← Quay lại trang sách

Chương 16 Phiêu lưu

Lâm Hưởng làm việc trong Đông Xưởng, nhưng không thích ứng nổi với thứ mùi đặc trưng của địa lao nơi đây. Mùi chết chóc, mùi hôi hám, mùi đồ ăn thiu thối, mùi vết thương nhiễm trùng đã quá đủ để ngạt thở, nhưng khó chịu nhất vẫn là bầu không khí tuyệt vọng.

Người bị tống vào địa lao Đông Xưởng sống sót trở ra chỉ đếm trên đầu ngón tay. Rất ít hi vọng cướp ngục đánh tháo. Canh gác địa lao là cao thủ được tuyển chọn kỹ lưỡng, võ công trí tuệ kiêm toàn. Trong địa lao có lớp lớp cơ quan, cao thủ đột nhập dù giết sạch lính canh cũng chưa chắc đã thoát ra toàn vẹn.

Mấy hôm nay địa lao bỗng nhốt thêm mấy chục thuộc hạ của Lý Sấm, kết cục chỉ càng làm không khí ẩm mốc thêm nặng mùi. Địa lao có hai tầng, lính canh thường nói đùa, địa ngục đâu cần mười tám tầng? Chỉ hai tầng là đủ! Tầng dưới, tức tầng gần địa ngục hơn, là một gian có bốn bức tường trơn treo tấm biển “Trung nghĩa hội thẩm đường”. Đây là nơi Đông Xưởng hỏi cung với các kiểu tra tấn tàn độc, cũng là nơi gần gũi với sự thật hơn cả.

Lâm Hưởng đứng ngoài chờ hồi lâu, Nam công công mới đến. Hôm qua vừa gặp mặt, hôm nay đã thấy ông ta già đi cả chục tuổi, cặp lông mày xám bạc hơi cụp xuống, mi mắt tựa hồ sắp khép lại, nhìn thấy Lâm Hưởng, ông mới hơi hé mắt. Lâm Hưởng đỡ ông ta ngồi xuống chiếc ghế kê ở hành lang.

“Tặc tử ngoan cố, quyết không cung khai.” Giọng Nam công công khàn khàn.

“Cho nên công công dùng Trừu tân đại pháp [*] ?”

(ct): * Rút củi (khỏi đáy nồi). Nghĩa bóng là rút hết sinh lực.

“Chưa biết trừu được ai không, mình đã giảm thọ trước!” Nam công công cười nhạt.

Trừu tân đại pháp của Đông Xưởng là một phương thức tra tấn đỉnh cao, thường bị nói đùa là “trừu tâm đại pháp”. Khi bị tra tấn, đa số tù nhân đều phải cung khai, đồng thời cũng biến thành phế nhân. Vì “tâm” đã bị rút bỏ rồi.

Vận dụng Trừu tân đại pháp đòi hỏi nội công cực kỳ thâm hậu. Kẻ bị hành hạ dù kiên gan thì vẫn không chống đỡ nổi đòn tấn công bằng nội lực. Tâm và lực không trụ nổi, nửa tỉnh nửa mê, rốt cuộc khai ra mọi chuyện bí mật, sau đó não bộ và tâm trí trống rỗng, biến thành phế nhân. Lúc đó lôi ra Tây Thị chém đầu hay đưa ra đồng hoang chôn sống, nói là phóng sinh thì thích đáng hơn là xử tử.

Nhìn bốn bề không có ai, Lâm Hưởng nói, “Công công vất vả quá! Người đã có tuổi, nếu có ý truyền dạy pháp môn này thì tiểu nhân xin chia sẻ nỗi lo cùng người.”

Nam công công mở to mắt nhìn Lâm Hưởng, cảm thán, “Ngươi có ý tốt đấy, nhưng ngươi chưa biết, đại pháp này không phải nội công chính đạo gì, giống như các môn tâm pháp võ công kỳ dị khác như Quỳ hoa bảo điển, Cửu âm đại pháp... chỉ có hoạn quan như ta học được mà thôi.”

Lâm Hưởng kêu lên “Thế à” rồi rùng mình.

Nam công công nhìn kỹ Lâm Hưởng, “Trông ngươi hơi phờ phạc, có phải lại gặp ác mộng đó không?”

Lúc này cánh cửa hội thẩm đường bật mở, hai sai dịch lôi một phạm nhân trần truồng ra. Người ấy gục đầu, tứ chi mềm nhũn như một xác chết.

Chờ họ đi rồi, Lâm Hưởng cúi đầu nói “Vâng”.

Lâm Hưởng được Nam công công nuôi dưỡng từ nhỏ, đến giờ vẫn nhớ rõ trước đó đã từng theo người ta đi ăn mày, trước đó nữa thì gã chịu không nhớ, cũng không biết cha mẹ mình là ai. Nhưng gã thường gặp một giấc mơ kỳ lạ, thấy mình đang ở trong rừng núi, dốc sức đuổi theo một con thú nhỏ trắng bạc, rồi chạy về một vùng ánh sáng, một đống lửa cháy! Ngọn lửa thản nhiên nuốt chửng tất cả, trong đám lửa có tiếng người kêu khóc thảm thiết. Rồi Lâm Hưởng cũng kêu lên thảm thiết và giật mình tỉnh giấc. Lần nào cũng vậy.

“Giấc mơ quả là kỳ lạ và khó hiểu, tốt nhất là đừng để ý nữa, mọi thứ mắt ta nhìn thấy mới là sự thật.” Nam công công khuyên.

Lâm Hưởng đáp, “Vâng. Tiểu nhân kém cỏi, chỉ là chuyện nhỏ mà để công công phải bận tâm.”

Nam công công cười, “Khách sáo thế? Chớ quên ta không con cái gì, ta chỉ có ngươi.”

Lâm Hưởng cảm thấy ấm lòng, nói, “Vâng, thôi bỏ qua. Tiểu nhân vốn định hỏi công công, không biết chuyện tra hỏi phạm nhân đã có tiến triển gì chưa, người đã dùng Trừu tân đại pháp thì chắc hẳn bọn tặc tử biết gì cũng sẽ khai ra.”

Nam công công gượng cười, “Rắc rối là ở chỗ, bọn tặc tử không biết gì hết.”

“Trong đám thuộc hạ của Sấm tặc, có kẻ biết tung tích kho báu Bá Nhan, muốn đến Giang Kinh tìm kho báu cho hắn. Kẻ này ắt phải là một tên máu mặt và là kẻ cầm đầu trong chuyến đi. Dù những tên đi theo không biết gì về kho báu Bá Nhan thì cũng biết ai cầm đầu chuyến đi chứ?” Lâm Hưởng chưa hiểu rõ.

“Kỳ lạ là ở tình tiết này. Ta đã áp dụng Trừu tân đại pháp với ba tên nhưng cả ba đều không biết gì cả. Cứ như là... trước khi rời Sấm tặc, chúng đã bị trừu tân một lần rồi vậy! Tất cả đều nói giống hệt nhau, rằng chuyến đi Giang Kinh Tân này nhằm tìm kho báu Bá Nhan để xung quân, tìm linh kỳ đại hãn để lần ra Thiên thư. Còn về địa điểm tìm kiếm, ai chỉ huy, cả ba tên đều mù tịt. Ta lo đám thuộc hạ của Sấm tặc đang toan tính gì đó, nên chúng đã tẩy não những tên này trước khi thực sự ra tay hành động.”

Nam công công rên hừ hừ một hồi, “Ta già rồi, Trừu tân đại pháp làm ba ngày một lần, kiệt quệ cả người, đành để ngày mai tính sau vậy.” Ông lại nhìn Lâm Hưởng, “Ngươi định nói gì thì cứ nói đi.”

Nhìn quanh thấy không có ai, Lâm Hưởng thì thào, “Tiểu nhân nghĩ, liệu có phải Sấm tặc đang dùng kế? Các cao thủ này của hắn đã trải bao phen ác chiến mà vẫn an toàn lui về, tại sao nay chúng lại chịu để bị bắt?”

Nam công công tủm tỉm, “Đơn giản thôi, trước kia chúng toàn đối phó với đám binh tướng ngu đần chỉ mải dùng đao gươm chứ chưa chạm trán các bậc tinh anh của Đông Xưởng. Thêm nữa, lần này việc chúng đi tìm linh kỳ bị nội gián của ta nắm được tin, thông báo về, chúng ta đã đích thân dẫn quân bủa vây. Trải qua một trận ác chiến, hai bên đều tổn thất, sau đó mới bắt sống được chúng.”

“Tiểu nhân đã lỡ dịp chiến đấu dưới cờ công công, thực đáng tiếc.” Lâm Hưởng xuýt xoa, đã không thể chinh chiến với Nam công công, còn phải đi theo Kỳ công công rồi bị coi thường và chê cười, bươn bả ngàn dặm chỉ để chuyển về một cái xác.

