← Quay lại trang sách

Chương 14 Miếu Quỷ

Trên đường về Giang Kinh, Mạc Tông Trạch bươn bả phi hành, thay đến ba con ngựa, vội hơn cả chiều đi.

Đến nha môn thì cả người lẫn ngựa hầu như kiệt sức. Lúc này đã gần nửa đêm, sai dịch trực đêm bưng cho ông đĩa bánh bao và một bình rượu Nhất giang thu. Trước đây, bữa ăn khuya còn có thịt bò, nhưng mấy năm gần đây tình hình khó khăn dần, chiến sự không ngớt, nha môn cũng trở nên tằn tiện.

Mạc Tông Trạch cắn mẩu bánh, cầm bình rượu đưa lên miệng rồi thở dài, lại đặt xuống, gọi tên sai dịch trực đêm, “Ra phố Dao Trì kêu Liêu Nhất Kiệt về đây mau!”

Tên sai dịch đáp “Vâng”, đúng lúc có tiếng vó ngựa vang lên ở cổng nha môn, chỉ chốc lát đã nghe tiếng A Kiệt inh ỏi, “Đại nhân đã về! Đại nhân đoán người đó... người thuê nhà là ai? Chắc không đoán được đâu.”

Mạc Tông Trạch chờ gã ló hẳn mặt vào mới nhẩn nha nói, “Vân Lăng chứ gì?”

A Kiệt ngạc nhiên, “Sao... sao đại nhân biết?”

Mạc Tông Trạch cười trừ, “Kể ra thì dài. Còn ngươi, làm sao biết ta về?”

“Tiểu nhân có dặn đội trưởng canh cổng, thấy đại nhân vào thành thì sai người đến báo cho tiểu nhân biết. Biết một cái là quay về ngay.”

Mạc Tông Trạch tống nốt mẩu bánh vào miệng, “Ngươi về đúng lúc lắm. Lên ngựa, chúng ta xuất phát luôn.”

“Đi đâu ạ?”

“Ra khu nhà tranh ở bờ hồ. Ta muốn xem xét lại.”

Dọc đường, A Kiệt kể lại chuyện hai hôm trước đến đó điều tra không có thu hoạch gì, nhưng khi cho chủ nhà xem hình vẽ các tên tội phạm thì ông ta nhận ra Vân Lăng. Mạc Tông Trạch kể lại tin tức thu lượm được ở quân doanh Biện Trung. Hai người đều trầm ngâm, Vân Lăng khét tiếng giang hồ dính vào vụ án này, ắt phải có đồng bọn chứ không thể hành động một mình. A Kiệt kể lại việc tối qua Vân Lăng đột nhập nha môn rồi bắt lão Khâu đưa đi, còn nói đồng bọn của Vân Lăng giống Sở Ca trên lệnh truy nã.

“Tiếc rằng võ công của tiểu nhân non kém, đành để chúng chạy thoát.” A Kiệt nói.

Mạc Tông Trạch ngẫm nghĩ lại những tình tiết mới mà A Kiệt vừa kể. Từ việc thuê ngôi nhà tranh bên sông, làm quen với cao thủ bơi lặn ở quân doanh Biện Trung, dấu vết trên các xác chết ở hồ Chiêu Dương, đến bắt cóc lão Khâu, tại sao chỗ nào cũng có bàn tay Vân Lăng?

Hai thầy trò đi ra bờ sông, nơi có mấy ngôi nhà tranh rải rác, A Kiệt dẫn Mạc Tông Trạch đến ngôi nhà ở đầu phía Tây, “Đây ạ!” Rồi gã xách đèn vào trước.

Mạc Tông Trạch theo sau, trước khi bước vào, ông ngoái lại nhìn quanh. Trên hồ có gió mạnh, khá lạnh. Rồi ông giật mình. Dưới ánh trăng tà, trên mặt hồ có một con thuyền, thấp thoáng một bóng người mặc áo tơi ngồi câu cá!

“A Kiệt! Ra đây mà xem!”

A Kiệt lại quay ra, nhìn theo hướng tay Mạc Tông Trạch đang chỉ, gã dựng tóc gáy, “Ô! Chuyện này là có thật!”

Dân Giang Kinh đều biết sự tích người mặc áo tơi ngồi thuyền câu trên hồ Chiêu Dương, không câu cá mà câu tính mạng! “Xem ra đêm nay sẽ có người chết!” A Kiệt còn trẻ, cảm giác kinh ngạc qua nhanh, gã cười hề hề, “Sáng mai Khâu đại nhân lại phải ra hồ mà lượm xác!”

Mạc Tông Trạch nghĩ đến hình ảnh dân chúng lũ lượt đi lánh nạn dọc đường tới Hà Nam, nghĩ đến những cuộc chiến đẫm máu ngoài cửa ải, nghĩ đến đám lục lâm đua nhau nổi dậy... Ông thở dài, “Bấy lâu nay chẳng thiếu gì người chết, đâu cần người mặc áo tơi buông cần câu dự báo?”

A Kiệt nói, “Cha tiểu nhân nói rằng, khi thấy người mặc áo tơi ngồi câu cá thì sẽ có người chết bất đắc kỳ tử, có án mạng! Giá mà lúc này có thuyền, tiểu nhân sẽ chèo ra tận nơi để xem hắn là hạng người gì mà dám đi câu tính mạng.” Nhưng A Kiệt ngoảnh sang thì không thấy Mạc bổ đầu đứng nghe mình dông dài nữa, ông đã vào nhà tranh từ lúc nào, gã bèn xách đèn vào theo.

Đúng như A Kiệt tả, bên trong trống trải, chỉ có vài món đồ gỗ rẻ tiền, cái bàn xiêu vẹo sắp đổ, cái giường nghiêng ngả, bên trên có chăn đệm rách bươm, rõ ràng là đã bị ai đó lục soát. Mạc Tông Trạch cúi xuống ngửi. “Có mùi phấn sáp,” ông lẩm bẩm. Là mùi hương hoa hồng. Mạc Tông Trạch từng có thời gian nghiên cứu về các mùi hương để hỗ trợ điều tra vụ án chặt ngón tay. Ông không thể quên mùi bạch lan mà A Uyển thường dùng, hiện giờ mùi hương này vẫn thoang thoảng trong nhà ông, trong ký ức ông.

A Kiệt cũng bước lại ngửi thử, “Bổ đầu có khứu giác siêu phàm, tiểu nhân không ngửi thấy gì cả.” Rồi gã chợt nhớ ra một chuyện, “Lú lẫn suýt quên, hôm nọ đến đây kiểm tra, không hẳn là không có thu hoạch gì. Tiểu nhân nhặt được một hạt ngọc châu đính vào cái vòng bạc bé xíu. Là đồ trang sức đánh rơi.”

