Chương 19 Manh mối
Rượu Nhất giang thu chính cống màu vàng đã rót vào chén sứ trắng tinh, nhưng đôi mắt vằn tia máu đỏ của Mạc Tông Trạch vẫn không nhận ra. Cái đầu như hóa đá của ông chỉ mải nghĩ một điều, có nên uống hay không?
Xác phụ nữ thứ hai phát hiện ra sáng sớm nay, là tiểu thư nhà họ Lư bề thế trong thành Giang Kinh. Họ Lư có người thân thích làm quan to ở kinh thành, cho nên nha môn phải chịu áp lực lớn. Tung tích của lão Khâu thì mịt mù. Các bổ khoái tay nghề còn non đều cho rằng, kẻ gây án vẫn là Đoạn Chỉ Ma lặn mất tăm suốt mười tám năm qua. Xác thiếu nữ bị xén gọn một ngón tay trỏ, chẳng phải y thì ai? Đoạn Chỉ Ma đã giết vợ Mạc Tông Trạch, là kẻ thù vĩnh viễn, là bóng ma ám ảnh ông, hai chục năm nay ông chưa thể thực hiện tâm nguyện tự tay kết liễu y. Cô độc, không biết trông cậy vào đâu, chỉ có Nhất giang thu là “người bạn” duy nhất.
Mấy hôm trước bên hồ Chiêu Dương xuất hiện thi thể các cao thủ võ lâm, cộng với tin đồn về kho báu Bá Nhan, Thiên thư của Thành Cát Tư Hãn, khiến Mạc Tông Trạch đang mải phá án tạm lãng quên “người bạn” này. Nhưng vết thương ở chân nhức nhối khó chịu, nhất là việc Đoạn Chỉ Ma trở lại gây án, khiến ông lại sa vào vực sâu đầy cám dỗ ấy. Rượu này, nên uống hay thôi? Chưa tìm ra câu trả lời thì men nồng đã tràn xuống bụng, không phải một chén mà là cả vò.
Đoạn Chỉ Ma, đến đây, ta và ngươi sẽ tử chiến một phen!
Chủ quán, đem cho ta vò nữa... mau lên!
“Bổ đầu!”
Gọi cái quái gì thế? Sợ ta không trả tiền hay sao?
“Không ạ! Liêu bổ khoái đã dặn dò...”
Liêu bổ khoái là cái thá gì? Ở Giang Kinh này, ai là bổ đầu?
Vò rượu thứ hai đã cạn, trên bàn, đương nhiên biến thành ba bốn vò... Mạc Tông Trạch đưa tay ra cầm, chưng hửng. Sao thế? Bàn tay biến thành hai ba bốn bàn tay! Tiểu tử chạy bàn nói gì đó, chỉ thấy vo ve như tiếng muỗi kêu, rồi lại oang oang như tiếng sấm. Vì thế Mạc Tông Trạch không để ý thấy cửa gỗ quán rượu mở toang, hai ngư dân bước vào, gọi rượu và đồ nhắm. Không lâu sau đó, trước khi chìm vào giấc ngủ, ông loáng thoáng nghe hai tửu khách to nhỏ với nhau.
“Bữa này ngươi trả tiền nhé! Ta hơi túng, đêm qua không ngủ, hôm nay lưới lại rách, chẳng có thu hoạch gì.”
“Đêm qua làm sao? Nương tử không cho ngủ à?” Tiếng cười ranh mãnh.
“Nếu thế thì đã tốt. Nàng ngủ say như chết...” Giọng càng thấp hơn, “Ta đã nhìn thấy thứ đó, thuyền câu mạng ấy, trên mặt hồ...”
“Hả? Liệu có nhìn nhầm không?”
“Bấy giờ thuyền khá gần bờ, ta liền chạy ra nhìn kỹ, kẻ trên thuyền đội nón lá, mặc áo tơi, cầm cần câu. Không nhìn nhầm đâu.”
Tiểu nhị bước lại bàn thu dọn vò chén của Mạc Tông Trạch, tay bỗng bị tóm chặt. Viên bổ đầu giống như xác chết sống lại, nói giọng khàn khàn, “Đi... gọi... Liêu Nhất Kiệt...”
