Chương 12 Theo dấu
“Bổ đầu, chúng ta chạy đến đâu đây?” A Kiệt đuổi kịp Mạc Tông Trạch, hai người phi ngựa sóng đôi, tiếng vó ngựa cùng tiếng gió ù cả tai. A Kiệt đành hét to. Lúc nãy ở quán trọ Giang Hưng gã đã hỏi đi hỏi lại vẫn không được nghe câu trả lời, hệt như cách đây hai hôm.
Tôn Bá Hùng cùng mấy nhân sĩ võ lâm xấu số đều không trọ ở nội ngoại thành, thậm chí không nghỉ chân ở đâu cả, họ cứ như từ trên trời rơi xuống Giang Kinh để mà bỏ mạng. Vừa rồi hai thầy trò tiếp mấy tay sai dịch ở các châu phủ lân cận đến đưa thư, thư đều viết rằng bổ khoái ở các nha môn chưa thấy ai khả nghi. Có lẽ hành tung của mấy người chết này bí hiểm, hoặc có lẽ vì dạo này các nha môn đều đang căng thẳng theo dõi giặc giã lóp ngóp nổi dậy. Trương Hiến Trung được chiêu an vài năm trước, nay lại dựng cờ làm phản. Sấm vương Lý Tự Thành hồi nọ thua trận trốn vào núi Thương Lạc cũng rục rịch đánh quan ải để cướp thành. Các nha môn từ Thiểm Đông đên Trung nguyên và Giang Bắc đều đang hoang mang sợ hãi. Thử hỏi ai thèm để ý đến mấy gã giang hồ võ biền bỏ mạng?
Mạc bổ đầu rõ ràng là ngoại lệ. Sau khi chộp hụt manh mối ở quán trọ, ông chỉ nói với A Kiệt “Theo ta” rồi vung roi quất ngựa phi nước đại. Nghe A Kiệt hỏi, ông lập tức ghìm cương, A Kiệt cũng thế. Hai con ngựa cùng khựng lại, hai chân trước chồm lên không trung.
Mạc Tông Trạch nói, “Thanh Giang Uyển!”
Thanh Giang Uyển chẳng phải lầu xanh hay quán rượu, mà là trại nuôi ngựa của phủ Giang Kinh. Chức năng của trại ngựa là nuôi ngựa, huấn luyện ngựa, và cũng thu gom ngựa lạc trong dân gian.
Cả hai phóng như bay một hồi, rồi dừng lại trước một trang viên lớn bên bờ sông Thanh An. A Kiệt chưa bao giờ vào trại ngựa này, nên chăm chú lắng nghe Mạc Tông Trạch kể về nó.
Phủ Giang Kinh nằm ở trung tâm khu vực Giang Bắc. Từ đầu thời nhà Minh đến giờ, Giang Kinh chưa từng gặp phong ba khói lửa, cho nên Thanh Giang Uyển chỉ là trại ngựa hạng vừa so với trại ngựa các địa phương khác trong khoảng vài trăm dặm quanh đó. Mấy năm nay nông dân khởi nghĩa, cường đạo hoành hành, quân Mãn Châu nhiều lần xâm lấn biên ải, nên châu phủ mới tăng cường binh lực để cần vương và sẵn sàng càn quét thổ phỉ, có chỉ huy sứ cai quản binh mã. Nhưng vì đói kém và chiến loạn, thuế má thất thu, nên trại ngựa cũng ngày càng xuống dốc. Thanh Giang Uyển rệu rã rất nhiều so với thời Hồng Vũ, Vĩnh Lạc thịnh vượng xưa kia. Dù là thế, A Kiệt đứng đây vẫn nghe thấy những âm thanh lịch kịch của hàng trăm con ngựa tốt trong trại.
Trưởng trại ngựa ra cổng đón khách. Ông ta tuổi ngoại tứ tuần, người thấp nhưng tráng kiện, quanh mép lưa thưa râu.
Mạc bổ đầu nhảy phắt xuống ngựa, chắp tay chào, “Làm phiền đại nhân.”
Trưởng trại là người hiền hậu dễ gần, vội vàng đáp lễ, “Tôi chỉ là viên chức cửu phẩm bé nhỏ, chớ gọi là đại nhân, Mạc bổ đầu ạ.”