Mạc Tông Trạch nói, “Tức là, có một nam một nữ ở đây.”

“Vân Lăng và một phụ nữ.” A Kiệt trầm ngâm, “Xem ra, Cẩm Y Vệ bao vây chỗ này nhằm bắt Vân Lăng.”

“Hoặc bắt người phụ nữ đó.” Mạc Tông Trạch nghĩ ngợi, “Nhưng có điều ta không hiểu, Vô Kê đạo trưởng đã biết Phượng Trung Long đến Giang Kinh, sao lão không biết Vân Lăng cũng đến, và còn đưa theo cả gia quyến trên xe ngựa nữa?”

A Kiệt nói, “Đúng thế! Mấy hôm trước tiểu nhân nghe ngóng khắp nơi, có vài người nói đã nhìn thấy một cỗ xe ngựa, người đánh xe là một nam nhân khôi ngô, lại có người nói là nhìn thấy Vô Kê đạo trưởng bắt chuyện với nam nhân đó ở cầu Lưu Ly! Vô Kê nhận ra Phượng Trung Long, tại sao lại không nhận ra Vân Lăng nổi danh giang hồ? Vô Kê là con người như thế nào?”

“Đêm nay ta phải tìm hiểu cho rõ!” Mạc Tông Trạch quay người bước ra ngoài. Ông lại nhìn mặt hồ dưới ánh trăng mờ nhạt, con thuyền lúc nãy đã không thấy đâu nữa.

“Quái dị!” A Kiệt lẩm bẩm đằng sau.

Kể từ lần được Vô Kê đạo trưởng cứu thoát khỏi đám thích khách Đông Xưởng, Mạc Tông Trạch đã tốn không ít công sức tìm hiểu lai lịch lão nhưng không có kết quả. Phố phường xóm ngõ đều quen mặt lão nhưng không biết gì hơn là lão xuất hiện khá thất thường. Có khi vài tháng biệt tăm, nhưng cũng có khi lảng vảng cả năm khắp Giang Kinh. Vô Kê không có nơi ở cố định, lúc ngủ chuồng ngựa quán trọ, khi nằm chỗ khuất gió gầm cầu, lúc lại say mèm gục ngoài cửa son các nhà giàu. Nơi lão dừng chân nhiều nhất là chợ Tước Vĩ, chốn tụ tập của những kẻ lang thang ở Giang Kinh. Chính cái chợ này là nơi A Kiệt nhân lúc bám sát theo dõi Vô Kê, đã nghe lão kể về Đoạn Chỉ Ma, về kết cục thê thảm của Lã Diệp Hàn, về khúc bi ca của Mạc Tông Trạch. Nhưng không chuyện nào đề cập đến cái chết của mẹ gã.

Hai thầy trò lần lượt đến từng căn lều ở chợ Tước Vĩ. Không thấy bóng dáng Vô Kê đạo trưởng trong đám người lang thang nằm ngả ngốn ở đây. Hỏi thăm mãi, rốt cuộc có một lão ăn mày cho biết, “Lúc sẩm tối, trên đường từ cửa Nam về, tôi nhìn thấy lão già điên ấy cưỡi lừa đi theo hướng miếu Quỷ!”

Miếu Quỷ là miếu thổ địa ở Nam thành, từ lâu đã lạnh ngắt khói hương không ai trông nom, chỉ vì từng có người chết ở đó nên ma quỷ hay hiện về, ngay đám ăn mày cũng tránh cho xa.

Mạc Tông Trạch kể với A Kiệt, Vô Kê rồ dại thế chứ thật ra là cao thủ nội công. Đã là cao thủ nội công thì ngày nào cũng phải luyện công dưỡng khí. So với chợ Tước Vĩ hỗn tạp thì miếu Quỷ đúng là nơi thanh tĩnh đệ nhất rồi.

Lính canh đặc cách phá lệ, mở cổng thành cho hai thầy trò đi ra. Cả hai phi một mạch đến miếu Quỷ. Ngôi miếu nằm giữa rừng cây trên đồi Hắc Phong phía Nam thành, dân địa phương gọi khu rừng là Thôn Cáo Hoang, nghe nói có nhiều dã thú như cáo, mang, chó sói.

Bên ngoài miếu yên tĩnh, không dấu chân người, cũng không thấy con lừa của Vô Kê đâu. Hai người buộc ngựa lại. Mạc Tông Trạch đi vào miếu, A Kiệt hơi do dự.

“Sợ ma à?” Mạc Tông Trạch hỏi.

“Ma mị gì!” A Kiệt cố lấy hết can đảm, “Chắc bổ đầu cũng không tin.”

“Ta đã sống hơn bốn mươi năm trời, chưa từng nhìn thấy ma, muốn tin mà được à.” Ông cầm cái đèn bão A Kiệt đưa cho, “Ta đi trước, ngươi theo sát ta.” A Kiệt “Vâng” rồi liếc nhìn hồ Chiêu Dương đằng xa, chỉ thấy tối đen như mực.

Vừa đẩy cửa miếu thổ địa, khí lạnh đã táp thẳng vào mặt, rét như đầu đông. Họ tiến thêm vài bước, một trận gió lại nổi lên, ám khí xé bóng tối phóng lại! Hai người vội khua trường kiếm. A Kiệt cảm thấy mũi kiếm đã phạt trúng một ám khí, liền đưa mắt nhìn kỹ, bỗng bật cười, dưới mặt đất là hai nửa xác dơi chứ không phải ám khí gì cả! Gã làu bàu, “Đêm nay hai chúng ta toàn gây phiền hà cho người khác.”

Mạc Tông Trạch gọi to, “Đạo trưởng!” Âm thanh vang vọng khắp miếu nhưng không có tiếng trả lời.

A Kiệt chợt kêu khẽ, “Bổ đâu!”

Mạc Tông Trạch nhìn theo hướng chi. Không xa chỗ họ có những âm thanh loạt soạt...

Hai thầy trò tung mình nhảy vọt đến gần. Dưới ánh đèn chập chờn là hai bóng đen lùn dài dài. Là chó hoang. Chúng đang cắn xé một người. Máu tanh khé mũi.

Hai thầy trò lại vung kiếm, bấy giờ hai con chó đói mới chịu bỏ chạy. Họ soi đèn lại gần. Người chết là Vô Kê đạo trưởng!

Khi xuất hiện người mặc áo tơi buông cần câu, thì sẽ có người chết thảm!