Đêm thứ nhất, mặt hồ êm ả phẳng lặng. Cho đến lúc phương Đông trắng bạch vẫn không thấy pháo sáng bay lên, cho thấy bóng dáng quỷ sứ câu mạng không viếng thăm mặt hồ Chiêu Dương. Đêm thứ hai, A Kiệt canh chừng ở bờ hồ phía Tây, đang ngủ gật bỗng bị Đào Đại gọi giật, “Thấy rồi! Xuất hiện rồi!”
Họ bố trí canh gác là vì muốn kiểm chứng tin đồn nhảm, muốn tận mắt nhìn thấy người mặc áo tơi buông cần nhưng không câu cá kia.
Trước khi Tiểu Hồi Hương và Lư tiểu thư bị hại, có người nhìn thấy thuyền câu nhỏ trên hồ. Trước đó nữa, liên tục xảy ra nhiều vụ án bí hiểm, thì cũng có nhiều người dân nhìn thấy hiện tượng ngồi thuyền câu kỳ quái. Các bổ khoái hiếm khi tin chuyện dị đoan, Mạc bổ đầu lại càng không sợ quỷ thần, nên đêm xuống liền cho người ra túc trực.
Đêm qua chẳng thấy gì, đêm nay vốn cũng không trông mong, vì thế Đào Đại thoạt tiên cả mừng, rồi sau là kinh hãi, bởi lẽ người mặc áo tơi ngồi thuyền đã xuất hiện thì bọn họ phải chạy đến điều tra tận nơi. Nhưng Đào Đại và A Kiệt là hai bổ khoái tép riu, nếu người mặc áo tơi là Đoạn Chỉ Ma thì sao? Dưới ánh trăng lưỡi liềm mờ nhạt, con thuyền cô độc ngập tràn tà khí.
“Thông báo đi!” Đào Đại rút pháo sáng ra. Thượng cấp đã dặn dò, nếu thấy đối tượng thì lập tức bắn pháo sáng để báo tin cho đồng liêu các khu vực.
A Kiệt nói, “Chỉ e sẽ đánh động y.” Mạc Tông Trạch cũng biết nỗi lo của A Kiệt, ông từng dặn, thà mất manh mối còn hơn để các huynh đệ bổ khoái gặp nguy hiểm.
“Chúng ta tiếp cận đã, nếu thấy nguy cơ thì báo tin cũng được.”
“Ngươi điên rồi à?” Đào Đại lắc đầu.
A Kiệt nói, “Không. Con thuyền nhỏ kia là manh mối duy nhất lúc này, hồ rộng trăm dặm, các huynh đệ nha môn chỉ có vài con thuyền bé tẹo, tay chèo và tài bơi lặn cũng tầm tầm, nếu đánh động quá sớm thì y sẽ trốn mất tăm. Cứ nên tiếp cận xem sao, dù không thể bắt sống, ít ra cũng nhìn rõ hơn.”
Đào Đại nghiến răng ken két, nghĩ ngợi rồi nói, “Được, thử nghe ngươi lần này. Nhưng nếu thấy cấp bách, ta nhất định sẽ báo động.”
“Hay lắm! Chúng ta đi thôi!”
Cả hai chèo thuyền ra khỏi bãi lau sậy, tiến về phía kẻ câu cá trên con thuyền kia. Kẻ ấy ngồi quay lưng lại phía họ. Không rõ là nam hay nữ, già hay trẻ, nhưng trông dáng vẻ lù rù chậm chạp thì không thể còn trẻ. Con thuyền nhỏ của hai bổ khoái dần tiến lại, thấy thuyền câu đêm chỉ hơi bồng bềnh tại chỗ. Khi đã đến gần người mặc áo tơi, A Kiệt khẽ bảo Đào Đại chèo vòng lên phía mũi thuyền câu để nhìn cho rõ mặt mũi người ấy. Thuyền của hai người đã lọt vào tầm mắt của đối phương, chiếc áo tơi và cái nón lá vẫn không động đậy, chỉ khẽ nhấp nhô theo con thuyền, thực quái dị hết mức.
Hai bổ khoái lòng bàn tay nhớp nháp mồ hôi, quên béng bảo nhau bắn pháo sáng báo hiệu, cứ từ từ chèo thuyền lại gần hơn nữa, toàn thân căng như dây đàn, tỉ mỉ quan sát động thái của đối phương. Con thuyền tới gần, hai mũi thuyền khẽ đụng vào nhau. Người mặc áo tơi như không hay biết, vẫn lặng lẽ nắm cần câu, cần dài chĩa ra giữa không trung, nhưng... không thấy dây câu. Có dây câu hay không? Ít ra là cả hai bổ khoái đều không nhìn thấy.
