Chương 20 Tiên Tử
“Cha...” A Kiệt hơi do dự, rồi nghĩ rằng không cần thiết phải rào trước đón sau, “Đêm qua cha đi đâu?”
Lúc này mặt trời đã lên cao, ánh nắng chói chang chiếu khắp khoảnh sân lát đá. Liêu Kiếm Phàm không trả lời con trai, ông ngồi bên rãnh nước ở góc sân rửa mặt, xong đưa hai tay vịn ghế nhỏm dậy, ngồi lên rồi mới nói, “Tối qua con đi đâu?”
“Con uống chút rượu, không phải lỗi lầm gì to tát chứ?”
Liêu Kiếm Phàm nói, “Cha ra ngoài đi dạo, cũng không phải lỗi lầm gì to tát chứ?”
“Nhưng xưa nay buổi tối cha không bao giờ ra ngoài.” Ấy là chưa nói đến máu me be bét, A Kiệt định hét lên, nhưng Liêu Kiếm Phàm đã hét trước, “Xưa nay con không hề uống rượu!”
A Kiệt thừ người, “Được! Cha không định nói rõ thì con nói. Tối qua lần đầu tiên con uống rượu, vì con vẫn canh cánh một điều, mẹ con đã chết như thế nào? Mười tám năm rồi, chẳng lẽ con vẫn không nên biết sự thật về cái chết bi thảm của mẹ mình?”
Liêu Kiếm Phàm nín lặng, rồi bắt đầu di chuyển cái ghế. Khoảnh sân nhỏ vang lên tiếng lộc cộc đơn điệu. “Ai nói mẹ con chết bi thảm?” Ông đã bình tĩnh trở lại, giọng nói nhẹ nhõm như bình thường, “Phần lớn người đời đều thế cả, bất luận đúng sai thế nào, chỉ tin ở cách nghĩ của mình. Mẹ con chết, thực đáng buồn nhưng không bi thảm hay kinh khủng gì cả. Không chỉ mình cha nhìn thấy thi thể bà ấy. Con cứ đi hỏi những người khác mà xem.”
“Tại sao cha không cho con biết, mẹ con giỏi võ công, là nữ bổ khoái đầu tiên của phủ Giang Kinh? Chắc chắn cha đã đọc hồ sơ các vụ án do Lã bổ đầu lập ra năm xưa, Đoạn Chỉ Ma gây án ngày càng táo tợn, ngày càng khó ngăn chặn, giết cả vợ mới cưới của Mạc bổ đầu, rồi một người đầy bản lĩnh như mẹ con, y cũng không tha.”
Liêu Kiếm Phàm cười nhạt, “Lã bổ đầu luôn tự cho rằng mình đã nắm bắt được tâm trạng ý đồ của Đoạn Chỉ Ma, nhìn xem kết cục của ông ấy ra sao? Ngày nay Đoạn Chỉ Ma lộ diện, lẽ nào y lại hành động giống như Lã bổ đầu suy đoán? Cha khuyên con không nên bận tâm nữa. Hiện nay các vụ hung án ở phủ này đang chất cao như núi, không phá nổi một vụ nào, thế mà con vẫn cứ nghĩ đến chuyện nhỏ của nhà ta mười tám năm trước, không thấy hổ thẹn à?”
A Kiệt bỗng gầm lên, “Bao năm trôi qua vẫn không có gan kể cho con trai biết về cái chết của vợ mình! Bà ấy đường đường là một nữ hào kiệt, chỉ vì chồng bị thương mà nỡ tự sát bỏ lại chồng con hay sao? Cha sợ cái gì? Cha đang sợ cái gì? Sợ con nghe rồi không chịu đựng nổi hay sợ chính mình không chịu đựng nổi?”
“Đồ khốn!” Liêu Kiếm Phàm đập một chưởng thật mạnh vào cái ghế gỗ đang ngồi, ghế kêu răng rắc rồi gãy sập. Ông cũng ngã phệt xuống đất, trợn mắt nhìn đứa con trai nổi giận sập cửa bỏ ra ngoài.
Mặt trời mang theo ánh vàng rơi rớt lặn dần xuống sườn núi phía Tây xa lắc sau hồ Chiêu Dương. Tiếng trống trên lâu thành uể oải vang lên, nhắc nhở dân chúng đang mải làm ăn chỉ còn nửa canh giờ nữa sẽ đóng cổng thành. Liêu Kiếm Phàm nói, thành Giang Kinh xưa kia chẳng bao giờ phải đóng cổng. Thời nay đạo tặc giặc giã, đêm hôm thường xảy ra cướp bóc, sớm đóng cổng thành là chuyện thường tình.
A Kiệt ra khỏi nhà từ tinh mơ, tới nha môn thì biết Mạc Tông Trạch đã lẳng lặng rời thành từ đêm đến giờ chưa về. Gã bèn chạy ra ngoại thành dò la, định bụng tiếp tục điều tra vụ án. Nhưng điều tra vụ nào mới được?
Cách đây không lâu, Giang Kinh vẫn yên ổn bình an, mỗi năm chỉ xảy ra vài án mạng và đều bắt được hung thủ ngay tại chỗ, nhưng mấy ngày gần đây hầm chứa thi thể ở nha môn đã bị lèn chật ních. Nạn nhân là người tỉnh ngoài, dân bản địa, kẻ lang thang... với đủ các cách chết kỳ quái. Ngay tên Đoạn Chỉ Ma ẩn náu suốt chục năm trời, đánh hơi thấy mùi máu tanh cũng chui lên khỏi hang sâu tiếp tục gây án sát hại con gái nhà lành.