A Kiệt đến gần nhìn cho rõ, nhưng Mạc Tông Trạch đã ngăn lại, “Đứng yên, đừng làm gì cả!” Rồi ông cúi thấp, giơ đèn soi nền đất xung quanh cái xác. Vô Kê đạo trưởng là cao thủ võ học, không thể bị giết một cách dễ dàng, chắc chắn phải có giao tranh kịch liệt, nếu thế thì sẽ còn dấu vết ở đây...

Mạc Tông Trạch cúi xuống xem xét một lúc rồi thất vọng ngẩng đầu lên. Khu vực này còn sạch sẽ hơn ngoài miếu, mặt đất chỉ có máu tươi chứ không có gì khác, càng không có dấu chân nào. Trong vòng một trượng quanh xác chết, đồ vật duy nhất là cái túi vải mà Vô Kê vẫn đeo, miệng túi đang mở. Hai thầy trò kiểm tra thi thể Vô Kê. Ở cổ có một vết thương tím đen, vật sắc đã cứa đứt họng và động mạch cảnh. Máu chưa ngừng chảy, vẫn đang ri rỉ từng giọt. Vạt áo trước bị máu nhuộm ướt đẫm.

“Lại là Đoạn Chỉ Ma!” A Kiệt kêu lên. Bàn tay phải của Vô Kê đã mất ngón trỏ, vết cắt đỏ lòm.

Mạc Tông Trạch hạ thấp giọng, “Nhìn chân lão ấy đi!”

Xác Vô Kê dựa vào tường, nhưng hai chân vẫn ở thế bán già [*] , tức là trước khi chết lão đang tọa thiền.

(ct): * Ngồi khoanh chân, một bàn chân ngửa lên trên.

A Kiệt nói, “Đạo trưởng đang tọa thiền luyện công thì Đoạn Chỉ Ma hạ độc thủ!”

Vô Kê đạo trưởng có nội công thâm hậu, dù đang tọa thiền thì thính giác vẫn cực nhạy bén, sẽ kịp thời đối phó chứ không thể bó tay chịu chết, tại sao lão lại để đối phương cắt họng dễ dàng như thế? Cái chết na ná như mấy nạn nhân ở ven hồ.

“Đoạn Chỉ Ma à? Đừng nên vội vã kết luận.” Mạc Tông Trạch khẽ nói.

“Tối qua, lúc chưa bị bắt đi, Khâu đại nhân nói rằng hung thủ gây ra mấy vụ đó là Đoạn Chỉ Ma.”

A Kiệt vừa nói vừa kiểm tra cái tay nải vá chằng vá đụp vứt trên mặt đất. Bên trong có hai chiếc áo lót, một đôi giày vải, nửa túi lương khô, một bình rượu nhỏ, mấy lá cao dán, một ống thuốc xoa bóp, và vài thứ lặt vặt không rõ công dụng.

Mạc Tông Trạch nhắc, “Kiểm tra kỹ quần áo xem có gì bất thường không?”

“Vạt áo bê bết máu.” A Kiệt cau mày nhìn kỹ, “Áo quần... xộc xệch? Lão ta gần như là ăn mày, đêm tối vào miếu Quỷ... đâu cần mũ áo chỉnh tề?”

Mạc Tông Trạch lắc đầu, “Không phải thế! Nhìn xem, vạt áo bị kéo hẳn xuống, tức là bị hung thủ xé.”

A Kiệt không hiểu ra sao, “Ý đại nhân là, Đoạn Chỉ Ma... hung thủ định sàm sỡ lão già này?”

“Bậy nào! Đầu óc ngươi suy diễn đi đâu thế? Có kẻ đã khám người lão ta.”

“Để tìm cái gì?”

“Điều này chỉ hung thủ mới trả lời được. Xem kỹ xem, Vô Kê mà có báu vật thì có thể cất giấu ở đâu?”

A Kiệt vắt óc suy nghĩ, không thấy trong hành lý thì tức là trong người... A Kiệt lại nhìn xác lão già ngồi rũ trong vũng máu, hai vạt áo nhàu nhĩ ướt sũng. Gã nhớ lại câu nói vừa rồi của mình, đêm tối vào miếu Quỷ thì đâu cần mũ áo chỉnh tề... chỉnh tề... A Kiệt sực hiếu, liền đưa mũi kiếm hất cái mũ trên đầu Vô Kê xuống.

Một bức vẽ chân dung rơi ra.

A Kiệt nhặt lên, ghé sát đèn nhìn kỹ rồi giật mình kinh ngạc.

Gió lạnh đột ngột thốc tới, chiếc đèn Mạc Tông Trạch đang xách tắt ngấm.

“Là một phụ nữ!” Đèn tắt, A Kiệt vẫn nắm chặt tấm hình, kinh ngạc không hiểu ra sao. Hình vẽ một mỹ nhân quốc sắc thiên hương. Tại sao Vô Kê đạo trưởng lại giữ hình đàn bà?

“Im lặng!” Mạc Tông Trạch biết đèn tắt không phải tại gió lạnh trong miếu Quỷ. Ông nghe thấy tiếng rít của ám khí nên kịp thời giơ đèn ra chặn, nếu không đã mất mạng rồi.

A Kiệt cất tấm hình nhăn nhúm vào ngực rồi căng mắt nhìn. Không thấy gì hết. Nhưng nghe thấy. Trên đầu có tiếng phần phật, chắc là dơi đập cánh bay, mà cũng giống tiếng vạt áo bị gió thổi. Gió bất chợt ngừng hẳn.

Mạc Tông Trạch quát, “Cẩn thận!” Đúng lúc một thứ binh khí xé gió bổ thẳng xuống đầu ông. Mạc Tông Trạch rùn thấp mình xuống, vung kiếm lên đỡ. Lo rằng đối phương không chỉ có một tên, võ công của A Kiệt thì còn non yếu, ông muốn tốc chiến tốc thắng đánh lui kẻ địch, sau đó sẽ quay sang trợ giúp gã. Sức nặng của binh khí bên trên cho thấy đó là côn dài bằng đồng luyện. Và đúng, không chỉ có một tên địch. Vẫn còn may vì chưa nghe thấy tiếng kêu rên của A Kiệt hoặc tiếng người đổ ập xuống đất, chắc gã cũng đang linh hoạt chống đỡ tìm lối thoát. Âu cũng là một lần trải nghiệm gian khổ để trưởng thành.

Mạc Tông Trạch dồn dập tung chiêu như triều lên. Trong đêm tối, những bóng đen chạy qua chạy lại chẳng rõ mấy tên, Mạc Tông Trạch càng đề cao cảnh giác. Ông lại tung ra mấy chiêu nữa, mồ hôi thấm ướt sống lưng. Quan sát thân pháp thì thấy đối thủ đều không phải hạng tầm thường, xử lý hai thầy trò hẳn là không khó, nhưng chúng lại vờn giỡn cả hai bằng một trận pháp lạ lùng. Bao vây mà không giết, tại sao?