Mặt người ấy khuất dưới vành nón lá to. A Kiệt bảo Đào Đại giữ thuyền cho vững, còn mình đứng ở mũi thuyền, tay rút kiếm, gọi to, “Này lão huynh, phủ Giang Kinh đã ban lệnh, bất cứ thần thánh phương nào cũng không được đến hồ Chiêu Dương đánh bắt cá sau giờ Hợi, nếu vi phạm sẽ bị trị tội trộm cắp. Ta châm chước vì đêm nay lão huynh vi phạm lần đầu, nhưng phải xưng rõ họ tên địa chỉ để ghi vào sổ. Nếu lần sau tái phạm nhất định sẽ mạnh tay xử lý.” Nói câu cuối cùng, giọng A Kiệt run run.
Người mặc áo tơi vẫn bất động, chỉ cười nhạt. Nhưng nghe cho kỹ thì hình như không phải cười nhạt, mà là tiếng gió thổi vào áo tơi. A Kiệt chĩa trường kiếm vào ngực đối phương, “Yêu cầu ông cho biết họ tên, lai lịch! Nếu không, sẽ bị giải đi gặp quan ngay lập tức!” Mũi kiếm của A Kiệt cũng run run. Vẫn không trả lời.
Đào Đại cũng thấy lạ, hơi nhổm người lên nhìn, “Ông ta... vẫn thức đấy chứ, hay là ngủ rồi?”
A Kiệt khẽ đụng mũi kiếm vào vai người ấy, không thấy phản ứng gì, bèn đánh bạo dùng kiếm gảy nón lá ra. Một cái đầu lâu! Quá thảng thốt, cả hai bổ khoái cùng ngã phệt xuống khiến thuyền suýt lật. Đào Đại run lẩy bẩy bắn pháo sáng lên trời, cảm giác lửa bỏng rát cả bàn tay.
A Kiệt từ từ ngồi dậy rồi lại ngả người tới, giơ kiếm ra.
Đào Đại vội níu lại, “Đừng! Cứ chờ đã... chờ viện binh... họ sẽ đến ngay thôi.”
Dưới bầu trời đêm nặng nề, mấy con thuyền nhỏ dần dà chèo tới.
A Kiệt nói, “Chỉ là cái đầu lâu, có gì đáng sợ?”
“Không sợ á? Sao chân ngươi run bắn thế kia?”
A Kiệt giơ kiếm lật cái áo tơi. Bên trong là một bộ xương hoàn chỉnh.
Đào Đại lết dần về phía đuôi thuyền. A Kiệt chăm chú nhìn bộ xương, sợ hãi dần biến thành tò mò, gã lẩm bẩm, “Cân câu... tì vào mạng sườn! Ha ha... có cả dây câu! Gì mà buông cần không dây, chỉ giỏi đồn nhảm.”
“Có dây câu thật à?” Đào Đại lại đứng dậy, cố trụ vững.
A Kiệt thận trọng nhấc cần câu khỏi mạng sườn bộ xương, “Nhìn đi! Có dây câu thật mà!” Rồi gã đắc ý quăng dây câu, động tác quá mạnh làm nghiêng thuyền, lại suýt nữa bị lật.
“Ngươi làm cái gì thế?” Đào Đại sợ quá hét to.
A Kiệt ngoảnh lại, mặt tái nhợt, “Dây này... câu được cá... câu được thứ gì đó...”
Đào Đại nắm cần câu. Đúng thế, nặng trĩu, có một vật đang mắc vào dây.
“Có lẽ... bộ xương khô này câu được cá chăng!”
Đào Đại lại giật mạnh cần câu. Nếu đúng là cá thì loài cá này ngoại cỡ rồi! Nặng ghê gớm, sức trai tráng như gã mà không thể nhấc lên khỏi mặt nước.
A Kiệt đưa cả hai tay ra nắm dây câu, “Ta cùng kéo nào!”
Đào Đại hơi do dự, “Nhưng...”
Phía xa có ánh lửa tiến đến và tiếng hò hét vang khắp mặt hồ bao la. “Hai người bắt được ai rồi?” Giọng Đàm Kính Đức.
Đào Đại nói, “Hay là ta chờ họ đến rồi hẵng kéo lên?”
A Kiệt cười nhạt, “Ngươi sợ à?”