Mạc Tông Trạch đi thẳng vào đề, “Sái huynh nhún nhường quá! Tiểu đệ đến, muốn hỏi xem mấy hôm nay ở đây có thu được con ngựa lạc nào không?”
Trưởng trại cười lớn, “May sao mấy hôm trước Mạc bổ đầu đến đây nhắc nhở, nên chúng tôi đã không để lỡ dịp tốt thu gom ngựa. Các huynh đệ trong trại vẫn chú ý nghe ngóng tình hình Giang Kinh, nhất là quanh hồ Chiêu Dương, nên thu được kha khá ngựa tốt từ nơi khác đến. Đều là ngựa vô chủ, có hai con dân chúng đã dắt về nhà, chúng tôi bèn đến mượn oai quan phủ để đòi họ phải nộp ra.” Không đợi Mạc Tông Trạch hỏi, ông ta nói tiếp, “Một con sáng nay mới thu về, Mạc bổ đầu nên xem.”
Hai vị khách bước theo trưởng trại qua cổng chính, vòng qua sân huấn luyện, đi đến khu chuồng ngựa nồng nặc đủ thứ mùi. Ngựa nhiều, nhưng chỉ một số ít đang được đưa ra luyện tập. Các nài ngựa thay phiên nhau làm việc theo giờ cố định. Trong tàu đang có đến vài trăm con ngựa rảnh rỗi.
Trưởng trại dẫn khách đi đến chỗ một con ngựa ô, “Con này sáng nay vừa đem về đây. Hai vị xem, màu lông đen bóng, hàm răng chắc khỏe, cơ đùi chắc nịch. Nó thực sự là tuấn mã không dành cho người thường!”
A Kiệt bỗng kêu lên, “Ngựa của Tôn Bá Hùng!”
Mạc Tông Trạch lừ mắt nhìn thuộc hạ nhưng không có ý tức giận. Ông thầm nghĩ, tiểu tử này tinh ý, chỉ tội chưa biết giữ mồm giữ miệng. Mạc Tông Trạch nghiêm túc hỏi, “Là ngựa chiến?”
Trưởng trại gật đầu, cúi xuống nâng một vó sau của con ngựa lên. Móng sắt khắc chữ “Linh”.
Mạc Tông Trạch hỏi, “Nghĩa là gì?”
“Vũ Linh Giám, tên một trại ngựa hàng đầu ở vùng Thiểm Trung. Nghe nói mấy năm trước trại đó chuyên cung cấp chiến mã cho quân đội triều đình. Hiện nay tám chín phần binh lực được điều về Liêu Đông, thì các trại ở Liêu Đông phải cấp ngựa, Vũ Linh Giám hiện giờ chỉ cấp ngựa cho một phần nhỏ binh lực ở vùng trung tâm. Móng sắt này chưa mòn là mấy, tức là mới đóng cách đây không lâu.”
A Kiệt hỏi, “Có phải con ngựa này đến từ một quân doanh đồn trú, cách đây không xa?”
Trưởng trại cười, “Tiểu tử thông minh thật! Nhìn khí sắc và huyết mạch của con ngựa thì đúng là chưa phải chịu gió sương vất vả.”
“Là quân doanh Biện Trung!” Mạc Tông Trạch khẽ kêu lên. Đó là doanh trại trấn thủ gần Giang Kinh nhất.
A Kiệt đã hiểu ra, Mạc Tông Trạch đang xác định lộ trình của Tôn Bá Hùng, vì ông ta là người của quân đội nên sẽ dễ tìm hơn đám người tự do kia. Nhưng thật khó xác định Tôn Bá Hùng đóng quân ở doanh trại nào. Mạc Tông Trạch muốn bắt đầu từ con ngựa mất chủ này để tìm ra nơi ông ta xuất phát.
Mạc Tông Trạch tạ ơn mấy lần, vừa định cáo từ bước đi thì Sái trưởng trại nói, “Mạc huynh có muốn xem một con nữa không?”
Hai thầy trò bổ khoái ngạc nhiên. Mạc Tông Trạch biết trưởng trại không phải người tùy hứng, bèn gật đầu đi theo đến một chuồng ngựa khác.