Trong bóng tối có tiếng người cất lên, “Lũ giặc cướp này khá đấy, xuất thân Côn Luân hả!” Thanh âm hùng hồn, nói khẽ mà vẫn âm vang, đủ thấy nội công thâm hậu.

A Kiệt lớn tiếng, “Nực cười thật! Bọn ta mới là người đi bắt giặc!”

Người kia lại nói, “Hai ngươi như dã thú cùng đường, thừa hiểu không thể thoát khỏi trận đồ, sao cứ tự làm khó mình mãi thế?”

Mạc Tông Trạch vừa chống trả vừa suy đoán trận pháp của đối phương, binh khí của bọn họ khác nhau, nhưng thân pháp và bộ pháp lại y hệt, cực kỳ nhuần nhuyễn, cứ như con quay vần chuyển không ngừng, khiến người ta liên tưởng đến Thái cực lưỡng nghi đồ của Đạo gia. Ông nhận ra, “Hừ! Phái Võ Đang! Các người là Võ Đang chính đạo, sao lại hành động mờ ám thế này?”

Người kia nói, “Hai ngươi mới là mờ ám! Tại sao lại giết Vô Kê đạo huynh?”

Mạc Tông Trạch lớn tiếng, “Khoan! Để ta nói đã!”

Trong màn đêm vang lên hai tiếng vỗ tay, các bóng đen bủa vây hai thầy trò bỗng dừng cả lại, nhưng vẫn có vài binh khí chĩa vào họ.

A Kiệt kêu lên, “Chúng tôi là bổ khoái phủ Giang Kinh, khi đến thì đạo trưởng đã về trời rồi.”

Mạc Tông Trạch khẽ bảo, “Ngươi đừng vội, cứ để ta!” Rồi ông cất cao giọng, “Vô Kê đạo trưởng đang giúp nha môn phủ Giang Kinh điều tra mấy vụ án mạng, tối nay chúng ta đến đây thì ông ấy đã bị hại rồi. Các vị không tin thì cứ kiểm tra thi thể, nạn nhân chết phải hơn nửa canh giờ là ít. Nếu chúng ta giết người thì dại gì mà nán lại hiện trường lâu như thế?”

Người kia nói, “Đêm khuya các ngươi còn đến tìm người, kỳ quặc thật đấy!”

Mạc Tông Trạch, “Thì các vị cũng thế!”

Đối phương hậm hực nói, “Chúng ta và Vô Kê đạo huynh... là bằng hữu.”

Mạc Tông Trạch nói, “Chúng ta cũng vậy.” Rồi ông hỏi luôn, không để đối phương kịp nổi nóng, “Đạo trưởng đây đạo hiệu là gì?”

Người kia đáp, “Không phải các đệ tử Võ Đang đều thuộc Đạo gia, giống như đệ tử Côn Luân cũng có người đi làm bổ khoái vậy.”

“Nhưng Huyền vũ lưỡng nghi trận không thể truyền cho đệ tử tục gia, trừ phi... trước kia các vị từng tu hành trên núi Võ Đang, nay đã bỏ đạo...” Bỏ đạo, rồi làm gì? Mạc Tông Trạch sực nhớ ra. “Có phải tiên sinh là Nhất thủ già thiên [*] Tô Vong Niên? Đã bỏ đạo...” Ông suýt buột miệng “để làm phỉ”. Chuyện là vài năm trước, cao thủ hàng đầu trong nhóm đệ tử tuổi trung niên của Võ Đang là Tô Vong Niên đã dẫn hơn chục sư huynh, sư đệ và đồ đệ, cởi bỏ áo đạo sĩ, xuống núi gia nhập nghĩa quân nông dân của Sấm vương Cao Nghênh Tường. Sau khi Cao Nghênh Tường bị giết, Lý Tự Thành kế vị, Tô Vong Niên trở thành thuộc tướng tâm phúc của Lý Tự Thành.

(ct): * Bàn tay che cả bầu trời.

Danh tiếng của Tô Vong Niên, đến A Kiệt cũng từng nghe qua. Không cần binh khí, chỉ hai bàn tay không với nội công và chưởng pháp, ông ta vẫn tiêu diệt được vô số kẻ địch. Từ đó, xuất hiện danh hiệu “Nhất thủ già thiên”.

Mạc Tông Trạch lại hiểu ra, “Vô Kê đạo trưởng... cũng là người của Sấm tặ... vương!”

Tô Vong Niên nói, “Bao năm nay đạo huynh luôn là tai mắt của Sấm vương, vân du bốn phương thám sát tình hình quân sự và dân chúng, công cao như núi. Nay chắc bại lộ nên mới bị các ngươi giết!”

A Kiệt không chịu nổi nữa, “Chúng tôi là bổ khoái địa phương, cần cù thật thà và hiền lành, chứ không phải Đông Xưởng hay Cẩm Y Vệ! Các người nhầm to rồi!”

Các đệ tử Võ Đang thắp đuốc lên, khiến miếu Quỷ bớt âm u. Khuôn mặt Tô Vong Niên vẫn khuất trong bóng tối, chỉ lờ mờ nhận thấy vóc dáng cao gầy. Mấy người còn lại ăn mặc theo lối thương nhân, chắc là để dễ bề lọt qua các cửa ải. Tô Vong Niên cúi xuống xem xét thi thể Vô Kê, thở dài tôi quay sang hỏi Mạc Tông Trạch, “Vô Kê đạo huynh ghét cay ghét đẳng quan phủ, chắc sẽ không muốn chạm mặt các ngươi, vừa nãy nói Vô Kê giúp điều tra án mạng, chuyện phi lý như thế ai mà tin nổi?”

Mạc Tông Trạch ôn tồn nói, “Gần đây địa phương này liên tiếp xảy ra án mạng, nạn nhân đều là người trong giới võ lâm, Vô Kê đạo trưởng đã gợi mở cho nha môn khá nhiều điều, ví như những cái chết thảm này có lẽ liên quan đến một kho báu của Bá Nhan thời Nguyên.”

Tô Vong Niên lại nhìn thi thể Vô Kê, rồi hỏi, “Hành lý của ông ấy bị lục lọi, áo quần cũng xộc xệch, các vị đang tìm thứ gì đó quan trọng phải không?”

“Không! Hung thủ lục đấy.” A Kiệt trả lời, “Lúc chúng tôi đến thì tình trạng đã thế này rồi.”

Tô Vong Niên nói, “Không phải tại hạ không tin hai vị, nhưng đường đời gian hiểm, bạn hữu thân tín bị giết, không thể không cảnh giác. Chúng ta muốn soát người, hai vị nên thức thời, chớ manh động làm bừa.”