Nam công công nói, “Ngươi cần rèn luyện thêm nhiều nữa... Còn với Kỳ công công... nếu ngươi muốn thăng tiến suôn sẻ thì không được làm mất lòng ai. Ngươi gần gũi hơn với Kỳ công công cũng tốt.”

Lâm Hưởng gượng cười lắc đầu. Mấy lần đối đầu trong chuyến đi Giang Kinh, chỉ e càng làm cho Kỳ công công không ưa gã.

Nam công công hỏi, “Về cái xác Phượng Trung Long, đã có phát hiện gì mới chưa?”

Lâm Hưởng đáp, “Sau khi các ngỗ tác của Đông Xưởng chúng ta và của Cẩm Y Vệ khám nghiệm tử thi, hai ngày nay đã có hai ngự y đến xem xét. Họ đều hiểu biết về các môn phái võ lâm, thế mà không thể nói được điều gì. Cái xác không có vết thương hay dấu hiệu trúng độc, nên không thể đưa ra kết luận bị giết ra sao, hung thủ là ai, liệu đã lấy bản đồ đi chưa? Và càng không thể đoán ra tung tích của linh kỳ...”

“Tin tức của Tào công công rất đáng tin cậy, chắc chắn bản đồ đã rơi vào tay Phượng Trung Long. Có lẽ cần cho người truyền gọi ngỗ tác Khâu Tam Giáp của phủ Giang Kinh đến, tiếc rằng các ngươi đi qua Giang Kinh đã bỏ lỡ. Theo ta, trong các ngỗ tác thời nay thì lão Khâu là nhân vật tinh thông nhất về giới võ lâm, kỹ thuật khám nghiệm tử thi cũng thành thạo nhất. Khi các ngươi sắp lên đường, ta đã kiến nghị với Kỳ công công nhưng ông ta... hơi ngạo mạn... hễ ta nói thì ông ta cố ý phớt lờ!” Nam công công thở dài.

Lâm Hưởng định hỏi ở đâu ra tin tức “rất đáng tin cậy” kia, nhưng Nam công công đã không muốn tiết lộ thì chắc là tuyệt mật rồi, nên gã chỉ nói, “Khi Phượng Trung Long bị giết, các thuộc hạ của Lý Sấm cũng rời Thiểm Tây đi tìm linh kỳ. Liệu có phải một tên trong bọn đã giết Phượng Trung Long?”

Nam công công chầm chậm gật đầu, “Có khả năng! Biết đâu Lý Sấm lại chiêu nạp được bậc kỳ tài chưa lộ diện. Nhưng dù kẻ đó là ai thì cũng không nằm trong số tù nhân này. Trong chiến dịch bủa vây bọn chúng, ta không thấy có cao thủ nào đủ tài nghệ giết nổi Phượng Trung Long. Nếu không, kẻ đó đã chẳng chịu để bị bắt rồi tống ngục Đông Xưởng.” Ông trầm ngầm chốc lát rồi hỏi, “Các Cẩm Y Vệ đi đón Tiết tiểu thư đã về kinh chưa?”

“Vồ hụt cả rồi!” Lâm Hưởng cười khẩy. “Mấy năm nay Cẩm Y Vệ ngày càng bất lực, đi tìm một tiểu thư cũng không xong. Đông Xưởng chúng ta mà biết sớm thì chỉ cần cử một hai người đến đón về là đâu vào đấy rồi.”

Nam công công than thở, “Thế mới nói, những kẻ sai đi làm việc liên quan đến linh kỳ đại hãn đều toi công cả lũ.”

“Tiểu nhân thấy khó hiểu một điều...”

“Cứ hỏi, đừng ngại, nếu có thể thì ta sẽ cho ngươi biết, dù trên đầu ta còn có đốc chủ, không phải chuyện gì ta cũng được phép công khai.” Nam công công thầm thở dài, nếu không bị Kỳ công công nhiều lần đứng ra gây sự vô lý thì ông đã trở thành đốc chủ Đông Xưởng từ lâu, chứ không bị níu chân ở vị trí lửng lơ như hiện nay mà đau đầu.

Lâm Hưởng hỏi, “Nếu Đông Xưởng đã biết Phượng Trung Long nắm giữ linh kỳ và bản đồ kho báu, sao chúng ta không tóm cổ hắn, buộc hắn phải khai ra, mà cứ thả hắn nghênh ngang trong giang hồ đế theo dõi, rốt cuộc hắn bị giết chỉ còn cái xác, và chúng ta không có chút thu hoạch nào?”

Nam công công thở dài, “Phượng Trung Long là tên khó nhằn, một khi rơi vào tay Đông Xưởng thì hắn sẽ tự sát chứ không chấp nhận bị tra tấn. Đến lúc đó, những bí mật về linh kỳ và kho báu Bá Nhan, thậm chí Thiên thư của Thành Cát Tư Hãn đều sẽ vĩnh viễn nằm trong bóng tối. Cho nên, bám theo Phượng Trung Long thì sẽ lần ra kho báu Bá Nhan. Ngươi hiểu rồi chứ? Ta sai ngươi đi theo Kỳ công công, vì nhận định rằng chuyến đi Giang Kinh ấy sẽ thành công vang dội, tìm thấy linh kỳ, rồi lần ra Thiên thư để xoay chuyển càn khôn. Ngươi sẽ được tính công trong sự kiện lẫy lừng đó. Ai ngờ đâu biến cố khó lường, Phượng Trung Long bất ngờ chết đuối.”

“Đa tạ công công cất nhắc.” Lâm Hưởng cảm kích từ tận đáy lòng.

“Ta coi ngươi như con, nên ta cũng chẳng giấu,” Nam công công nắm bàn tay dài xanh xao của Lâm Hưởng, “Ngươi không có ai thân thích, sống ở Đông Xưởng thực không dễ dàng gì...”

Lâm Hưởng hỏi, “Nhưng, tại sao Kỳ công công nhất quyết đưa xác Phượng Trung Long về kinh?”

“Bởi vì Phượng Trung Long luôn mang bản đồ kho báu bên người, hắn còn có đồng bọn cũng muốn tìm xác để từ đó lấy được kho báu và linh kỳ. Chúng ta phải khám nghiệm tử thi để tìm hiểu xem ai đã giết tên tặc tử này, vì kẻ ấy tất nắm được thông tin kho báu.”

Lâm Hưởng đã hiểu ra, gật đâu, “Thảo nào địa lao phải bố trí canh gác nghiêm ngặt gấp mấy lần. Vì việc tróc nã đồng phạm của Phượng Trung Long, công công lại thêm nhọc sức.”

“Đúng thế đấy!” Ánh mắt Nam công công đã có thần hơn, “Ta còn một việc chưa tiện nói ra, nếu ngươi lặng lẽ đi làm, sẽ lập công lớn.”

Lâm Hưởng thấy tim mình đập mạnh, “Xin công công dặn dò!”

“Ngươi hãy đến Nhạc Dương.”

Lâm Hưởng ngạc nhiên, lặng lẽ chờ Nam công công nói tường tận.

“Đông Xưởng đông người, ngươi có biết Phí Ngân Khôn không?”

Lâm Hưởng đáp, “Là một dịch trưởng, tiểu nhân đã gặp vài lần. Người ấy có học thức và giỏi mưu kế.”

“Người của ta đấy. Cách đây không lâu, Phí Ngân Khôn đem theo ba sai dịch đến Giang Kinh tìm kiếm tin tức về kho báu Bá Nhan và linh kỳ, thì phát hiện ra dấu vết của Vân Lăng.”

“À, lại một tên thủy tặc. Xem chừng hắn cũng tìm kiếm linh kỳ, tìm kiếm Thiên thư của đại hãn!”

“Ừ! Nhưng hắn chỉ ở Giang Kinh mấy hôm rồi bỗng xuôi về Nam. Bọn Phí Ngân Khôn liền bám theo, không khó khăn gì. Vân Lăng trông ưa nhìn, ăn mặc ra dáng công tử tay chơi, cưỡi ngựa trắng, lưng đeo túi gấm. Bọn Phí Ngân Khôn đi theo đến tận thành Nhạc Dương, dọc đường đều rẽ vào dịch trạm sai lính cưỡi ngựa đưa thư hỏa tốc cho ta. Nhưng từ khi đến Nhạc Dương thì không thấy thư tín gì nữa. Chỉ e đó là điềm gở.” Mặt Nam công công thoáng nét lo âu.

Lâm Hưởng hỏi, “Công công muốn tiểu nhân đi tìm tung tích của Phí Ngân Khôn?”

“Cả Vân Lăng nữa. Hắn vô cớ bỏ lửng kho báu Bá Nhan để đi Nhạc Dương. Tại sao?”

Lâm Hưởng ngập ngừng.