“Ngươi sợ thì có! Đã nhìn thấy đầu quỷ Vô Thường rồi thì còn sợ gì nữa?” Đào Đại cũng nắm lấy dây câu. Cả hai bổ khoái cùng vận sức kéo từng ít một, “con cá ngoại cỡ” thò đầu lên. Lúc này thuyền của Đàm Kính Đức đã đến gần, y đang đứng giữa thuyền, tay cầm đuốc, đầu và cuối thuyền là hai bổ khoái trẻ đang chèo cật lực.
Ánh lửa soi tỏ mặt hồ và con cá mắc vào dây câu.
“Ối...” A Kiệt và Đào Đại đồng thanh kêu rồi cùng ngã sấp xuống. Cú ngã quá mạnh khiến con thuyền nhỏ bị lật, cả hai lăn nhào xuống nước.
“Kéo tôi lên, kéo tôi lên!”
“Không ở trong nước này được!”
Cả hai bổ khoái đều bơi lặn tốt, chỉ là đang quá hoảng loạn.
Thuyền Đàm Kính Đức đã xáp lại ngay bên, họ chìa mái chèo ra kéo cả hai lên thuyền. Cả bọn hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy bộ xương ngồi thu lu trên con thuyền lạ.
A Kiệt gọi to, “Mau kéo cần câu! Cẩn thận nhé!”
Hai bổ khoái trẻ làm ngay. Rồi lại có tiếng kêu kinh hãi. Cả hai ngã phệt xuống thuyền vì sợ hãi, dù đã được A Kiệt cảnh báo.
Đàm Kính Đức thầm nguyền rủa “Lũ ăn hại”. Y đưa đuốc cho Đào Đại, sau đó giằng lấy cần câu kéo thật mạnh. Cả bọn kêu lên “Cẩn thận”, nhưng Đàm Kính Đức không nghe thấy nữa. Mắt y trân trối nhìn cái đầu người trắng nhợt rộp nước với mái tóc đen dài tơi tả ở dây câu. Dù mặt mũi nạn nhân đã trương phềnh, các bổ khoái đều nhận ra, bộ xương khô mặc áo tơi vừa câu được một phụ nữ. Đó là Bùi Tố Nương, người đứng đầu tiêu cục [*] Hưng Viễn của phủ Giang Kinh.
(ct): * Tổ chức chuyên chở, áp tải, bảo vệ hàng hóa. Tương tự như các đại lý vận tải giao nhận hàng hóa (đường thủy/bộ/không) ngày nay.
Bùi Tố Nương hồi trẻ được giang hồ gọi là “Ngọc Na Tra”, đấu trên ngựa thì dùng nhuần nhuyễn trường thương và thiết bảng, chiến dưới đất thì thế mạnh là lụa đỏ với song đao. Dân trộm cắp đều phải nể sợ, cũng vì thế mà tiêu cục Hưng Viễn làm ăn rất phát đạt. Nay đã qua tuổi trung niên, bà không còn nhận áp tải hàng nữa, nhưng việc làm ăn và điều phối người trong tiêu cục vẫn do một tay bà quán xuyến. Bùi Tố Nương là nữ cao thủ trong giới võ lâm Giang Kinh, nên cũng không có gì lạ khi bà trở thành mục tiêu của Đoạn Chỉ Ma. Đúng là Đoạn Chỉ Ma, vì ngón trỏ Bùi Tố Nương đã bị cắt gọn!
Còn bộ xương ngồi trên thuyền, nó ở đâu ra? Các bổ khoái đều mù tịt. Gần đây, trọng án bế tắc đã là chuyện cơm bữa ở nha môn Giang Kinh. Xác bị hủy hoại nghiêm trọng, không có ngỗ tác tài giỏi khám nghiệm, cái chết của Bùi Tố Nương tiếp tục trở thành điều bí ẩn.
Các bổ khoái, kể cả Mạc Tông Trạch đều không thể xác định thương tích là do binh khí gì gây ra, đâu là vết thương chí mạng. Với thương pháp và đao pháp siêu hạng của Bùi Tố Nương, chỉ đôi ba người ở Giang Kinh đủ tầm đối mặt, trước khi chết, liệu có trận ác đấu nào không? Về việc khám nghiệm tử thi, ngoài ngỗ tác và bổ đầu ra, chỉ có Đàm Kính Đức là tương đối khá khẩm. Nhưng y cũng đau đầu bế tắc, cuối cùng đành rời hầm chứa xác, đi lên phòng của ngỗ tác phía trên.
“Đàm sư phụ!”