Hai đệ tử Võ Đang bước lại ghì hai cánh tay Mạc Tông Trạch, một đệ tử khác kiểm tra áo quần tỉ mỉ, tôi nói, “Sạch sẽ!” A Kiệt cũng bị kiểm tra tương tự, kết quả cũng là “sạch sẽ”, không phát hiện ra tấm hình mỹ nhân kia.

Lúc này Tô Vong Niên bước ra khỏi bóng tối, ánh đuốc soi ngay trước mặt hai viên bổ khoái. Mạc Tông Trạch thấy chói mắt. Bên kia ngọn đuốc là một bộ mặt ma quỷ! Vô số lần chinh chiến, tay không giao đấu với đủ loại binh khí đã để lại dấu ấn trên khuôn mặt Tô Vong Niên. Khuôn mặt chằng chịt các loại sẹo ngắn dài. Sẹo do đao kiếm, do bỏng lửa... cộng với thân hình gầy đét như quỷ đói, trông vào mà rùng mình.

“Á...” A Kiệt bỗng kêu lên thất thanh, Mạc Tông Trạch định chống cự nhưng đã muộn, cùng lúc thấy hai huyệt tuyền cơ và cự khuyết tê bại, đôi cánh tay buông thõng không sao nhấc lên được. Hai thầy trò lập tức bị còng tay. A Kiệt vừa định mở miệng chửi mắng thì bị nhét giẻ vào mồm.

Tô Vong Niên nghiêm giọng, “Xin thứ lỗi! Dù hai vị là bổ khoái tử tế nhất thiên hạ thì vẫn đang phục vụ cái triều đình hủ bại này, coi chúng ta là lũ giặc tàn ác bất lương. Hôm nay hành tung bại lộ, chúng ta không thể tha cho các vị trở về tập hợp đề kỵ quan binh đến vây bắt được. Chỉ còn cách xử tử ngay tại chỗ.”

Hai thầy trò lạnh toát sống lưng.

Các đệ tử Võ Đang đẩy họ đến trước điện thờ, trói vào cột đỡ xà của miếu Quỷ. Tô Vong Niên lại nói, “Tuy nhiên, ta tin nhân cách của hai vị, cũng không muốn gươm đao nghĩa quân bị vấy bẩn. Chỗ này hoang vắng hẻo lánh, nếu trước khi hai vị chết đói chết khát có ai chạy tới giải cứu, thì đó là phúc phận của hai vị. Mong sao không bao giờ tái ngộ nữa!”

Nói xong, bọn họ vội vã bỏ đi, miếu Quỷ trở lại tĩnh lặng.

A Kiệt ngoảnh nhìn nhưng không thấy Mạc Tông Trạch, chắc ông bị trói ở cái cột khác. Gã muốn kêu cứu, muốn cùng Mạc Tông Trạch bàn kế thoát thân, nhưng mồm bị giẻ nhét chặt. Gã cố thử kêu, nhưng cổ họng chỉ phát ra mấy tiếng “ặc ặc”.

Từ ngoài miếu vọng vào những tràng rú rít “u... a...” khiến A Kiệt kinh hãi, không rõ là tiếng chó sói hú trăng hay tiếng chim cú rên rỉ. Tiếng rin rít vọng lại lúc gần lúc xa như thiêu đốt lục phủ ngũ tạng, cứ thế kéo dài mãi, A Kiệt tưởng đâu mình sắp chết ngất. Bỗng có mùi tanh tưởi bay đến! Gió táp rát mặt. Gã bắt đầu cựa quậy, miệng ú ớ.

“Dơi đấy!” Tiếng Mạc Tông Trạch, “Vẫn ngậm cái giẻ ư? Sao không nhè ra? Thích mùi thơm của nó à?”

A Kiệt định nói “Nhè kiểu gì đây” nhưng họng tắc tị.

Mạc Tông Trạch ngán ngẩm, “Không nhè nổi à? Thế thì phải trách Liêu Kiếm Phàm dạy dỗ ngươi chưa đến nơi đến chốn rồi. Nghe đây, hít thật sâu, trữ hơi ở giữa trung quản và hạ quản [*] , trữ đủ thì từ từ đẩy hơi lên, đến huyệt tử cung thì dừng lại, sau đó thốc mạnh hơi mà tống cái giẻ ra. Nếu chưa được thì nỗ lực làm lại, chớ hấp tấp.”

(ct): * Trung quản: huyệt nằm giữa đường nối từ ức đến rốn. Hạ quản: huyệt nằm dưới cuống dạ dày.

A Kiệt làm theo, bắt đầu tụ khí trữ hơi đúng trình tự. Thổi lần thứ nhất không được, còn bị nghẹn gần chết. Mạc Tông Trạch tiếp tục chỉ bảo, A Kiệt làm lại lần hai, đến lần thứ ba thì kết quả mỹ mãn.

Mạc Tông Trạch hỏi, “Tấm hình kia, ngươi giấu ở đâu?”

A Kiệt đáp, “Giấu thế nào chúng cũng sẽ tìm thấy, cho nên...” Gã hạ giọng, cứ như bọn Tô Vong Niên vẫn đang đứng quanh đây, “Tiểu nhân đã... nuốt vào bụng rồi.”

“Có kịp đọc chú thích trên tấm hình không?”

“Có ạ. Thế nên mới thấy khó hiểu, thiên kim của một đại học sĩ là Tiết tiểu thư bị đạo tặc bắt cóc...” A Kiệt bỗng nghĩ ra, “Có phải... cô ta ngồi xe ngựa? Vân Lăng đưa đến? Đúng thế rồi! Ngôi nhà bên sông bị lục soát, cũng là để tìm cô ta!”

Mạc Tông Trạch tiếp lời, “Nếu chủ nhà không nói dối, thì đám người ấy trắng tay ra về. Tiết tiểu thư đi đâu? Vô Kê đạo trưởng từng nhìn thấy cỗ xe ngựa và còn bắt chuyện với người ngồi trong xe, lão ta biết người đó là nữ. Sau khi xảy ra án mạng, tại sao lão kể cho ta chuyện linh kỳ đại hãn và việc Phượng Trung Long bị giết mà không hề nhắc đến Vân Lăng và Tiết tiểu thư?”

“Lão ta... cố tình để chúng ta mải truy lùng kho báu Bá Nhan và manh mối về các xác chết, còn mình thì bí mật lần mò tung tích Tiết tiểu thư. Nguyên nhân là vì... linh kỳ đại hãn! Nếu Vân Lăng đúng là kẻ đầu trò đi tìm kho báu, Tiết tiểu thư đi theo Vân Lăng đến Giang Kinh thì họ phải biết vị trí kho báu đang ở đâu, và Vân Lăng đương nhiên không muốn bị ai phát hiện. Cho nên, có khả năng Vân Lăng là hung thủ giết hại Vô Kê đạo trưởng.”