Nam công công lại nói, “Ta cho rằng vẫn là liên quan đến kho báu Bá Nhan. Liên quan ra sao, thì trông chờ ngươi giải đáp. Kể từ nay, ta sẽ cho ngươi năng đi lại. Ta đã để ngươi náu mình hai mươi năm, trên giang hồ không ai biết Đông Xưởng còn có một nhân vật như ngươi, ngay nội bộ Đông Xưởng cũng khó mà nhận ra. Ngươi là vũ khí bí mật của ta, hãy xứng đáng với tài học bấy lâu nay của mình.”

“Đa tạ công công tin tưởng, tiểu nhân sẽ lên đường ngay.” Lâm Hưởng cúi chào rồi quay người đi.

Phía sau lưng vang tiếng gõ tay vịn ghế “cạch cạch”, Lâm Hưởng vội ngoảnh lại, “Công công còn gì dặn dò?”

“Tùy cơ ứng biến.”

Hiểu rằng vụ việc rất gấp, Lâm Hưởng cưỡi ngựa phi một mạch, không nghỉ quán trọ, chỉ khi mệt mới vào dịch trạm dừng chân một lúc. Chạy đến thành Nhạc Dương, người ngựa đều bụi bặm tả tơi.

Bổ đầu phủ Nhạc Châu là Lâu Toàn Bưu trợn mắt sửng sốt vì chuyến đi gian khổ chưa từng thấy ấy. Lại nghe Lâm Hưởng kế về mục đích chuyến đi, hắn tặc lưỡi, “Lâm huynh đi mất công quá! Chúng tôi vừa gửi tờ trình khẩn cấp về kinh xong! Chẳng là mấy hôm trước, có bốn thi thể dạt vào ven hồ Động Đình, thắt lưng vẫn đeo thẻ bài Đông Xưởng, có cả thẻ bài dịch trưởng. Chắc là của Phí Ngân Khôn. Tiếc rằng thi thể ngâm nước lâu ngày nên khó nhận diện.”

Lâu Toàn Bưu dẫn Lâm Hưởng đến nhà xác nhìn cái xác rữa nát đáng sợ. Đúng là Phí Ngân Khôn. Ba cái xác khác cũng là sai dịch của Đông Xưởng, một trong ba là Kim Kiệm Công, Lâm Hưởng cũng từng gặp vài lần, người này nội công rất thâm hậu.

“Ngỗ tác nói sao?”

“Trán và cổ họng nạn nhân đều bị đâm thủng... một lỗ nhỏ. Chắc là do ám khí...”

Lâm Hưởng đoán là huyền thiết châu của Vân Lăng, nhưng không nói ra, chỉ khẽ gật đầu, “Dám giết sai dịch của Đông Xưởng, thật càn rỡ. Chắc các vị đang ráo riết truy nã hung thủ?”

Lâu Toàn Bưu hơi lúng túng, “Tất nhiên, tất nhiên rồi!”

Lâm Hưởng không hỏi sâu thêm, lại chuyển sang chuyện khác, “Gần đây các vị có thấy nhân vật võ lâm đáng ngờ nào ra vào thành Nhạc Dương không?”

“Nhiều lắm, không hiểu sao nhân sĩ võ lâm dạo này cứ ùn ùn kéo về phủ Nhạc Châu.”

“Tôi muốn biết rõ hơn!”

Lâu Toàn Bưu nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi nói, “Tôi nhớ là một bầu đoàn Điểm Thương, một vài ni cô Nga Mi, mấy người nói giọng Giang Nam, và một đám trông như nông dân mang theo cuốc, đinh ba... nói giọng Tây Bắc, chẳng rõ từ đâu đến.”

Thần Nông Giáo ở Tấn Bắc. Lâm Hưởng thầm nghĩ, đều là các bang phái máu mặt trên giang hồ. Chưa nghe nói họ có hành vi câu kết với phản tặc nông dân, cũng không đắc tội với triều đình. Tại sao họ bỗng dưng kéo đến tụ tập ở Nhạc Dương? Quả là khó hiểu.

“Cũng có cả Cái Bang. Mấy hôm nay ăn mày trong thành bỗng đông lên đáng kể. Có tin đồn Lý Sấm sắp đi qua vùng Hồ Quảng để vào đất Xuyên. Lâu nay Cái Bang vẫn ngấm ngầm giúp đỡ Lý Sấm, chỉ e họ sẽ tiếp ứng cho lũ phản tặc này.” Lâu Toàn Bưu ngẫm nghĩ, rồi vỗ trán, “Bạch Liên Giáo! Còn có Bạch Liên Giáo nữa! Chà chà, cái đầu tôi sao thế... suýt nữa quên mối họa lớn nhất này! Bọn họ cũng kéo đến khá đông.”

Lâm Hưởng im lặng, cố không để lộ cảm xúc trong lòng, những nơi Bạch Liên Giáo tụ tập, chắc chắn phải có chuyện lớn! Xem ra, Nam công công cử mình đến tìm xác Phí dịch trưởng chỉ là thứ yếu, điều ông cần là mình phải xắn tay vào khám phá nguyên nhân của cuộc tụ tập rình rang này. “Vậy, phiền quý nha môn nhắc các bổ khoái đặc biệt lưu ý, khi cần thiết, phải theo dõi sát sao, xem các nhân sĩ võ lâm đến Nhạc Dương câu kết với nhau để làm gì?”

Sẩm tối hôm sau, các bổ khoái tỏa đi trinh sát đã về bẩm báo với Lâu Toàn Bưu và Lâm Hưởng.

Lâm Hưởng cũng đích thân bám theo hai đệ tử phái Điểm Thương. Mấy người này vào các quán xá hỏi thăm xem có nhìn thấy hai người trong tranh vẽ không. Đó là hai bức vẽ chân dung, là hình dán cáo thị do Đông Xưởng phân phát, không rõ tại sao hai đệ tử Điểm Thương này lại có trong tay.

Lâm Hưởng khéo léo áp sát để nhìn trộm. Đó là chân dung Sở Ca và Vân Lăng. Bọn Phí Ngân Khôn bám theo Vân Lăng đến đây thì bị giết, liệu có liên quan đến những người trong võ lâm này? Tại sao họ cũng vất vả đi tìm hai tên thủy tặc? Lâm Hưởng đang định rời đi thì thấy đệ tử Điểm Thương lại chìa ra một bức chân dung khác. Người trong tranh không phải do Đông Xưởng vẽ đế truy nã, nhưng cặp mắt chim ưng của gã vẫn nhận ra, tim lại đập càng nhanh, phải cố kiềm chế để không hấp tấp lôi hai tên này đến chỗ vắng ra đòn và bức cung. Tùy cơ ứng biến. Lúc này mà bức cung thì sẽ rút dây động rừng, cần buông dây câu dài bắt con cá sộp. Lâm Hưởng bảo Lâu Toàn Bưu dặn dò các bổ khoái thức đêm chờ lệnh, còn mình thì đến quán trọ mà hai đệ tử Điểm Thương tạm trú. Chờ đến quá nửa đêm, nghe bên trong có tiếng ngáy vang rền, quán trọ tắt nốt ngọn đèn cuối cùng, Lâm Hưởng mới rời đi.

Cứ thế, gã mai phục đến đêm thứ ba, lúc cuối giờ Tý đầu giờ Hợi, thấy hơn chục bóng đen nhảy ra khỏi cửa sổ các phòng, rồi nhảy lên nóc quán trọ đi nhanh như bay. Lâm Hưởng vận khí bám theo. Trong màn đêm, đứng từ xa quan sát, gã thấy hai quán trọ gần đó cũng có các bóng đen nhảy ra, cả thảy chừng hăm bốn, hăm lăm người, tất cả cùng lao về phía Tây.

Ba phái đã tề tựu, chắc là đã có tin tức về người mà họ muốn tìm. Tìm hai tên thủy tặc kia, hay tìm người trong bức họa? Người trên giang hồ gần như ai cũng biết đại danh của Vân Lăng và Sở Ca, nhưng có lẽ họ không thể biết người thứ ba là ai. Đám đệ tử Điểm Thương trên nóc nhà bỗng mất tăm, chúng đã nhảy xuống sân. Khu sân này rộng, sân trước có một lâu gác lộng lẫy ba tầng, dù trời tối vẫn nhận ra bên ngoài lâu được trang trí lịch sự tao nhã, sân sau là một phòng thêu thùa của con gái, còn có hai dãy nhà một tầng ôm quanh một hoa viên nho nhỏ.

Mấy hôm nay Lâm Hưởng bám theo các đệ tử Điểm Thương đi khắp thành Nhạc Dương, coi như đã thuộc lòng địa hình trên bản đồ do Lâu Toàn Bưu cung cấp. Lúc này dựa vào các ngả đường đã đi, gã đoán chắc đây là chốn trăng hoa Vân Mộng Lý nổi tiếng ở Nhạc Dương. Nửa đêm, hai ba chục đệ tử võ lâm không dưng đến kỹ viện chơi bời, bọn họ muốn tìm người. Ai đang ở chốn gió trăng này?