Tiếng gọi bất ngờ khiến Đàm Kính Đức giật mình.
Ánh sáng trong phòng yếu ớt, sắc mặt A Kiệt càng ảm đạm. Đàm Kính Đức thở dài, “Mấy hôm nay xúi quẩy quá nhỉ.” Người can đảm cũng hãi hùng nhụt chí nữa là gã trai trẻ mới vào nghề.
“Không sao!” A Kiệt nói, “Nhân đây đệ muốn thỉnh giáo Đàm huynh một việc.”
Đàm Kính Đức ngán ngẩm, lại thế rồi! Khắp nha môn ai chẳng biết tâm bệnh của A Kiệt.
Quả nhiên gã hỏi, “Mẹ đệ... chết như thế nào?”
Đàm Kính Đức im lặng, nghĩ ngợi hồi lâu tôi mới nói, “Có lẽ... đệ đã biết, mẹ đệ...”
“Mẹ đệ là người học võ, đệ biết. Võ công của bà không tồi, bà còn là nữ bổ khoái duy nhất cho đến nay ở phủ Giang Kinh.” A Kiệt nghẹn ngào, mắt rớm lệ.
Đàm Kính Đức bối rối, thầm nhẩm tên chiến hữu khi xưa, Liêu Kiếm Phàm, đệ biết trả lời con trai huynh thế nào đây? Y đành nói, “Chắc là đệ thấy... Bùi Tố Nương bị Đoạn Chỉ Ma giết... nên đã liên tưởng đến mẹ... bà ấy cũng là bậc nhi nữ anh hùng...”
“Huynh cứ nói thẳng ra đi, có phải mẹ đệ bị Đoạn Chỉ Ma sát hại không?”
Đàm Kính Đức lắc đầu dứt khoát, “Không, không phải! Ta đã xem thi thể bà ấy, một nhát kiếm cứa cổ, xác không bị hủy hoại, ngón tay còn nguyên vẹn. Chỉ riêng thế thôi, ta cũng sẽ kết luận là tự tử...” Y húng hắng ho, rồi ưỡn thẳng lưng.
Nhận ra nét do dự của Đàm Kính Đức, A Kiệt lại hỏi, “Rồi sao nữa? Huynh cứ nói đi!”
“Nói bừa là không tốt.” Đàm Kính Đức thực sự lúng túng.
“Bất chấp khám nghiệm thế nào, huynh cũng không cho là mẹ đệ tự sát, đúng không?” A Kiệt đánh bạo nói hộ, “Mẹ đệ luyện võ nên tính tình cứng cỏi, không thể nông nổi mà tự sát, đúng không?”
Đàm Kính Đức đáp, “Chưa chắc! Ai đó dù can đảm kiên cường đến mấy, gặp cơn hiểm nghèo cũng rối loạn tâm trí. Lã bổ đầu đấy, một hảo hán thép gang có thừa đã trải bao sóng gió ở Đông Xưởng mà còn phải đau đầu buốt óc về vụ án Đoạn Chỉ Ma. Ông ấy nốc rượu vô tội vạ, chính mình là ai cũng không nhận ra nữa. Khi đó cha đệ bị Đoạn Chỉ Ma... cha đệ có đòn chân vô địch Giang Kinh, thế mà lại bị cụt chân, tuyệt vọng biết nhường nào. Đoạn Chỉ Ma thì điên cuồng gây án, đông đảo bổ khoái lo giữ mình còn không xong, vô hình trung tạo thành áp lực lớn, bổ khoái nào mà chẳng rối bời suy sụp, rồi làm những việc kỳ cục...”
“Nhưng mẹ đệ...” A Kiệt bỗng cảm thấy thật ra mình chưa hiểu gì về mẹ.
Đàm Kính Đức thở dài, “Đúng, đúng là ta không tin rằng mẹ đệ tự sát. Bởi vì... ta đã nhiều lần chứng kiến bà ấy nhìn đệ bằng ánh mắt dịu hiền đằm thắm. Ta tin rằng vì con trai, không bao giờ bà ấy từ giã cõi đời, để nó phải bơ vơ khi còn nhỏ như thế.”