Mạc Tông Trạch trầm ngâm, “Vẫn còn nhiều điểm khó hiểu. Vô Kê đang ngầm điều tra vụ án, tại sao lão lại giữ tấm hình cô gái, tại sao không đồng thời có hình Vân Lăng? Ngay cáo thị của Tiết tiểu thư cũng có tình tiết khó hiểu, có chín tấm hình giống nhau gửi thẳng từ kinh đô đến phủ Giang Kinh và dán ở các nơi trong ngoài thành, rồi cả chín tấm đều bị bóc đi trong cùng một ngày, cho nên các bổ khoái trẻ tuổi như ngươi đang ra ngoài làm việc đều không kịp biết chuyện.”

A Kiệt nghĩ ngợi, cuối cùng đành nói mò, “Chắc là bị Vô Kê bóc đi. Lão ta muốn độc chiếm thông tin về Tiết tiểu thư.”

Mạc Tông Trạch tán đồng, “Không phải là không có lý.”

A Kiệt đờ ra một lúc. “Vậy chúng ta nên làm gì?”

Mạc Tông Trạch chép miệng, “Tiếp tục chờ đợi.”

Suốt một ngày tiếp theo không có ai vào miếu Quỷ, chỉ thấy chó sói chó hoang sủa nhặng lên. A Kiệt vừa đói vừa khát, cuối cùng nhận ra câu nói bừa của Mạc Tông Trạch không ngờ đã thành sự thật. Cách đây một năm, lúc mới làm bổ khoái, A Kiệt đâu có ngờ mình lại phải kết thúc trong tình cảnh này. Rừng rú, miếu Quỷ, những con dơi đen sì, những con sói hung ác... Dù đói mềm người và khát cháy cổ, gã vẫn cảm nhận được trong màn đêm có ít nhất sáu bảy con chó hoang, cáo hoang đang chạy vào miếu.

Hai thầy trò bị trói vào cột miếu thổ địa đã gần hai ngày. Chẳng thấy ai lai vãng, ngoại trừ cái xác Vô Kê nằm ở hậu điện. Cũng không có gì lạ, không ai rỗi hơi mà vào rừng sâu âm u nơi miếu Quỷ đáng ghét này. Bầy dã thú bươi vầy thi thể Vô Kê xong, chưa đã thèm, lại đánh hơi thấy mùi xú uế của hai thầy trò ở đây bèn chạy đến xơi thêm. Chúng dàn thế trận bao vây, cũng may vừa nãy đã tạm ấm bụng nên không tàn bạo tấn công ngay. Tuy nhiên, Mạc Tông Trạch và A Kiệt đều biết, sớm muộn gì lũ súc sinh này cũng đua nhau xông vào. Chờ chết ư? Lẽ nào chỉ chờ chết?

“Phải làm gì đây, bổ đầu?”

Không thấy trả lời. Mạc Tông Trạch đã ngất rồi chăng? Một con chó hoang lượn lờ gần hai người một lúc thì bất thần xông vào viên bổ đâu đang thoi thóp! Một tràng gầm vang rền, chấn động cả cây cột sau lưng, A Kiệt cảm thấy xà nóc của ngôi miếu lâu năm cũng rung chuyển theo, mái ngói tưởng chừng sắp sập. Gã ngoảnh đầu sang bên, trong bóng tối, lờ mờ bóng con chó hoang giật mình kinh sợ phải lùi lại mấy bước.

“Nội lực của bổ đầu thật vô song!” A Kiệt chân thành ngợi ca. Thông thường, hai ngày không ăn không uống thì công lực đã cạn hết rồi.

“Tạm giải vây chốc lát thôi, chứ lũ súc sinh hoàn hồn rồi sẽ không bỏ cuộc đâu!” Giọng Mạc Tông Trạch mệt mỏi, “Định nói gì thì mau nói đi, coi như di nguyện, nếu trời có mắt thì một trong hai chúng ta sẽ trở về.”

A Kiệt giật mình, trối trăng hay sao đây? Lần trước ông ấy bảo chờ đợi, chỉ là phỏng đoán về hiện trạng đen tối, bây giờ, sau một tiếng rống dài, ông ấy đã sẵn sàng cho cái chết rồi ư? Hoặc là, như Liêu Kiếm Phàm đoán, từ khi vợ hiền bị Đoạn Chỉ Ma sát hại, Mạc Tông Trạch đã không còn ham sống nữa.

“Chao ôi, nếu bổ đầu thoát nạn trở về, xin hãy chăm sóc cha già của tiểu nhân. Cha chỉ có đứa con là tiểu nhân, nhiều năm qua hai cha con sống nương tựa vào nhau...”

Lũ chó hoang lại sủa nhặng lên, xem chừng sẽ lao đến bất cứ lúc nào.

“Nếu hôm nay bỏ mạng vì lũ súc sinh này thì đúng là chết không nhắm mắt. Trước khi đi gặp Diêm vương, tiểu nhân muốn hỏi bổ đầu một câu, mẹ tiểu nhân chết như thế nào?”

Mạc Tông Trạch ngạc nhiên, “Liêu Kiếm Phàm không cho ngươi biết à?”

“Cha tiểu nhân và mọi người ở nha môn đều nói sau khi thấy cha bị Đoạn Chỉ Ma đánh trọng thương, tàn phế, mẹ tiểu nhân bị kinh sợ ám ảnh rồi treo cổ tự sát.” A Kiệt nghẹn ngào.

Mạc Tông Trạch nói, “Ta cũng chỉ biết như thế thôi. Lão Khâu đã khám nghiệm thi thể của bà ấy, ta và tri phủ cũng đích thân nhìn thấy vết thương trên cổ phù hợp với trạng thái tự tử.”

“Nhưng... mỗi lần tiểu nhân hỏi thì ánh mắt cha lại vô cùng khổ sở...”

“Nhớ vợ, buồn thương là lẽ thường tình.” Mạc Tông Trạch ngắt lời.

“Nỗi khổ ấy của cha, tiểu nhân không thể nắm bắt, không sao diễn tả nổi. Thậm chí khiến tiểu nhân nghi ngờ rằng có phải mẹ tiểu nhân bị Đoạn Chỉ Ma giết không?” A Kiệt nói ra nỗi ám ảnh đè nặng trong lòng bao năm qua, tự nhiên thấy nhẹ nhõm hơn.