Lâm Hưởng nhận ra tấm biển khắc ba chữ “Họa Mi Cư”, đúng lúc có tiếng thét thảm thiết vọng ra.

Lâm Hưởng nhíu mày, đều là nhân sĩ của những môn phái danh tiếng mà lại ra tay với nữ nhi mềm yếu? Tiếp đó là tiếng quát tháo, rồi lại có tiếng kêu khóc. Lâm Hưởng bước về phía những âm thanh ấy, đến sát một ngôi lầu nhỏ, trên đầu vang lên tiếng bước chân, rồi tiếng gắt gỏng, “Tất cả mặc áo vào, xong xuống sân ngồi yên! Cấm thút thít ho he, nếu không sẽ mất mạng!”

Lâm Hưởng nấp sau cột nhà, nhìn thấy hơn chục nam nữ áo quần xộc xệch bị vài tên áo đen áp giải xuống lầu rồi đẩy cả ra sân. Lâm Hưởng bèn đi lên gác. Ở ngưỡng cửa một gian trên cùng, một người đàn ông gần như trần truồng nằm đó, chẳng rõ sống chết ra sao. Lâm Hưởng cúi xuống xem xét, thấy người này mặt mũi bê bết máu nhưng vẫn thoi thóp thở. Đây chắc là khách làng chơi bị người phái Điểm Thương đánh đập.

Lâm Hưởng xác định phương hướng rồi bước vào phòng chính vén rèm xem xét. Bên dưới cửa sổ là sân sau, ánh đuốc sáng lòa soi rõ vài chục người đứng ngồi lộn xộn. Những người mặc đồ đen chính là đệ tử các môn phái. Từ các nhà luôn có người lục tục đi ra, quát tháo luôn mồm.

Lát sau không thấy ai ra nữa, Họa Mi Cư trở lại yên tĩnh. Một giọng nói vang lên, “Các kỹ nữ và các vị khách làng chơi! Xin thứ lỗi vì đã làm phiền lúc đêm khuya.” Người này cao lớn, ăn mặc khác với những kẻ còn lại, trông như công tử con nhà phú hào. Gã chắp tay thi lễ, rồi lại nói, “Chúng ta buộc phải thô bạo xâm nhập vì nghe nói nơi này đang chứa chấp một tên tội phạm nguy hiểm, chúng ta sẽ đưa người đi để các vị khỏi bị kiện tụng rắc rối.”

Gã vẫy tay. Một nữ đệ tử bước lên đưa ra một bức vẽ chân dung. “Các vị nhìn đi, có biết cô gái này không? Tấm hình vẽ cách đây mười năm, khi đó cô ta chỉ là một bé gái. Dung mạo đương nhiên có khác xưa nhưng ánh mắt thì vẫn thế. Mong các vị cân nhắc xem xét!”

Nếu là một công sai bình thường, thậm chí là sai dịch bình thường của Đông Xưởng, thì chẳng thể biết nhân vật trong tranh là ai. Nhưng Lâm Hưởng thì khác. Được Nam công công chỉ bảo từ nhỏ, Lâm Hưởng đã nghiên ngẫm đủ mọi tài liệu sách vở ở Đông Xưởng. Có lẽ do trời phú cho trí thông minh cộng với sự miệt mài cần mẫn, Lâm Hưởng gần như thuộc lòng tất cả văn thư lưu trữ trong Đông Xưởng.

Bức vẽ mà nữ đệ tử vừa giơ ra, Lâm Hưởng đã nhìn thấy trong tay các đệ tử Điểm Thương, và cũng nhìn thấy từ nhiều năm trước. Một bé gái xinh đẹp lạ thường với nốt ruồi son nơi ấn đường, chính là A Liên, con gái duy nhất của phản thần Viên Sùng Hoán. Sau khi Viên Sùng Hoán bị xử tử, cả nhà họ Viên bị đi đày ở Lĩnh Nam. Dọc đường, A Liên được một bộ tướng cũ của Viên Sùng Hoán cướp đem đi, Đông Xưởng đã truy nã liền hai năm song không có kết quả, nên đành gác lại. Nói cho cùng, một cô gái ẻo lả thì chẳng thể là mối lo lật đổ giang sơn.

Nhưng tại sao đã chín năm trôi qua, nhân sĩ võ lâm lại tìm kiếm A Liên? Tâm địa của người trên giang hồ thực khó lường, đôi khi họ trượng nghĩa, đôi khi lại vô cớ giết chóc tàn bạo. Họ đi tìm cô gái này rõ ràng không phải vì vụ án bế tắc của triều đình, mà là vì một mối lợi nào đó. Là mối lợi như thế nào?

Mọi người nhìn bức vẽ một lượt, không ai có câu trả lời.

Lâm Hưởng thầm nghĩ, nếu A Liên náu mình ở thanh lâu thật, thì quả là khôn ngoan, vì không ai nghĩ rằng ái nữ của Viên Sùng Hoán lại vào chốn nhơ nhớp để làm kỹ nữ. Náu mình ở kỹ viện cũng không nhất thiết phải bán thân, vì thế cô gái chưa chắc đã ở lầu này! Nếu bộ tướng cũ của Viên Sùng Hoán thu xếp cho cô ở đây, thì chi phí hẳn là tốn kém. Tiểu thư nhà họ Viên phải được bố trí chỗ ở riêng biệt để không bị ảnh hưởng bởi phong trần và chiến sự.

Chỗ ở riêng biệt? Lâm Hưởng đứng trên cao quan sát cả khu vực. Phía sau phòng thêu còn có một khoảnh sân nhỏ, cổng đang rộng mở. Một ngôi nhà nhỏ cũng đang mở toang cửa. Chắc là trước đó đã bị lục soát. Cặp mắt tinh tường của Lâm Hưởng bỗng nhìn thấy một bóng người từ trong sân nhảy ra rồi biến vào màn đêm. Thân pháp nhanh nhẹn khó tả.

Lâm Hưởng nhảy ra khởi cửa sổ, phóng mình xuống khoảnh sân nhỏ, đúng lúc nghe thấy tiếng “phật” của vạt áo xé toang không khí. Ngoảnh lại thì thấy vài bóng đen đang nhảy lên nóc nhà, các bức tường, rồi mai phục trong đêm tối, chắc là để tiện quan sát, đề phòng có kẻ bỏ trốn.

Trong sân tối đen như mực, dù đã là đầu đông nhưng hoa vẫn thoang thoảng đưa hương. Một chỗ ở thực khác biệt. Lâm Hưởng căng tai lắng nghe. Trong nhà và ngoài sân không có động tĩnh gì, gã nhẹ chân bước vào, tay không rời đốc kiếm.

Trong nhà, ánh nến yếu ớt, phòng ở cực kỳ lộn xộn vì bị lục soát, không có một bóng người. Lâm Hưởng nhìn kỹ, nhận ra căn nhà bài trí rất trang nhã, trên tường treo sáo trúc, thư họa, trên bàn cũng có giấy bút nghiên... Con gái của Viên Sùng Hoán từng ẩn cư ở đây thật sao?

Lâm Hưởng lại quan sát tỉ mỉ căn phòng với màn trướng, giường đệm, hương và hoa... đúng là nơi ở của nữ nhi. Còn mấy bức thư họa trên tường, phải chăng là bút tích của các văn nhân đã từng giao du với Viên Sùng Hoán? Dù chép thơ của Lý Bạch hay miêu tả trăng sáng hồ Động Đình, đều là bút tích của một người, Độc Cô Dã. Tên tuổi lạ nhỉ...

Ánh mắt Lâm Hưởng chợt dừng lại ở bức tranh sơn thủy và mấy chữ đề ở góc. Tranh miêu tả cảnh điền viên thông thường, nhưng nét bút tả ý rất tinh tế, non xanh, hoa rừng, giàn nho, vò rượu, ông lão bước đi lảo đảo, mấy cánh bướm dập dờn... Mấy chữ, là bài từ theo điệu Giá cô thiên của Tân Giá Hiên [*] , “Trồng nơi đất lạ, hoa vẫn nở. Xưa nay hưng phế chuyện thường tình. Chim trả bắt cá, rồi bay mất. Ong vàng tìm nhụy, theo bướm xinh...”

(ct): * Giá Hiên là tên hiệu của Tân Khí Tật.

Lâm Hưởng sửng sốt. Xưa nay gã hiếm khi tìm hiểu sâu về thơ văn, chỉ đọc kinh điển võ lâm, binh pháp và thư tịch của Đông Xưởng là chính. Lâm Hưởng tin đây là lần đầu tiên mình đọc bài từ này, nhưng không hiểu sao lại có cảm giác quen thuộc đến thế, thậm chí gã còn bất giác ngâm nga làn điệu của nó. Lâm Hưởng chưa nguôi kinh ngạc thì đã cảm thấy có mũi kiếm lạnh buốt xuyên thủng áo mình và gí vào lưng.

Đừng vội.

Tùy cơ ứng biến.