“Con này lông vàng đều, là ngựa Ánh Nhật Hoa bình thường, nhưng thú vị lại ở đây...” Trưởng trại trỏ vào dưới mõm ngựa. “Ở đây có một cái sẹo nông, giống vết thương mới lành, nhưng thật ra không phải. Có một số ngựa có đặc điểm này...”
“À! Bị đeo thừng! Là ngựa kéo xe!” A Kiệt kêu lên.
Sái trưởng trại đáp, “Chính thế! Ngựa kéo xe thì cơ thịt dưới hàm thô chắc, vì bị đóng hàm thiếc ghì vào, thậm chí bị đeo rọ để dễ điều khiển. Tuy nhiên, nếu hàm thiếc và rọ buộc không ngay ngắn thì sẽ cọ xát vào nhau rồi để lại vết trầy ở hàm.”
“Ngựa kéo xe thì sao?” A Kiệt hỏi.
Mạc Tông Trạch lại hỏi, “Con ngựa này ở đâu ra?”
“Nó ngoan ngoãn đứng bên ngoài tàu ngựa của một ngôi nhà tranh đơn sơ, cỗ xe thì ở gần đó. Trong nhà không một bóng người. Chúng tôi cố tìm chủ nhà, được biết người thuê đã đánh xe ngựa đến, trong xe còn một người nữa. Họ mới thuê trước đó năm ngày. Cho nên chúng tôi yên tâm đưa con ngựa này về trại.” Trưởng trại thấy Mạc Tông Trạch im lặng, bèn nói tiếp, “Chủ nhà còn kể lại một chi tiết kỳ lạ, cách đây hai ngày, có một toán bảy, tám người cưỡi ngựa đến bao vây ngôi nhà tranh, khí thế hung tợn, họ xông vào lục soát rồi tay trắng trở ra.”
Chà! Mấy tay khách không mời mà đến Giang Kinh, tôi vào nhà đó tìm gì nhỉ? Mạc Tông Trạch lại cảm ơn.
Trưởng trại hỏi, “Mạc bổ đầu định đi quân doanh Biện Trung à?”
A Kiệt sửng sốt, “Dù cưỡi ngựa liên tục không nghỉ, cũng phải hai ba ngày mới đến nơi.”
Trưởng trại nói, “Bổ đầu chờ một lát, tôi sẽ viết bức thư, dọc đường gặp các trại khác, ông vào mà thay ngựa. Sẽ hay hơn là vào các dịch trạm.”
Hai thầy trò Mạc Tông Trạch ra khỏi Thanh Giang Uyển, lên đường cái. A Kiệt nói, “Tiểu nhân xin theo đại nhân đi Hà Nam.”
“Ngươi không lo cha già sẽ mong nhớ à?” Mạc Tông Trạch nhìn sang A Kiệt, thấy tiểu bổ khoái đang thẫn thờ nhìn về hướng Hà Nam, ông thở dài rồi đổi cách hỏi, “Lẽ nào ngươi không nhớ cha mình sao?” Mạc Tông Trạch rất kính trọng Liêu Kiếm Phàm, nên khi A Kiệt tiếp bước cha, ông đã chú ý bồi dưỡng chỉ bảo để gã trở thành người hữu dụng. Sau một năm trời, Mạc Tông Trạch nhận ra A Kiệt có tài năng, xứng đáng nối nghiệp nhà. Ông cũng biết gã mồ côi mẹ từ sớm, hai cha con sống với nhau, tình cảm hết sức sâu nặng.
A Kiệt đáp, “Cha tiểu nhân thường bảo, làm bổ khoái thì chưa biết chừng sẽ có ngày không thể về nhà hoặc thê thảm hơn nữa là nằm thẳng cẳng mà về nhà! Người thân luôn sẵn sàng nghe tin dữ!”
Điều này thì Mạc Tông Trạch rất thấm thía, ông nhớ đến A Uyển nằm trong vũng máu, nhớ đến ngón tay bị cắt lìa, chất độc ở cái nhẫn ngọc đen chưa kịp phóng ra để tiêu diệt hung thủ, tất cả biến thành nỗi đắng cay vĩnh viễn trong đời. Những người thân của bổ khoái, có khi kết thúc còn buồn thảm hơn chính họ.
