm chí trên đường đến nhà ta, đệ còn cố ý gieo rắc dấu vết để đám Đông Xưởng và ba phái kia bám theo. Đều đúng chứ?”

Rốt cuộc Sở Ca đã nói toạc hết mọi nghi vấn từ đầu. Y muốn biết, Vân Lăng là nhân vật thế nào, dù đã đoán trước người này sẽ né tránh không chịu bộc lộ.

Vân Lăng nói, “Mấy đệ tử của bọn họ, không phải đệ giết.”

Sở Ca ngước mắt lên, y đâu có thắc mắc điều này. “Ta không định hỏi, vì ít nhiều cũng hiểu tác phong của đệ. Ta từng nghe nói về mấy vụ dính dáng đến đệ ở vùng biển Hoa Đông. Phần lớn nạn nhân là bọn ác ôn man rợ hoặc tham ô phạm pháp, chứ đệ không giết người vô tội. Dù đám đệ từ kia chưa chắc đã là hạng tử tế gì, nhưng cũng không nghe phạm phải tội ác tày trời nào. Đệ sẽ không để tay mình nhuốm máu vì chúng.”

“Thì ra Sở huynh cũng có nghe ngóng về đệ?”

“Cùng là dân giang hồ mạo hiểm, dễ có ngày chạm trán nhau, biết mình biết người thì cũng không thừa.” Sở Ca thầm nghĩ, tiếc rằng ta biết về ngươi chẳng thấm tháp gì so với ngươi biết về ta. “Vân đệ, tại sao huyền thiết châu lại nằm ở chỗ người chết?”

“Đúng là đệ có dính dáng đến mấy người chết ấy. Và tình cờ huyền thiết châu rơi vào tay họ. Đệ tuyệt đối không có ý đến hồ Động Đình để quấy nhiễu Sở huynh. Chắc chắn là chưởng môn ba phái có lắm nguồn tin nên đã phát hiện ra hành tung của đệ.” Thấy Sở Ca vẫn ngờ vực, Vân Lăng bèn đổi đề tài, “Trong đám thủy khấu khiến triều đình ngứa mắt, xem ra Sở huynh là người khó nắm bắt nhất, huynh không có binh khí nổi tiếng, cũng chẳng có ám khí đặc biệt, ngoại trừ Phá Lãng Thoa.”

Sở Ca mỉm cười, “Những người hành nghề như chúng ta càng kín đáo càng tốt, càng ít thị phi càng hay. Chẳng phải thế sao? Đệ xem, họ Sở ta đây không có binh khí ám khí nổi tiếng, ẩn thân nơi hẻo lánh, nhưng đệ vẫn tìm ra đấy thôi? Đệ đến để lôi kéo ta đi tìm Thiên thư và linh kỳ, cũng vì ta có ngón nghề thiết kế cơ quan chứ gì?”

Vân Lăng gật đầu, “Trước mặt người thẳng thắn thì không nên quanh co. Đúng thế, tìm kiếm Thiên thư và linh kỳ đại hãn kiểu gì cũng vấp phải cơ quan. Đó là lúc cần Sở huynh trổ tài.”

“Còn lâu ta mới nhận lời, đừng nói đến trổ tài.”

Vân Lăng cười, “Thế sao được? Huynh xả lũ khiến đệ ướt như chuột lột, huynh mắc nợ đệ!”

Lý lẽ nực cười thật! Nhưng Sở Ca không cười, cũng chẳng đáp trả.

Vân Lăng chờ một lúc mới tiếp, “Cho phép đệ nói thẳng, hôm nay lần đầu gặp mặt nhưng đệ đã nhận ra, Sở huynh là kẻ bất đắc chí.”

Sở Ca vẫn giữ vẻ bình thản, “Là sao?”

“Anh hùng không có đất dụng võ, chim ưng không có chốn tìm về. Sau khi Viên đốc sư bị hại, Sở huynh bản lĩnh đầy mình nhưng không biết thi triển vì ai, tràn trề nhiệt huyết nhưng không biết dùng vào việc gì. Đại Minh là tổ quốc, hoàng đế Đại Minh lại là một hôn quân chuyên hại người chính trực. Nhưng không phục vụ Đại Minh thì phục vụ ai? Lẽ nào lại phục vụ bọn xâm lăng phương Bắc [*] ? Hay đi theo nghĩa quân?

(ct): * Người Mãn Châu.

“Nếu ở vào vị trí Sở huynh, thì tâm trạng của đệ cũng là ‘rút gươm, nhìn bốn phương, lòng bâng khuâng’ [*] , không biết nên thế nào đây? Mấy năm trời làm thủy tặc có được chút danh tiếng, nhưng thủy tặc vẫn là ‘giặc’, chắc Sở huynh đã ngán cảnh lén lút sống bằng cái trò cướp giật nên mới rửa tay gác kiếm, rời bỏ giang hồ vào lúc danh tiếng vang lừng, nhưng lại không thể bằng lòng với cuộc sống nhọc nhằn vô tích sự? Buồn vì mình có tài mà không gặp thời, muốn đền ơn nước nhưng không thể. Vì thế mà huynh buồn phiền thất vọng.”