Bên ngoài sân có tiếng vọng vào, giọng riết róng hơn gã công tử lúc nãy, “Xem ra các vị thân lừa ưa nặng? Nhân sĩ võ lâm xưa nay không giết người vô tội, cho nên, làm thế nào bây giờ nhỉ? Ngươi, đứng lên! Cầm đao, chém một nhát đi!” Tiếp đó là giọng đàn ông thét lên thê thảm. Rồi một giọng nữ khóc ré. Những tiếng quát tháo, răn đe. “Câm mồm, câm ngay!” Tiếng khóc dần lặng đi...

Lâm Hưởng khẽ nói, “Cô nương đừng sợ, ta không phải đồng bọn với họ.” Người đứng sau lưng tuy có khinh công cao siêu nhưng nội công rất bình thường, tiếng thở phà khẽ vào gáy gã, tầm thấp hơn gã một cái đầu, chắc là nữ nhi. Có phải con gái Viên Sùng Hoán hay không, phải đợi xác định qua nốt ruồi đặc trưng. “Ta chỉ tình cờ đi ngang qua. Ta sẽ không làm hại cô nương... Ta có thể đưa cô thoát khỏi đây.”

Nếu tùy cơ ứng biến thành công, ta sẽ đưa cô “thoát” về tận Đông Xưởng. Lâm Hưởng biết mấy câu này của mình chẳng có mấy sức thuyết phục nhưng vẫn còn hơn là im lặng không nói gì. Mũi kiếm gí vào lưng bỗng thu về, bây giờ Lâm Hưởng thừa sức ra tay chế ngự cô gái nhẹ dạ cả tin này. Nhưng chính gã cũng không ngờ mình không ra đòn theo bản năng mà lại giơ hai tay lên, từ từ xoay người lại. Những giọt nến nóng bỏng rơi vào tay, không sao. Cô nương tin ta, thì ta sẽ không phụ lòng cô.

Bên ngoài có tiếng nói, “Cũng được! Các người đã không muốn trả lời thì ta đành tìm ma ma vậy! Tiểu Kiều, cô là nhân vật nổi tiếng ở thành Nhạc Dương này, ta hỏi lại lần nữa, có biết cô gái ấy ở đâu không?”

Một giọng nữ nhỏ nhẹ đáp, “Tôi đã trả lời mấy lần rồi, cô gái trong tranh vẽ không ở chỗ tôi. Các cô gái ở đây đều tự nguyện bán thân kiếm sống khi đã trưởng thành. Quy tắc của Họa Mi Cư là không thu nhận trẻ con chưa búi tóc.”

Trong phòng, Lâm Hưởng khẽ hỏi, “Cô tên gì?”

“Ng...ng...”

Lâm Hưởng quan sát cô gái mảnh khảnh nhỏ nhắn đang cầm thanh đoản kiếm sắc nhọn trên tay, rồi lùi lại một bước.

“Ng... ng...” Cô gái lại khẽ nói.

Dưới ánh nến yếu ớt, Lâm Hưởng nhìn rõ cô gái xinh đẹp đang chỉ tay vào miệng rồi lắc đầu. Giữa cặp chân mày không có nốt ruồi son.

Ở bên ngoài, gã công tử lại lên tiếng, “Tiểu Kiều phu nhân giỏi nghề phong nguyệt, cũng giỏi giả dại nữa! Chúng ta đã hỏi khắp thành Nhạc Dương và nắm được tin tức chính xác, phu nhân không thể ỡm ờ mấy câu mà lừa bọn ta đi khỏi đây được đâu! Chúng ta không thiếu những người thô bạo, ta hỏi lại lần cuối, nếu không khai thật thì khuôn mặt khả ái của cô sẽ được vẽ thêm mấy vệt màu đỏ đấy.”

Tiểu Kiều dằn giọng, “Diệp Tri Thu Diệp công tử dòng dõi danh gia, đứng đầu một môn phái lớn mà lại ăn nói kiểu này ư?”

Người được gọi là Diệp Tri Thu đáp, “Tiểu Kiều phu nhân thật am hiểu giới võ lâm, nhưng cô nên nhớ chủ nhân của Ngô Việt Thế Gia vẫn là cha ta, ta chỉ là thuộc hạ để sai bảo. Bên trong có điều khó nói. Mong phu nhân thông cảm.”

Trong phòng, Lâm Hưởng đã hơi hiểu ra, “Cô không nói được?”

Cô gái gật đầu, đưa tay kia ra nắm lấy tay áo Lâm Hưởng. Gã không phản ứng, cứ để cô nắm ống tay áo. Cô gái xoay người bước đi, kéo Lâm Hưởng đến bên cửa ngôi nhà. Làn gió nhẹ từ bên ngoài tràn vào, đúng lúc cây nến trong tay Lâm Hưởng phụt tắt thì cô gái biến mất.

Lâm Hưởng đứng trơ khấc.

“Ng... ng...?” Gã khẽ gọi.

Ngoài sân, Diệp Tri Thu lại nói, “Ngoan cố thật! Cô đã không nể mặt thì ta đành đắc tội vậy.”

Lâm Hưởng thầm nghĩ, Tiểu Kiều sắp nguy đến nơi. Chỉ là một ma ma, sao cứng cỏi đến vậy? Bỗng một bàn tay thon thò ra từ cửa phụ của ngôi nhà nhỏ vẫy Lâm Hưởng. Thì ra cô gái đã chui tọt vào ô cửa đó, đang vẫy Lâm Hưởng bước lại.

Ngoài sân có tiếng kêu ré lên. Một người lên tiếng, “Đừng đánh! Không được đánh Tiểu Kiều của chúng tôi!” Tiếng kêu thét có vẻ như của một bà già. “Tôi biết cô gái đó ở đâu. Các người hãy tha cho Tiểu Kiều và tất cả chúng tôi. Tôi sẽ nói hết.”

Lâm Hưởng sửng sốt, bước về phía bàn tay đang vẫy. Cửa chỉ hé ra một khe nhỏ, rồi dần mở rộng chừng ba gang tay. Thì ra là một cánh cửa rỗng, tựa như một cái tủ. Cô gái nhích người sang bên, đủ chỗ cho Lâm Hưởng.

Ngoài sân vọng vào giọng của Diệp Tri Thu, “Tối nay bà già này đã cứu mạng các người đấy! Tìm thấy cô gái rồi, các người sẽ được tự do mà tiếp tục làm việc của mình, chúng ta sẽ rút đi ngay!”

Giọng Tiểu Kiều đau đớn, “Đừng làm thế, bà Lý! Sao bà lại...”

Bà Lý hậm hực, “Tiểu Kiều, tôi chăm sóc cô từ nhỏ, hồi đó tôi dù khổ cực, lực bất tòng tâm, cũng luôn che chở cho cô. Nay tôi không thể để cô phải bỏ mạng vì y... cái tên lãng tử lông bông ấy!”

Lâm Hưởng đã chui vào sau tấm ván cửa, đứng sát cô gái. Cô ấn cái chốt nào đó không biết, ván cửa liền đóng khít lại. Chắc chắn người đứng ngoài nhìn vào không thể nhận ra điều gì khác lạ. Nghe thấy câu nói của bà Lý, cô gái run run.

Giọng Tiểu Kiều nghẹn ngào, “Bà Lý à, con biết bà luôn mong điều tốt cho con, nhưng con xin bà...” Một tiếng kêu thét vang lên, chắc Tiểu Kiều bị bọn người kia đánh đau, không nói được nữa.

Lại là giọng bà Lý, “Dừng tay! Không được đánh! Tôi sẽ dẫn các người đi tìm!”

Có người hỏi, “Nói xem, nó trốn ở đâu?”

“Ở ngôi nhà nhỏ kia!”

Một người khác kêu lên, “Bọn ta đã lục soát ngôi nhà đó rồi, không thấy ai cả!”

Bà Lý cười nhạt, “Cô ta trốn khéo lắm, các người tìm sao được?”

Tiếp đó là những tiếng thì thầm bàn bạc, rồi có tiếng bước chân của hơn chục người tiến vào ngôi nhà nhỏ. Đi đầu là Tất Liên Sinh, chưởng môn phái Điểm Thương, phái này đêm nay xuất quân rất đông. Tuy nhiên Tất Liên Sinh có ý để Diệp Tri Thu của Ngô Việt Thế Gia sắm vai lãnh tụ. Điểm Thương là kiếm phái nổi danh, họ luôn muốn thể hiện vẻ nghĩa hiệp chứ không nửa đục nửa trong như Ngô Việt Thế Gia, đến cái chốn kỹ viện này thật chẳng vẻ vang gì.

Cả bọn bước vào nhà. Bà Lý lập tức trỏ, “Cánh cửa kia!”

Tất Liên Sinh liền phóng thanh kiếm chém sắt như chém bùn vào cánh cửa dày nặng. Cửa gỗ nứt toác, đằng sau chèn tấm sắt, bên trong rỗng không, đủ để chứa người. Nhưng không thấy bóng ai.