Tối hôm đó A Kiệt lại đến quán rượu Giang Tả. Lần đầu tiên không phải để tìm bổ đầu mà để tìm men say. Cũng là lần đầu tiên gã biết rằng, muốn say để quên đi mọi nỗi buồn phiền không phải chuyện dễ. Vì không biết uống rượu, nên chưa cạn chén thứ ba, A Kiệt đã quặn bụng, nôn thốc nôn tháo toàn dịch vị, mà đầu óc vẫn cứ tỉnh táo. Gã tiếp tục uống, tiếp tục nôn... cho đến khi tiểu nhị không chịu nổi nữa, tống cổ “quý khách” ra ngoài, bên tai gã vẫn văng vẳng mấy câu nói của Đàm Kính Đức. Phí hoài tiền rượu, người mệt rũ, lơ mơ.
Gã loạng choạng đi về nhà. Một người phóng ngựa đi qua bên cạnh, A Kiệt cũng không để ý. Lát sau mới nhớ ra người ấy trông rất quen, chính là Mạc bổ đầu! Bổ đầu đau chân chưa khỏi, sao lại đi đâu lúc nửa đêm thế này? Hay là lại có vụ án mới, xác chết mới xuất hiện? Không. A Kiệt nhìn đường phố vẳng tanh, cười hì hì. Không phải! Nếu thế thì ông ấy sẽ dừng lại gọi mình cùng đi xem xét.
Về đến nhà, A Kiệt đẩy cửa bước vào và giật mình, sao cửa để toang hoang thế này? Thường thì nhà không khóa cửa, nhưng sập tối cha gã vẫn khép cửa lại.
“Cha ơi, con đã về!” A Kiệt chợt nhớ ra, lúc nãy trên đường, mình quên chưa nghĩ sẵn lý do tại sao lại về khuya. Liêu Kiếm Phàm nhàn tản ở nhà bao năm thật, nhưng ông vẫn có tai mắt ở nha môn, nếu bịa đặt là đi điều tra phá án thì sẽ lộ ngay, mùi rượu nồng nặc thế này lại càng khó giải thích. Không sợ, mình sẽ hỏi thẳng cha, mẹ đã chết như thế nào. Nếu ông không cho tôi biết sự thật thì tôi sẽ đi khỏi ngôi nhà nặng nề âm u này luôn! Mình có thể nói thế không? Đây là nơi mình sinh ra và lớn lên, cha què chân mà nuôi mình đến ngày nay, mình dám nói như thế với cha hay sao?
Nhưng, mẹ đã chết như thế nào?
A Kiệt lại gọi to. Vẫn không thấy tiếng trả lời. Phòng ngủ của Liêu Kiếm Phàm trống không, phòng ngủ của A Kiệt cũng vậy. Nhìn cái giường, cảm giác say rượu dâng lên, A Kiệt nằm vật ra rồi ngủ lịm đi.
Không biết ngủ mất bao lâu, A Kiệt bỗng mở choàng mắt vì những tiếng sột soạt đơn điệu vọng đến. Ở nhà này, gã đã quen với tiếng gắt gỏng của cha, tiếng chân ghế lộc cộc dịch chuyển trên nền gạch, tiếng cười đùa của chính mình, nhưng chưa bao giờ nghe thấy tiếng sột soạt này. Gã loạng choạng bước lại gần ô cửa sổ chưa đóng chặt, nhìn qua tấm rèm. Dưới ánh trăng tà, đèn soi yếu ớt, cha gã đang cúi xuống ra sức lau cái ghế gỗ chưa bao giờ rời xa ông. Thông thường, A Kiệt sẽ chạy ra bế ông vào nhà và đặt lên giường, nhưng đêm nay có vẻ khác thường. Đêm nay ông đi đâu, tại sao lại cọ ghế vào lúc khuya khoắt thế?
Gã đứng im một lúc, nhìn Liêu Kiếm Phàm cọ xong ghế, vứt cái bàn chải xuống, cầm gáo múc nước giội ghế, rồi giội sân. Ông ngó nhìn một lượt, vẻ hài lòng, rồi đặt ghế ngay ngắn, ngồi lên trên, nhấc cây đèn dưới đất và trở vào nhà.
A Kiệt quay vào buồng ngủ nhưng không sao ngủ được nữa.
Hôm sau, trời vừa sáng, A Kiệt bước ra sân, chỗ ang nước. Nước giội đã khô, không thấy dấu vết gì khác thường, trên mặt đất chỉ có chiếc bàn chải lông bờm ngựa đêm qua cha dùng. Gã cúi xuống nhặt nó lên nhìn kỹ, sống lưng bỗng lạnh toát.
Giữa đám lông bàn chải, két lại những đốm máu khô.