Nhưng câu trả lời của Mạc Tông Trạch lại khiến tim gã thắt lại, “Chắc chắn không phải! Tử thi các nạn nhân của Đoạn Chỉ Ma đều được ngỗ tác khám nghiệm, được các bổ khoái xem xét kiểm tra. Ngươi phải tin ở con mắt của lão Khâu và của ta chứ?

A Kiệt không biết cãi vào đâu nữa, đành hỏi, “Bổ đầu... có gì dặn dò?”

A Kiệt vừa dứt lời thì Mạc Tông Trạch lại gầm lên, rồi ho sù sụ.

Chờ ông tạm ổn, A Kiệt lại hỏi, “Nếu trời thương xót, tiểu nhân sống mà ra khỏi đây... đại nhân có điều gì chưa toại nguyện thì tiểu nhân sẽ cố làm cho bằng được, dù phải xông vào nước sôi lửa bỏng.”

Mạc Tông Trạch khục khục mấy tiếng, không rõ là cười hay ho, giọng ông khàn khàn, “Ta còn điều gì chưa làm xong... chắc ngươi đã biết.”

“Đoạn Chỉ Ma?”

“Phải, còn sống mà về, chắc chắn ngươi sẽ có tiền đồ. Hãy hứa với ta, nếu có cơ hội, hãy kết liễu Đoạn Chỉ Ma.”

Dù đã biết nỗi niềm của bổ đầu từ lâu, nhưng nghe hai chữ “kết liễu”, A Kiệt vẫn thấy dao động. Mạc Tông Trạch miệng nói hung thủ các vụ án mạng gần đây chưa chắc đã là Đoạn Chỉ Ma, nhưng lòng ông hiển nhiên không tin là thế.

Thêm một con chó hoang nữa lao đến Mạc Tông Trạch. Tại sao chúng cứ nhằm vào ông? Hay là tiếng thét của ông chứa đựng mối nguy nào khiến chúng phải cảnh giác, nên cứ tập trung vào ông suốt? Tiếng thét đẩy chúng lùi ra nhưng cũng kích thích chúng nổi dã tính. Vài con khác xông vào Mạc Tông Trạch, ông lại thét lên nhưng lần này sức đã yếu đi rõ rệt. Bầy chó không lùi lại nữa, Mạc Tông Trạch đau đớn rên rỉ, hẳn là đã bị cắn trọng thương.

A Kiệt bất chợt rú lên, gã cũng bị chó táp vào bắp chân, những cái răng nhọn hoắt của con chó dữ nghiến chặt. A Kiệt vội co chân lên đá nhưng bị sợi xích sắt đáng ghét giữ lại. Con chó cảm nhận được ý định của con mồi, lại càng nghiến mạnh răng. Khi nhả ra, nó rứt theo một miếng thịt. Cơn đau kinh khủng lan khắp người A Kiệt. Không còn sức để hét lên nữa, gã đau đớn gần như chết ngất. Có lẽ chết ngất cũng tốt, lúc bọn súc sinh này chia nhau xẻ thịt, mình sẽ không biết đau là gì.

Nhưng con chó dữ không tiếp tục xông vào, nó chỉ kêu ăng ẳng vài tiếng rồi lăn đùng xuống đất. A Kiệt cố mở mắt ra, và lờ mờ nhìn thấy một bóng người! Miếu Quỷ mau chóng khôi phục yên tĩnh, đàn chó hoang theo nhau nằm ngả ra đất, không nhúc nhích nữa. Bóng người nọ một tay cầm trường kiếm, tay kia nhanh nhẹn điểm các huyệt trên người hai bổ khoái để cầm máu. Sau đó người ấy tra kiếm vào vỏ, đốt đuốc, xem xét thương tích từng người một.

Nhìn vết thương ở chân Mạc Tông Trạch, người ấy hít sâu một hơi, lắc đầu, “Ta đến hơi muộn. Ông cố bảo vệ tiểu bổ khoái phải không? Nên mới hét lên để lũ chó hoang nhằm vào mình?” Giọng nói khàn khàn, là một ông già với mái tóc hoa râm. Bên chân là một con chó.

Mạc Tông Trạch không trả lời. A Kiệt bị đớp một miếng mà đau đến suýt ngất, còn bổ đầu bị chúng đớp biết bao nhiêu lần, chắc đã ngất đi từ lâu.

Người kia bắt đầu tháo xích cho hai bổ khoái. Tháo xong, ông ta đỡ họ ngồi xuống chân bức tượng thổ địa. Con chó vẫn lặng lẽ đứng đó. À, đây là chó nuôi. Ông già đưa cho A Kiệt một gói thuốc cao, hỏi, “Ngươi còn sức để tự đắp thuốc cầm máu chứ?”

A Kiệt chỉ đủ sức ậm ừ gật đầu. Ông già bước đi, lát sau quay lại, ném xuống đất một cái tay nải, là của Vô Kê đạo trưởng. “Hai ngươi làm mất mặt nha môn quá, lục tìm vật dụng không đến nơi.” Giọng ông ta lạnh lùng.

A Kiệt hỏi, “Ý ông là gì? Dù chưa làm đến nơi... nhưng chỉ là mình tôi lục tìm, chứ bổ đầu...”

“Ngươi vẫn còn lương tâm đấy!” Ông già cười nhạt, “Ta tìm thấy thứ này trong tay nải của lão ăn mày, ngươi đã bỏ sót thứ gì biết không?”

Dưới ánh đuốc, A Kiệt nhìn thấy trong lòng bàn tay ông già một viên tròn tròn đen nhánh. A Kiệt ngẩn người.

Mạc Tông Trạch chật vật đưa tay cầm lên, vân vê, “Là huyền thiết châu!” Giọng yếu ớt nhưng vẫn toát rõ sự kinh ngạc.

Ba chữ “huyền thiết châu” khiến A Kiệt tỉnh hẳn ra. Người nha môn hầu như ai cũng biết, Vân Lăng sau khi giết người có khi để lại huyền thiết châu làm dấu hiệu!

“Vân Lăng là hung thủ! Hắn chính là Đoạn Chỉ Ma!”

Ông già nói, “Chưa chắc. Mạc bổ đầu nên chú ý chỉ dạy thêm cho tiểu tử này.” Mạc Tông Trạch chỉ khẽ ừ hữ. Ông già nói tiếp, “Ta có lời khuyên, hai vị hãy tránh xa những chuyện thị phi quanh hồ nước, kẻo ta lại phải nhọc công dọn xác các người.” Rồi ném lại một cái bọc, thoáng cái biến vào màn đêm.

A Kiệt bắt đầu bôi thuốc vào vết thương cho Mạc Tông Trạch, lúc này mới biết hai chân ông bị chó cắn nát bươm, máu thịt bầy nhầy. Hai tay A Kiệt run run.