Tất Liên Sinh nổi giận gầm lên, hằn học xuất chưởng táng mạnh vào ván cửa. Những mảnh gỗ sắt rơi lả tả.

Bà Lý trố mắt, “Lão gia... Hảo hán, đây đúng là chỗ để giấu người mà. Tiểu thư... cũng biết khinh công, biết bay...”

Một vệt sáng trắng xẹt qua. Bà Lý vẫn đứng nhưng đầu đã lìa khỏi cổ.

“Còn đứng nghệt ra đó làm gì?” Tất Liên Sinh gầm lên, “Lục soát ngay đi!”

Khi xưa Sở Ca bố trí cánh cửa gỗ cho Ngải Ngải ẩn thân, y đã biết sớm muộn gì Tiểu Kiều và bà Lý ở Họa Mi Cư cũng sẽ biết bí mật này, và có tình huống họ bị ép phải cung khai, nên đào thêm một địa huyệt nhỏ bên dưới bậu cửa. Mỗi lần đến thăm Ngải Ngải, y đều tranh thủ đào thêm, dần dần hình thành một địa đạo. Sở Ca cũng dự đoán khi kẻ địch lục soát, chúng sẽ kiểm tra tường và thăm dò nền nhà trước. Phải tốn nhiều sức lực và thì giờ thì mới tìm thấy địa huyệt ở bậu cửa. Chỉ Sở Ca và Ngải Ngải biết chốt lẫy để mở vào.

Trước khi bọn Tất Liên Sinh giải bà Lý đến ngôi nhà nhỏ thì Ngải Ngải đã kéo Lâm Hưởng chui vào địa đạo. Bậu cửa và phiến đá lát được lắp lại như cũ. Họ nhanh chóng đi hết địa đạo. Cả hai chui lên từ con ngõ bên ngoài ngôi nhà. Lâm Hưởng định khuyên cô gái đi theo mình đến nơi an toàn, sau đó gã sẽ bắn tin cho nha môn thành Nhạc Dương đến xua đuổi đám giang hồ càn rỡ gây sự này đi.

Từ khu nhà bỗng vọng ra tiếng khóc nháo nhác. Ngải Ngải run rẩy, đôi môi mấp máy.

Một bà già nói, “Chưởng môn làm thế này có phần quá đáng!”

Một giọng nam gầm lên như sấm, “Mách láo tung tích của con bé, sẽ phải trả giá thế này đây” Giọng rền vang đó lại nói, “Tiểu thư nhà họ Viên, dù cô đang trốn ở đâu thì cũng nghe cho rõ đây! Bà Lý nhà cô đã mất đầu tôi, ta sẽ đếm đến ba, nếu cô không ló mặt ra, ta sẽ tiễn bà chị Tiểu Kiều của cô đi Tây thiên luôn!”

Đích thực là con gái của Viên Sùng Hoán. Lâm Hưởng chỉ muốn kéo cô gái rời khỏi đây ngay lập tức, nhưng Ngải Ngải lại chăm chú nhìn Lâm Hưởng và chỉ tay lên bức tường rồi chỉ vào mình.

“Cô muốn ra mặt à? Nguy hiểm lắm!” Lâm Hưởng vội nói. Hồ sơ của Đông Xưởng chưa từng đề cập đến việc Viên tiểu thư là một cô gái câm, hay là Viên tiểu thư lớn lên mới bị câm?

Ngải Ngải đưa tay “xẹt” qua cổ mình, lắc đầu, dù đang đêm tối Lâm Hưởng vẫn nhận ra đôi mắt cô rớm lệ.

“Một!” Kẻ kia đếm. Tiếng đếm khiến đất dưới chân rung chuyển. Nội công lão này cao siêu đây.

“Ta sẽ vào cùng cô.”

Ngải Ngải lắc đầu quầy quậy.

“Có thêm người, ít ra bọn chúng cũng phải e dè.”

“Hai!”

Ngải Ngải bỗng giật cái khăn quấn đầu của Lâm Hưởng xuống rồi bịt kín mặt gã, nhanh chóng thắt nút. Sau đó gật đầu.

“Ba!”

Cả hai tung mình nhảy vọt lên đầu tường. Lâm Hưởng lớn tiếng, “Dừng tay!” Kiếm của đối phương chững lại. Dưới sân, ánh đuốc bập bùng, thanh trường kiếm đang kề vào gáy một phụ nữ. Người cầm kiếm là một lão già khuôn mặt xương xương với ánh mắt điên cuồng và bộ râu dài. Lão không đội mũ, nhưng mặc áo đạo sĩ. Người phụ nữ bên cạnh hơi ngẩng đầu, mặt bê bết máu.

“Ngải Ngải... tội gì phải làm thế?”

Lâm Hưởng thầm nghĩ, thì ra cô gái này tên là Ngải Ngải. “Tiếu thư đã có mặt, mong các vị giữ lời hứa không hại người vô tội nữa!”

Một ni cô già bước lên mấy bước ngẩng nhìn hai người, “Thiện tai! Tiểu thư mau đi theo chúng ta, để các sinh linh khỏi lầm than.”

Lân Hưởng trố mắt, đúng là một ni cô. Có bao nhiêu môn phái võ lâm có nữ tăng? Lớn nhất là Nga Mi, Tiên Hà. Cửu Hoa cũng có một nhánh nữ tăng. Lâm Hưởng gằn giọng, “Đêm nay dù sao cũng khó mà ‘thiện tai’ được! Sư thái kia thực buồn cười. Các người đã dồn ép tiểu thư phải hiện thân rồi, tiểu thư có đi theo các người hay không, còn phải xem các người có đủ sức không đã.” Lâm Hưởng chưa biết Viên tiểu thư có muốn chạy trốn không, nhưng gã không đời nào bỏ qua cơ hội lập công cho Đông Xưởng, nên sẽ không để tiểu thư rơi vào tay bọn người này một cách dễ dàng.

Công tử trẻ tuổi lên tiếng, “Mấy hôm nay ta thưởng ngoạn cảnh đẹp của Nhạc Dương đâm ra lười nhác, lúc này phải vận động gân cốt một chút!” Dứt lời gã nhảy vọt lên bờ tường, tiến sát Viên tiểu thư, chĩa tiêu ra điểm nhẹ vào vai cô. Gần như cùng lúc, ni cô và lão già râu dài cũng bay lên bờ tường, theo sau là hơn chục đệ tử.

Ngải Ngải vụt biến mất. Lâm Hưởng căng mắt quan sát, thấy cô bay về hướng Tây, hồ Động Đình, liền lao mình theo, gã tự phụ khinh công không tệ mà vẫn khó bắt kịp cô gái. Phía sau hai người là công tử, ni cô và đạo trưởng râu dài. Tuy bị bỏ xa một quãng nhưng họ vẫn truy đuổi không buông.

Lâm Hưởng bám theo Ngải Ngải, thấy phía trước là bóng dáng một tòa lầu với mái xám uốn cong, khí thế phi thường. Chính là lầu Nhạc Dương xây trên cổng thành phía Tây! Lâm Hưởng đã nghe danh tòa lầu này, cũng từng đi qua khu vực phụ cận của cổng thành cổ phía Tây, nhưng mải theo dấu đám nhân sĩ võ lâm nên không bận tâm thưởng thức cảnh đẹp. Lúc này theo Ngải Ngải lên lầu, trước mặt mênh mông nước, sau lưng là truy binh, đương nhiên chẳng phải lúc du ngoạn. Dù thế, trong khi tung mình lướt trên mái lầu, Lâm Hưởng vẫn cảm nhận được những làn gió mạnh tạt đến từ mặt hồ, thậm chí từ đầu nguồn con sông xa lắc.

Bấy giờ, Ngải Ngải đã hạ xuống một trụ lan can trên mái lầu, mặt quay ra hồ nước tối đen. Lầu cao cộng với tường thành phải đến gần hai mươi trượng, nhảy xuống không khéo mất mạng hoặc bị thương. Lâm Hưởng lo ngại nhắc, “Cẩn thận đấy!”

Trong đêm tôi, Lâm Hưởng tưởng như nhìn thấy một nét cười tinh ranh, rồi Ngải Ngải buông mình khỏi trụ lan can, rơi vèo xuống như chiếc lá.

Lâm Hưởng thoáng do dự rồi cũng nhảy theo, đúng lúc nghe tiếng ám khí rít trên đầu.

Trong khi rơi xuống, Lâm Hưởng bỗng có một cảm giác lạ lùng, tưởng như mình đang trở lại những ngày niên thiếu, không giao đấu giành giật ở Đông Xưởng, không đau đầu vì phá án, chỉ thấy mình tự do tự tại bay giữa núi rừng, xa xa là một bóng hình mảnh mai mờ ảo, giống con thú nhỏ trắng bạc trong mơ. Mải nghĩ ngợi nên tiếp đất lúc nào chẳng biết, may mà Lâm Hưởng phản ứng nhanh, kịp thời lăn mấy vòng nên chân tay không hề hấn gì.