“Mình ta đi Hà Nam là đủ. Bớt một người đi cũng là bớt một con ngựa phải mệt nhọc. Mặt khác, ta muốn ngươi ở lại Giang Kinh để điều tra một manh mối quan trọng.” Mạc Tông Trạch nói.
“Về ngôi nhà tranh và khách trọ đã bỏ đi phải không ạ?” A Kiệt hỏi.
Mạc Tông Trạch hài lòng gật đầu, “Đúng thế. Ngươi hãy tìm chủ nhà, đưa tranh vẽ các nạn nhân ra để người ấy nhận diện xem sao. Sau đó ngươi lục soát kỹ ngôi nhà... họ đi xe ngựa đến, rồi ở đó một đêm, tung tích người còn lại thế nào?”
A Kiệt mừng rỡ, “Đa tạ bổ đầu đã tin tưởng. Tiểu nhân nhất định tra xét thật kỹ.”
Mạc Tông Trạch mỉm cười, “Ngươi vào nghề một năm chỉ toàn làm các việc vặt, chắc băn khoăn vì chưa có dịp thể hiện tài năng chí khí? Nhưng những ngày qua liên tiếp xảy ra án mạng, vụ án hồ Chiêu Dương có nhiều dấu hiệu liên quan đến giới võ lâm giang hồ. Ngươi phải hết sức thận trọng mới được!” Mạc Tông Trạch nói xong, vung roi quất ngựa phóng đi như bay.
A Kiệt trở về nha môn Giang Kinh, thu thập các bức họa chân dung người chết. Số chân dung này được vẽ xong cách đây hai hôm, cũng đã trình báo bộ Hình, Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ. Để phòng hờ, A Kiệt cầm thêm một xấp hình thủy tặc và phản tặc đang bị truy nã. Sau đó, gã đến gian nhà tranh bỏ hoang mà sai dịch thu gom ngựa của Thanh Giang Uyển đã miêu tả.
Trong nhà đã bị bới tung và lục soát, hết sức bừa bộn. Bàn ghế ngả nghiêng, chăn đệm bị rạch nát bươm, cho thấy có người đã ráo riết lùng tìm thứ gì đó ở đây.
Nắng xế chiều rọi vào, A Kiệt thoáng nhìn thấy trên mặt đất có vệt sáng. Thị lực tinh tường nhờ luyện bắt cốt tiêu nhiều năm giờ được dịp phát huy. Gã nhặt lên xem, thấy một hạt ngọc nhỏ xíu gắn khoen bạc. Chắc là mặt dây chuyền hoặc trang sức cài áo. À, có một nữ khách! A Kiệt lấy mảnh lụa trắng cẩn thận gói hạt ngọc lại. Rồi gã tiếp tục kiểm tra các nơi khác nhưng không thu hoạch được gì thêm.
Dựa vào miêu tả của sai dịch gom ngựa, A Kiệt phóng đi chừng một dặm, tìm được chủ nhà là một nông dân gia cảnh sung túc. Biết A Kiệt là bổ khoái của nha môn, ông ta tạm ngừng công việc đang làm để xem các bức chân dung. Tuy nhiên, ông ta đều lắc đầu.
A Kiệt đưa ra bức họa Phượng Trung Long.
Từ lâu, Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ đã gửi hình Phượng Trung Long cùng đám thủy tặc cường đạo khét tiếng xuống dán ở các nha môn. Họ còn vẽ lại rồi dán ở tường thành cho dân chúng biết mà cảnh giác.
Chủ nhà nhìn khuôn mặt khôi ngô của Phượng Trung Long với thanh loan đao ở bên, rồi lại lắc đầu.
A Kiệt hơi thất vọng, chuẩn bị cáo từ. Chủ nhà băn khoăn vì không giúp được gì, sốt sắng hỏi, “Tay bổ khoái còn cầm một xấp hình nữa, để tôi xem thêm được không?”
“Mấy tấm hình này...” Đúng là A Kiệt còn cầm mấy tấm hình nữa nhưng không liên quan gì đến đám người chết trong những ngày gần đây, chỉ là tranh vẽ mấy tên thủy tặc ngang ngửa Phượng Trung Long, Đông Xưởng mới gửi về để các bổ khoái nắm được và tiện truy bắt.