(ct): * Trích bài thơ Hành lộ nan của Lý Bạch.

Sở Ca trầm mặc, nhưng cõi lòng bắt đầu dậy sóng. Cứ tưởng Vân Lăng chỉ bạ đâu nói đấy, hóa ra câu nào câu nấy như đi guốc trong bụng y.

Bao năm qua Sở Ca sống trong cô độc. Để giữ bí mật, y cắt liên lạc cả với các huynh đệ Thiết huyết thập bát phiêu. Sau cái chết của Viên Sùng Hoán, nhiệt huyết năm nào biến thành phẫn nộ, rồi giờ là ngậm ngùi lui về ở ẩn, không biết thổ lộ cùng ai. Đã bao đêm không ngủ, Sở Ca mong sao có được một hai người bạn tri kỷ, dù chỉ ngồi trong căn lều mà nghe y tâm sự. Không ngờ hôm nay lại có người lạ từ phương xa đến nói thẳng ra tâm trạng chơi vơi, cô tịch và đầy cảm thương mà y vẫn giấu kín bấy lâu. Vân Lăng là người thế nào?

“Sao huynh lại câm như hến vậy?” Vân Lăng khẽ đá chân nhái vào bàn chân trần to lớn của Sở Ca. “Bây giờ chúng ta đi đâu?”

“Không biết nữa. Cứ cố chèo đi.” Sở Ca nói, vẻ mặt đã nhẹ nhõm hơn. Vân Lăng này tuy quanh co bí hiểm nhưng dường như rất hiểu y. Ngay cả khi y thốt ra mỗi một tiếng “Lên”, hẳn cũng hiểu là lên đứng trên vai y. Khi y nằm rạp người trườn ra khỏi đám binh khí của các chưởng môn thì Vân Lăng cũng nhào xuống theo. Các động tác linh hoạt biến hóa cực nhanh, cả hai giống như huynh đệ đồng môn đã cùng thao diễn vô số lần đến mức thuần thục nhịp nhàng vậy.

Vân Lăng cười nói, “Đúng thế! Tiểu đệ sinh tử ra sao đều trông cậy vào huynh. Huynh muốn dẫn đi đâu cũng được!”

Sở Ca hỏi, “Muốn ta trao sinh mệnh cho đệ, thì phải nói rõ kế hoạch và cho ta biết làm sao đệ tin chắc sẽ tìm ra kho báu. Chứ thế này mông lung lắm.”

Vân Lăng đáp, “Đệ và Phượng Trung Long từng hợp tác làm ăn. Trước khi chết hắn có viết thư cho đệ, nói rằng chỉ cần tìm thấy bản đồ là tìm ra kho báu Bá Nhan.”

“Nhưng hắn ta đã...”

“Vẫn còn thi thể, nhưng đã bị một toán binh mã của Đông Xưởng đem đi. Chứng tỏ câu nói của Phượng Trung Long là thật.”

Sở Ca vẫn chưa hiểu, “Dù là quan hệ hợp tác, hắn cũng đâu cần cho đệ biết về kho báu Bá Nhan? Sẽ phải chia chác thành quả, mấy ai muốn thế chứ.”

Vân Lăng thở dài, im lặng một lúc. “Phượng Trung Long là người tử tế, hắn luôn khuyên đệ rằng, tuổi trẻ tương lai còn ở phía trước, chớ đi vào con đường bế tắc làm đạo tặc. Sau khi biết vị trí kho báu Bá Nhan, hắn rủ đệ hợp tác và muốn đệ sớm rửa tay gác kiếm.”

Để khỏi rơi vào kết cục như hắn ta, Sở Ca muốn bổ sung như vậy, nhưng cảm thấy nói thế thì thiếu tôn trọng người đã khuất, nên đành thôi.

Vân Lăng ngẩng đầu tìm trăng, rồi lại nói, “Chúng ta đang đi về hướng Đông Bắc... Huynh định vào thành Nhạc Dương à? Chỗ đông người là chỗ tiện trốn nhất. Vào đó, chúng ta càng dễ che giấu tung tích.”

Sở Ca nói, “Không cần che giấu. Ta muốn vào đó gặp một người. Chuyến này ta có đi được hay không là do người ấy quyết định.”

Sau khi để thuyền lại bên bờ hồ, Sở Ca dẫn Vân Lăng đến một cái lò gạch bỏ hoang ở ngoại thành, chỉnh đốn trang phục, chờ trời sáng hẳn mới ung dung đi vào thành.

Dọc đường, dù Vân Lăng nài nỉ thế nào, Sở Ca cũng không chịu tiết lộ về nhân vật “mang tính quyết định” nọ. Vân Lăng rất tò mò, hắn không tin con người mạnh mẽ phong độ này còn phải nghe lệnh ai khác. Bởi bản thân Sở Ca đã là một nhân vật quyền uy, từng thay Viên Sùng Hoán nắm cờ lệnh Thiết huyết, điều động cả Thiết huyết thập bát phiêu lẫn ba vạn thiết k?