Một bàn tay nhỏ nhắn lành lạnh vươn ra kéo Lâm Hưởng đứng lên. Gã ngẩng đầu, bắt gặp đôi mắt đẹp với ánh nhìn lo âu.

“Ta hơi lơ đễnh. Không sao đâu!” Lâm Hưởng nói.

Ngải Ngải đã yên tâm, kéo Lâm Hưởng chạy dọc chân tường thành bên bờ hồ. Lâm Hưởng ngẩng nhìn, trên mái lầu vẫn trống không.

Ngải Ngải chỉ vào một góc tòa thành cổ, rồi nhìn Lâm Hưởng, tay cô gái làm động tác “tấn công”. Lâm Hưởng ngạc nhiên nói, “Cô muốn ta đấm vào tường thành à?”

Ngải Ngải mỉm cười gật đầu.

Lâm Hưởng liền rùn người xuống tấn, tung quyền vào tường thành nham nhở lỗ chỗ, vận đủ công lực để đập vỡ gạch đá. Tường nứt toác, một mảng đá lớn rơi xuống đất, một lỗ thủng hình vuông mỗi chiều dài bằng cánh tay hiện ra.

Ngải Ngải thò tay vào, kéo ra một con thuyền nhỏ và hai mái chèo.

Lâm Hưởng vác con thuyền nhỏ ra ven hồ rồi đẩy xuống nước, Ngải Ngải nhẹ nhàng nhảy lên. Lâm Hưởng đã ra sát mép nước, nhưng vẫn chần chừ.

Cách đây không lâu, Lâm Hưởng đã đi thuyền khách trên sông Thanh An. Suốt chuyến đi, mặt gã tái nhợt, chân tay lạnh toát. Vì gã vốn sợ nước. Có người bảo, những ai mắc chứng sợ nước, thường là đã từng trải qua một lần suýt chết đuối. Nhưng Lâm Hưởng không nhớ lúc nhỏ mình đã suýt chết đuối chưa, có lẽ gã bẩm sinh sợ nước cũng nên?

Phía sau có tiếng hò hét, ba chưởng môn và đám đệ tử đã tới mái lầu và đang nhao nhao phi thân xuống. Lâm Hưởng biết không thể chần chừ được nữa, đành nhảy lên thuyền. Con thuyền nhỏ khẽ chao đi, Lâm Hưởng cũng hơi hoảng, khí huyết trong người đã chạy đi đâu hết, toàn thân lạnh toát. Ngải Ngải thoăn thoắt đưa mái chèo. Lâm Hưởng chững lại một lúc rồi cũng cầm mái chèo khua nhanh. Khi truy binh chạy đến nơi thì thuyền đã ra cách bờ một tầm tên bắn. Không ai đuổi theo họ nữa, rõ là vì một chốc một lát không thể kiếm đâu ra thuyền.

Lâm Hưởng thở phào, lúc này mới nhận ra hai chân mình vẫn run. Ngồi phía sau Lâm Hưởng, Ngải Ngải bỗng dừng chèo thuyền và giơ ngón tay viết một chữ lên lưng áo gã.

Lâm Hưởng gật đầu, “‘Đừng’ phải không?” Rồi gã ngoảnh lại, thấy Ngải Ngải nhoẻn miệng cười.

Ngải Ngải viết nốt cả câu: Đừng lo. Tôi thạo sông nước.

Lâm Hưởng gượng cười, “Nếu ta rơi xuống nước, cô sẽ nhảy xuống cứu ta à?”

Ngải Ngải gật đầu, rồi lại viết: Để đền ơn đêm nay cứu mạng.

Lâm Hưởng nói, “Không dám! Ta có công lao gì đâu? Tất cả là do cô sắp đặt.”

Ngải Ngải lại viết: Không phải kế của Ngải Ngải.

Lâm Hưởng vội hỏi, “Của ai? Ai giúp cô lập kế thoát thân này?”

Ngải Ngải do dự.

Lâm Hưởng bèn nói, “Không tiện thì thôi.” Bụng thừa biết là “lãng tử” mà bà Lý nhắc đến rồi.

Sao huynh lại giúp tôi, Ngải Ngải lại viết.

Lâm Hưởng cười, “Bọn họ đông người, hà hiếp một thiếu nữ, đương nhiên ta phải giúp đỡ. Họ dám đến thanh lâu giết người, đúng là bọn bất lương.”

Ngải Ngải viết: Xin hỏi quý danh?

Lâm Hưởng không nghĩ ngợi gì buột miệng nói, “Tại hạ Lâm Hưởng.” Lại hỏi, “Tại sao cô lại tin ta, cho ta biết bí mật về chỗ ẩn thân?”

Ngải Ngải cân nhắc hồi lâu mới viết: Tôi không nhẹ dạ cả tin đâu!

Thấy Lâm Hưởng chưa hiểu, Ngải Ngải tiếp tục viết ba chữ “Giá cô thiên” lên lưng gã.

À, tức là có thiện cảm chỉ vì cùng thuộc một bài từ? Nhưng Lâm Hưởng vẫn thú thật, “Thật ra ta chẳng rõ tại sao mình hát lên, cũng không nhớ mình đã nghe hay học bài từ ấy khi nào.”

Ngải Ngải không viết chữ nữa, mải miết chèo thuyền. Lâm Hưởng xoay người lại, đối diện với Ngải Ngải, “Bây giờ chúng ta đi đâu?”

Ngải Ngải giơ tay ra viết lên không trung một chữ. Lâm Hưởng cố nhớ lại các nét, thầm xoay cho xuôi chiều, nhận ra là chữ “lát”. Lát gì?

Ngải Ngải nhanh chóng viết nốt cả câu: Lát nữa sẽ biết.

Lâm Hưởng bật cười, không hỏi nữa, ngẫm nghĩ sau đây nên làm gì. Đưa cô gái này về kinh bằng cách nào? Ra tay điểm huyệt, trói lại nhét vào bao tải, tống lên xe ngựa chở về kinh thành, nhưng sau đó thì sao? Cô gái sẽ mất lòng tin vào gã, cũng như dễ đánh mất lòng tin vào con người. Lâm Hưởng lại nhớ đến lời dặn tùy cơ ứng biến của Nam công công. Mình không thể nôn nóng làm bừa. Ít ra cũng phải điều tra cho rõ tại sao lũ võ biền kia muốn bắt cóc cô gái đang ẩn cư lánh nạn này.

“Tại sao bọn họ lại tìm cô?” Câu hỏi đường đột, nhưng không thể không hỏi.

Với Lâm Hưởng, thông tin này sẽ giúp gã quyết định bước tiếp theo. Ngải Ngải lắc đầu, vẻ mặt ngơ ngác. Cặp mắt, hàng mi và đôi môi hơi nhếch lên cho thấy cô gái đang nói thật.

Ngải Ngải bỗng nhoẻn cười trỏ ra phía trước, Lâm Hưởng nhìn theo, vì hơi chóng mặt, phải cố tập trung một lúc mới nhận ra một mỏm đá xấu xí cao vài thước.

“Mỏm đá kia có điều gì thú vị à?”

Ngải Ngải gật đầu.

“Cô muốn dừng thuyền ở hòn đảo đó?” Lâm Hưởng cười, hỏi. Ngải Ngải lại gật đầu. Lâm Hưởng Tân thắt lưng lấy ra một phi trảo, móc vào con thuyền nhỏ và nắm chặt đầu dây kia. Cả hai nhảy lên mỏm đá gồ ghề. Lâm Hưởng thở phào nhẹ nhõm, gã không muốn lại phải ngồi thuyền nữa.

Trong đêm tối nhìn ra bốn bề, chỉ thấy mênh mông sông nước, chân Lâm Hưởng hơi bủn rủn. Ngải Ngải quỳ trên phiến đá, cúi đầu như đang tìm kiếm một báu vật đánh rơi. Lâm Hưởng hiếu kỳ nhìn theo. Ngải Ngải bỗng reo lên vui vẻ, “Ng... ng...” Và chỉ vào phiến đá.

Lâm Hưởng cũng ngồi thụp xuống nhìn, ánh trăng mờ mờ soi xuống hai chữ “Ngải Ngải” khắc trên đá.

“Tên của cô!”Lâm Hưởng khẽ kêu lên, rồi lại nhìn kỹ, hai chữ này không dùng dao, mà khắc bằng ngón tay. Hẳn là bút tích của một cao nhân. “Là người ấy, người đã giúp cô đào địa đạo, giấu sẵn con thuyền?”

Ngải Ngải mỉm cười gật đầu, dùng ngón tay viết chữ lên mặt đá: Đá ở dưới nước.