Chủ nhà lại lần lượt xem, rồi cũng lắc đầu.
Mãi đến một tấm hình, ông ta mới nhìn chằm chằm, rồi ngẩng đầu, “Là hắn! Đúng là hắn!”
A Kiệt ngạc nhiên đỡ lấy.
Bức họa vẽ khuôn mặt tên cường đạo, và còn vẽ thêm binh khí thường dùng, góc phải ghi chú mã số của hắn.
Vân Lăng.
Mạc Tông Trạch đi cả ngày lẫn đêm, tuy đang gấp gáp nhưng ông vẫn nhận ra dọc đường có cơ man nào là người lang thang đói rách. Thì ra bên ngoài Giang Kinh trù phú và có vẻ yên bình, dân chúng khốn khổ nhường này đây.
Hai ngày sau, vào lúc hoàng hôn, Mạc Tông Trạch đến quân doanh Biện Trung. Lúc này năm sáu ngàn tướng sĩ vừa luyện tập xong.
Cổng doanh trại được canh gác và kiểm tra ngặt nghèo. Mạc Tông Trạch đưa ra tờ công văn tự viết, nói là đang cần điều tra vụ án, muốn gặp Tôn Bá Hùng, hoặc một ai đó biết Tôn Bá Hùng đang ở đâu. Đội trưởng lính canh bảo Mạc Tông Trạch đứng chờ, còn mình thì quay vào doanh trại hỏi, lát sau trở ra, dẫn Mạc Tông Trạch tới trướng của chủ soái.
Bên ngoài trướng có một tướng quân cao lớn đang cởi giáp mũ, một chậu nước rửa tay đặt trên bậc thềm. Tướng quân cầm khăn mặt định rửa thì thấy Mạc Tông Trạch bước lại, liền hỏi luôn, “Ông là bổ khoái? Bắt được Bá Hùng của bọn ta à?”
Lúc đi vào Mạc Tông Trạch đã được cho biết người gặp ông là phó tướng Vạn Đại Tống, thượng cấp của Tôn Bá Hùng. Ông ta và Tôn Bá Hùng đều là đệ tử Thích gia thương, quan hệ rất thân thiết. Cách đây một tháng, Tôn Bá Hùng bỗng đi đâu mất, đương nhiên mắc tội tự tiện bỏ doanh trại, Vạn Đại Tống tạm giữ kín chuyện này, chờ Tôn Bá Hùng trở về thì coi như vẫn ổn cả.
Mạc Tông Trạch chào Vạn Đại Tống, ngẫm nghĩ rồi quyết định nói ra sự thật, “Có lẽ phải khiến Vạn tướng quân phiền lòng rồi. Mấy hôm trước, ở địa bàn bỉ chức quản lý đã xuất hiện mấy thi thể của các nhân sĩ võ lâm, chết rất thảm. Một trong số đó chắc là Tôn Bá Hùng.” Rồi Mạc Tông Trạch miêu tả tỉ mỉ diện mạo, hình thể, kể cả vết sẹo trên má phải, đoản thương Thích gia mà nạn nhân dùng khi còn sống, các dấu hiệu vật lộn...
Vạn Đại Tống nghe xong, hất đổ cả chậu nước rửa mặt, cau mày nghiên răng, những sợi râu rung lên phẫn nộ, “Ta biết ngay mà! Hắn lẳng lặng đi khỏi doanh trại, rõ là chẳng hay ho gì. Bá Hùng vẫn mong được tử chiến sa trường, nào ngờ lại bỏ mạng kiểu này... đều tại ta cả...” Ông ta ngồi xuống thềm đá ôm đầu nuốt nghẹn, nhưng là hảo hán can trường, chỉ thoáng chốc, ông ta đã ngẩng đầu lên, hai mắt đỏ ké nhìn Mạc Tông Trạch, “Phải đưa thi thể về, ta phải tổ chức quân táng long trọng cho hắn!”
“Chia buồn cùng Vạn tướng quân. Bỉ chức đến đây hơi vội, nha môn thì ít nhân lực, e rằng khó mà chuyển xác Tôn Bá Hùng tới được... Nếu Vạn tướng quân giúp bỉ chức điều tra ra hung thủ, thì đó sẽ là niềm an ủi lớn nhất đối với vong linh Tôn tướng quân.” Mạc Tông Trạch dịu giọng khuyên nhủ.