Mạc Tông Trạch khẽ nói, “Nhìn thì sợ đấy, nhưng chỉ là vết thương phần mềm thôi.”

Đêm đã khuya, A Kiệt đắp gần hết thuốc cho Mạc Tông Trạch, sau đó mới đắp cho mình. Xong xuôi lần sờ cái bọc, thấy bên trong có bánh nướng và túi nước, hai người chia nhau ăn, rồi lơ mơ ngủ.

Chẳng rõ ngủ mất bao lâu, cả hai bỗng thức giấc vì những âm thanh sột soạt từ ngoài miếu vọng vào. A Kiệt đâm lo, chỉ sợ dã thú quay lại thì sức nào mà chống trả?

“Mạc bổ đầu! Liêu bổ khoái! Hai người đang ở đâu?” Giọng rất quen. Có lẽ vì hai ngày đói khát, thần trí rối loạn nên A Kiệt nghĩ mãi mới nhận ra giọng A Đại, là người bạn thân ở nha môn! Gã nhìn ra ngoài miếu, thấy trời đã tờ mờ sáng. “Ở đây! Chúng ta ở trong này!” A Kiệt lớn tiếng.

Tiếng bước chân gấp gáp chạy vào, ba bóng người với hai ngọn đèn hiện ra ở cửa miếu Quỷ. Đào Đại chạy ào đến nơi. Tiếp theo là một sai dịch đứng tuổi tên Đàm Kính Đức, y bước đến đỡ Mạc Tông Trạch, “Bổ đầu... bị thương nặng quá!”

Đào Đại nói, “A Kiệt cũng bị thương!” Rồi nhìn mấy các xác chó hoang, “Là do bọn này ư?”

A Kiệt đáp, “Ừ. Mà sao mọi người biết đường đến đây... à, sao không đến sớm hơn?”

Đàm Kính Đức nói, “Chúng ta đâu biết hai người bị trói trong này? Canh năm sáng nay bị một lão ăn mày đến nhà đánh thức, nói là hai người đang ở miếu Quỷ, mau lên cứu về. Ta bèn gọi Đào đệ và Cận huynh cùng phi ngựa đến.”

A Kiệt và Mạc Tông Trạch nhìn nhau, hiểu rằng “lão ăn mày” chính là ân nhân đã cứu mình, hoặc là một tín sứ mà ân nhân tìm ở chợ Tước Vĩ và cử đến báo tin. Chứng tỏ nhân vật này thông thuộc Giang Kinh, chỗ ở của một bổ khoái bình thường cũng dễ dàng tìm ra.

Đào Đại nói, “À, đại nhân...” Nhưng lại im bặt, vì bị Đàm Kính Đức huých tay.

Mạc Tông Trạch nhận ra sự bất an của các thuộc hạ, bèn nói, “Ta đã nghỉ ngơi hai canh giờ rồi, chỉ bị thương nhẹ, vẫn tỉnh táo, các ngươi định nói gì thì cứ nói đi!”

Ba bổ khoái nhìn nhau, cuối cùng, Cận Xương Vũ nói, “Lại có án mạng!”

A Kiệt gượng cười, “Đệ cứ tưởng là chuyện kỳ quái kiểu ai đó nuôi con bò năm chân! Mấy hôm nay thiếu gì án mạng? Nếu các huynh đến muộn chút nữa thì ở đây lại có hai xác chết đấy!”

“Không! Mà là...” Đào Đại kêu lên, nhưng bị Đàm Kính Đức véo cho một cái, y nói, “Đại nhân nên đến tận nơi xem xét.”

Thi thể Tiểu Hồi Hương không còn là thi thể nữa, mà là một bãi thịt nát bấy, nằm bẹt trên giường trong ngôi nhà ven sông. Lúc này dù đã chớm đông, se se lạnh, nhưng mùi tanh tưởi đã thu hút cả đàn ruồi nhặng bay đến.

“Từ lâu, Tiểu Hồi Hương đã không phải người của Ánh Xuân Uyển nữa, gọi là tiếp khách, kỳ thực chỉ là gặp gỡ các cố nhân để hàn huyên tình cũ, nhân đó kiếm chút bạc tiêu vặt. Cách ít hôm lại rời Ánh Xuân Uyển về ngôi nhà ven sông nghỉ ngơi một hai hôm. Nhưng lần này đi biệt năm ngày không thấy trở lại, Triệu ma ma lo lắng, bèn sai người đến đây tìm... thì... là thế này đây.” Cận Xương Vũ khẽ nói, rồi dè dặt nhìn Mạc Tông Trạch. Không ai rõ sắc mặt của A Kiệt vì gã đang cắm mặt xuống đất, những mẩu bánh nướng nhộn nhạo trong bụng đang đòi trào ngược.

Mạc Tông Trạch chống gậy lê bước đến bên giường. Xác Tiểu Hồi Hương không mảnh vải, khuôn mặt diễm lệ lúc này xanh xám, cơ thịt vặn vẹo xẹp hẳn xuống, gần như không thể nhận diện. “Trước khi chết đã bị làm nhục?” Giọng ông khàn khàn.

“Bấm đại nhân, không thể xác định. Toàn thân đầy vết sắc nhọn do đao kiếm chém rạch nát bươm, nửa người phía dưới cũng vậy. Chắc chỉ có Khâu đại nhân mới khám nghiệm được để đưa ra kết luận.” Cận Xương Vũ nói.

“Nhưng không thấy lão Khâu đâu.” Đào Đại tiếp lời.

Cảm nhận được ánh mắt lưỡng lự của thuộc hạ, Mạc Tông Trạch bỗng hiểu ra, lòng ông trĩu nặng, ông cúi đầu, khung cảnh trước mắt bỗng quay cuồng. Tay phải của Tiểu Hồi Hương thiếu một ngón trỏ. Lúc mới nhìn thấy xác các nhân sĩ võ lâm bị chặt mất ngón trỏ, ông thầm lắc đâu, không phải Đoạn Chỉ Ma, vì y chỉ giết phụ nữ. Còn lúc này, trước mặt ông, chính xác là tác phẩm của Đoạn Chỉ Ma! Cách đây mấy canh giờ, khi ông quát lớn xua đuổi lũ chó hoang rồi bị chúng đớp vào chân, ông hiểu rằng mình đang chơi vơi bước vào âm giới. Sau đó lại được cứu sống một cách thần kỳ. Nhưng đến giờ ông mới biết cái gọi là “được cứu sống” chẳng qua chỉ là sự hành hạ kéo dài trước khi đến với cái chết. Trong cuộc quyết đấu mới, ông đứng không vững nữa, ông sắp ngã gục đến nơi rồi.