Lâm Hưởng hiểu ra, mỏm đá này vốn là đá chìm, hiện giờ mực nước xuống thấp thì nó mới lộ ra. Ngắm cô gái âu yếm vuốt ve con chữ, Lâm Hưởng bỗng nghĩ, bao giờ có đứa con gái thế này, mình cũng sẽ khắc tên nó với tất thảy dịu dàng.

Ngải Ngải bất thần ngẩng lên, Lâm Hưởng nhìn theo thì thấy, có ba con thuyền lớn đang lừ lừ tiến về phía họ. Gã quýnh lên, vội giục, “Chúng ta phải trốn đi ngay, may ra mới kịp!”

Ngải Ngải lắc đầu. Lâm Hưởng xoay người, nhận ra phía sau lại xuất hiện bốn con thuyền nữa, tạo thế gọng kìm bao vây. Không trốn vào đâu được nữa.

Mấy con thuyền lại gần. Trên thuyền lớn nhất, đèn đuốc sáng trưng, cột buồm treo lá cờ lớn vẽ một ngọn lửa đang bốc cháy, không phải màu đỏ mà là màu bợt bạt rờn rợn, trông giống một đóa hoa trắng bệch.

Lâm Hưởng khẽ kêu lên, “Bạch Liên Giáo!” Trong kho hồ sơ của Đông Xưởng có rất nhiều tư liệu về Bạch Liên Giáo, nhiều hơn cả tư liệu về Lý Sấm và Hậu Kim Mãn Thanh. Các nhân vật nổi danh trong Bạch Liên Giáo thạo dùng yêu thuật, võ công hết sức ma mị. Môn đồ của Bạch Liên Giáo nhiều vô kể, rải khắp năm sông bốn bể, nhưng diện mạo lại mịt mờ, chỉ nghe danh chứ không thấy mặt. Họ là thương nhân mở quán nơi phố xá, cũng là mãnh tướng trong ba quân, thậm chí len lỏi vào Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ. Bạch Liên Giáo thờ Di Lặc, đạo của họ là Quang Minh. Họ đã truyền đạo từ vài trăm năm trước, đệ tử đều u mê tin theo như bị ma ám. Suốt trăm năm nay Bạch Liên Giáo liên tục khởi nghĩa, tuy bị triều đình trấn áp nhưng giáo dân vẫn điên cuồng xông pha nơi chiến trường.

Gần đây triều đình trấn áp mạnh tay, họ buộc phải hành sự kín đáo hơn, không nghênh ngang mà cũng ít mang danh nghĩa Bạch Liên hơn. Cho nên đêm nay, Bạch Liên Giáo điềm nhiên giương cờ thế này không khỏi khiến người ta rùng mình.

Con thuyền lớn đi đầu từ từ đến gần mỏm đá. Thuyền cao hơn một trượng, đèn đuốc sáng rực, hai người chỉ nhìn thấy mấy bóng đen dịch chuyển ở mũi thuyền. Lâm Hưởng lo lắng, biết rằng lúc này nếu họ bắn tên từ trên đó xuống thì gã và Ngải Ngải sẽ không sao tránh được. Xem ra, người trong võ lâm dốc sức tìm kiếm là nhằm bắt sống Ngải Ngải cho bằng được. Lâm Hưởng đoán rằng, chưởng môn các phái lớn bị giật dây là do trúng tà thuật hoặc bị Bạch Liên Giáo bắt thóp, nắm được điểm yếu nên mới phải làm tay sai một cách bất đắc dĩ như vậy.

Con thuyền từ từ lướt đến, một tấm ván dài bắc làm cầu dẫn xuống mỏm đá nhỏ. Lâm Hưởng nhìn theo tấm ván, đầu kia gác lên mạn thuyền, một toán người xếp hàng ngang, tay cầm đuốc, lưng giắt đao kiếm hoặc đeo cung nỏ.

Tùy cơ ứng biến. Lâm Hưởng nói, “Chúng ta phải lên thuyền, không còn lựa chọn nào khác.” Lâm Hưởng liếc nhìn Ngải Ngải, nhưng cô gái chỉ mím môi, không biểu hiện gì. Gã lại nói, “Đừng lo, cứ đi sau ta.” Rồi đặt chân lên tấm ván. Bóng người vụt qua, thì ra Ngải Ngải đã tranh đi lên trước. “Ngải Ngải... cô...”

Ngải Ngải ngoái lại, trỏ hết con thuyền đến mình, đến Lâm Hưởng, rồi xua tay, sau đó trỏ mỏm đá hiếm khi trồi lên đó.

Lâm Hưởng ngẫm nghĩ, rồi hỏi, “Họ cần tìm cô chứ không phải ta. Cô bảo ta ở lại mỏm đá này à?”

Ngải Ngải gật đầu.

Lâm Hưởng cười, “Ngải Ngải, hai chúng ta ngẫu nhiên quen nhau vì một bài từ, rồi cùng gặp cảnh ngộ kỳ quái nguy hiểm đêm nay, chẳng rõ do cơ duyên vận số nào? Từ lúc cô bỏ mũi kiếm sau lưng ta xuống, ta đã hạ quyết tâm phải bảo vệ cô bằng được. Ta đâu thể để mặc cô đi vào chốn hiểm nguy này?” Nói rồi gã tung mình nhảy vọt lên trước Ngải Ngải.

Họ đã đến cuối tấm ván. Đám người xếp hàng đứng đó giãn ra nhường đường. Một gã trung niên to vâm chít khăn đỏ cất cao giọng, “Quý nhân mời Viên tiểu thư lên lầu!” Giọng vang như tiếng chuông đồng.

Lâm Hưởng quan sát đám người trên thuyền, tất cả mặc áo dài trắng, ống tay thụng, có vài người đầu chít khăn đỏ, số còn lại thì chít khăn trắng. Một số người mặc quần áo bình dân đứng nép ở đuôi thuyền, chắc là các thủy thủ được thuê.

Lâm Hưởng nhìn lên, thuyền có hai tầng, tầng trên đang châm thêm đèn đuốc, ánh sáng soi rõ cả bốn người chít khăn đỏ đứng ngoài khoang thuyền, gồm ba nam một nữ, sắc mặt vô cảm, tay cầm phất trần, mình mặc áo gấm, hơi khác đám Bạch Liên Giáo ở tầng dưới. Theo tư liệu của Đông Xưởng thì đây là trang phục cho các trưởng lão. Họ gọi “Viên tiểu thư”, khiến Lâm Hưởng sực nhớ cô gái mà gã quyết tâm bảo vệ vốn là tội phạm triều đình, xuất thân không tầm thường. Có lẽ đây sẽ là thứ vũ khí bí mật giúp gã thăng tiến ở Đông Xưởng.

Lâm Hưởng dừng dòng suy nghĩ lan man, lạnh lùng hỏi, “Ai muốn gặp Viên tiểu thư? Các người thuê đám võ lâm tìm Viên tiểu thư, gây chuyện bất nghĩa. Làm sao chúng ta biết lên lầu có gặp nguy hiểm hay không?”

“Hai người tất nhiên không biết.” Gã trung niên thô mập cười nhăn nhở. “Trên đó có nguy hiểm hay không, còn phải xem Viên tiểu thư ngoan ngoãn đến đâu.”

Lâm Hưởng lại hỏi, “Quý nhân của các người, là thần thánh phương nào?”

Một giọng nữ từ tầng trên vọng xuống, là một trong bốn người mặc áo gấm và cầm phất trần, “Vô Cực Thánh Mẫu, giáo chủ nương nương giá lâm! Người phàm tục muốn quy y thì phải quỳ lạy để nhận ân điển!”

Lâm Hưởng kinh ngạc, rồi cười phá lên. Mấy gã Bạch Liên Giáo lập tức rút kiếm. Gã trung niên gắt gỏng, “Dám sỉ nhục giáo chủ, phải bị xử tử!” Dứt lời, gã vung rìu lăm le bổ Lâm Hưởng.

Lâm Hưởng cười nhạt, nhưng không rút kiếm, chỉ khẽ né người tránh, “Ta cười vì e các người đã chọn nhầm chủ nhân, tung hô một giáo chủ nương nương giả mạo!”

“Dừng tay!” Một lão già áo gấm ra lệnh. Gã trung niên cầm rìu nhảy lùi lại một bước, thu mình đứng im. Lâm Hưởng cũng không tấn công, chỉ lạnh lùng nhìn lên tầng.

Lão già hỏi, “Các hạ là ai? Sao biết giáo chủ nương nương là thật hay giả? Các hạ nên hiểu, giáo chủ Bạch Liên Giáo là người khai thiên lập địa, là thân truyền của Vô Sinh Lão Mẫu, nằm được Cửu đạo kỳ môn độn giáp, linh thuật thần công, là thủ lĩnh được mười tám chi giáo phái suy tôn, quân phàm tục như các người biết sao được?”

Lâm Hưởng thoáng nghĩ ngợi, rồi đáp, “Tại hạ chỉ là dân võ biền bình thường được Viên tiểu thư thuê làm hộ vệ, nhưng ?