Vạn Đại Tống im lặng một lúc, rồi đứng lên, “Theo ta vào trong đã.” Rồi ông dẫn khách đi vào một lều nhỏ bên phải trướng soái, ra hiệu cho cận vệ lui ra ngoài.
Cả hai ngồi xuống, Vạn Đại Tống thở dài, “Bá Hùng và ta vừa là đồng hương vừa là đồng môn. Hai bên thân thiết như huynh đệ, nên Bá Hùng chỉ hơi có gì lạ là ta biết ngay.” Ông ta do dự một lát, “Bá Hùng tự tiện rời quân doanh, trước đó đã có chút dấu hiệu, tiếc rằng ta...” Ông lại thở dài.
“Thế ư?” Mạc Tông Trạch nhận ra nét khổ sở trong đôi mắt viên phó tướng.
Vạn Đại Tống vò mái tóc rối bù, nghĩ ngợi. “Thoạt đầu hắn nói là xin nghỉ phép, ta đáp là không được, vì Trương Hiến Trung lại dựng cờ làm phản, Sấm tặc đã trốn khỏi núi Thương Lạc ra chiêu binh mãi mã, chúng ta đang chờ lệnh triều đình để đi diệt phỉ diệt giặc. Nhưng hắn không nghe, còn nói chuyến đi này cực kỳ quan trọng, mất ấn tướng cũng chẳng sao.” Vạn Đại Tống bỗng đổi sắc mặt, “Câu trả lời của hắn rất lạ. Hắn nói, tướng quèn như huynh đệ ta có là gì? Mai kia, nếu ta có tiền đồ gấm hoa, giàu sang phú quý, ngươi có dám mắng nhiếc ta nữa không?”
Tiền đồ gấm hoa, giàu sang phú quý? Là kho báu Bá Nhan, linh kỳ đại hãn? Tôn Bá Hùng đang ở quân doanh Trung nguyên, tại sao lại có ý định đi tìm kho báu và linh kỳ? Linh kỳ cất dưới đáy hồ Chiêu Dương, ít người trên giang hồ biết tin, ngay Mạc Tông Trạch là bổ đầu ở Giang Kinh cũng mới nghe Vô Kê nói cách đây vài ngày, thực hư ra sao chưa rõ. Cứ như Vạn Đại Tông nói thì Tôn Bá Hùng chỉ là một võ tướng chân chất chứ không phải người quảng giao, tại sao ông ta biết chuyện kho báu Bá Nhan?
Mạc Tông Trạch hỏi, “Trước khi đi, Tôn Bá Hùng có dấu hiệu gì khác thường?”
Vạn Đại Tống cau mày nghĩ một hồi, bỗng vỗ đùi nói, “Đúng rồi! Mau đi tìm cái tên trẻ tuổi đẹp mã ấy, chắc chắn hắn có qua lại với Bá Hùng.”
“Tướng quân nói rõ hơn được không?”
Vạn Đại Tống nói, “Bá Hùng gần như là một võ tướng thuần túy, chỉ mê luyện thương pháp... trong khi một số võ tướng khác thì ham mê tửu sắc, cứ cách vài ngày lại rủ nhau đi phủ Khai Phong chơi bời. Miễn là họ đừng quá đà, không trễ nải việc thao luyện, ta cũng lờ đi cho.
“Bá Hùng thì hầu như không, nhưng tối hôm đó... cách đây hai tháng, ta đang uống rượu trong thành thì gặp hai sai dịch ở phủ Khai Phong, một kẻ hỏi, ‘Sao các vị lại uống ở đây? Tôn tướng quân đang uống ở Đại Tướng Môn! Các vị có xích mích với nhau à?’ Đại Tướng Môn là quán rượu trong phủ.
“Ít người biết ông nội Bá Hùng là người có tài lặn nổi bật trong thủy quân của danh tướng Thích Kế Quang. Đó là tài nghệ truyền đời. Còn bản thân Bá Hùng, là người lặn giỏi nhất mà ta từng gặp.”