Suy đi tính lại, A Kiệt quyết định đi tìm Tiết tiểu thư. Xét từ việc Vân Lăng thuê nhà cho cô ta ở, rồi chân dung cô ta nằm trên đầu tử thi Vô Kê, rất có thể Tiết tiểu thư là chìa khóa mở ra những bí ẩn liên quan đến các hung án ở hồ Chiêu Dương. Chưa kể, cứu được cô gái con quan đó, không chỉ nha môn thành Giang Kinh mà có khi Cẩm Y Vệ và Đông Xưởng cũng phải chú ý đến gã. Biết đâu lại được Tiết Quốc Quan tiến cử, gã sẽ có cơ hội rời xa chốn quỷ ma Giang Kinh, rời nhà họ Liêu nặng nề tử khí, không còn phải nghe quát mắng hay tiếng ghế gỗ lộc cộc đơn điệu của ông già.
A Kiệt cầm mảnh ngói nhỏ lia xuống mặt nước, rồi đứng dậy lên ngựa phi về hướng Nam. Gã phi đến đồi Hắc Phong ở ngoại thành, vào Thôn Cáo Hoang rồi đi đến miếu Quỷ.
Sau đêm gặp nguy hiểm và được cứu, Mạc Tông Trạch cũng cho quân đi tìm tung tích Tiết tiểu thư, nhưng chủ yêu chỉ tìm ở nội thành và vài thị trấn lân cận đông người, chứ không quay lại nơi họ tìm thấy tấm hình. Vô Kê đạo trưởng từng coi miếu Quỷ là chỗ ở , biết đâu ông ta sẽ để lại các dấu vết ám chỉ sự thật và tung tích của Tiết tiểu thư ở đấy?
Sau khi đi vào rừng thông tối đen, A Kiệt hối hận vì mình không đi sớm hơn một chút. Giận cha già, hậu quả là cả một ngày trời tâm trí rối bời chẳng muốn làm việc gì hữu ích. Gã bước đi trong bóng tối, cảm thấy thấp thỏm bất an. Cố chịu đựng bước đến cửa miếu, gã mới thắp ngọn đèn bão. Miếu Quỷ vẫn là miếu Quỷ, chân cất bước nhưng chỉ muốn quay ra, nào là trừ hại cho dân, nào là tiền đồ rộng mở cũng gạt phăng luôn cho nhẹ mình. Cái tiếng “u... a...” bí hiểm khó xác định lại vọng vào tai, mùi không khí ẩm mốc còn kèm theo mùi máu tanh, hàm răng sắc của chó hoang, tiếng kêu rên xé phổi vẫn quanh quất đâu đây...
Lòng bàn tay xách đèn nhớp mồ hôi, A Kiệt dò dẫm bước đến hậu điện. Nền gạch ở vị trí thi thể Vô Kê chỉ còn lốm đốm vết máu đỏ nhạt, chắc đã bị chó hoang liếm. Nghĩ đến dã thú, lại thấy bóng đen đung đưa trên tường, A Kiệt bỗng lạnh toát sống lưng, ngẩng nhìn thì ra là bóng mình. Tay nải và đám xương còn sót lại của Vô Kê đã được đưa về nha môn, A Kiệt lại gần chỗ lão chết, nhìn kỹ một lượt. Chỉ thấy cái chén trà sứt miệng và một chiếc dép cỏ, chắc là khi khiêng xác đi thì đánh rơi. Không có phát hiện gì mới. A Kiệt nhớ lại tình trạng Vô Kê lúc mới được phát hiện, cổ họng bị cắt trong tư thế ngồi thiền, không có dấu vết vật lộn. Mạc bổ đầu có nói, hoặc hung thủ võ nghệ cao cường, hoặc Vô Kê trước đó đã bị khống chế nên không thể chống trả.
A Kiệt cúi xuống nhặt cái chén sứt miệng và chiếc dép cỏ rách bươm. Nhớ lại lời dạy của Mạc bổ đầu, rằng không nên vứt bỏ bất cứ thứ gì ở hiện trường, các manh mối thường ẩn giấu trong những vật bình thường, gã quyết định đem về.
Dép bẩn, A Kiệt cầm nó đập mạnh xuống đất, những mảnh bùn rơi lả tả, xen giữa là vài mẩu đất đỏ. Thế là sao?
Miếu Quỷ nằm trên đồi Hắc Phong là nơi không hề có đất đỏ. Nơi duy nhất có đất đỏ ở Giang Kinh này là Huệ Sơn phía Bắc sông Thanh An. Tức là, Vô Kê trước khi chết đã đến Huệ Sơn. Đến làm gì? Để tìm Tiết tiểu thư?
Dưới chân núi Huệ Sơn có thôn xóm, liệu Vân Lăng có đưa Tiết tiểu thư đến đó không? Đã đưa tiểu thư đến ngôi nhà tranh bên hồ Chiêu Dương thì hắn cũng sẽ không chê thôn xóm ở chân núi là nhếch nhác. Huống chi, nghe nói trong núi Huệ Sơn có hang động, có thể ẩn náu được.
Đầu óc A Kiệt bỗng sáng hẳn ra, các suy đoán nảy lóc chóc. Cần đi tìm từng nhà trong thôn, không thấy thì lên núi kiểm tra hang động. Nếu Vân Lăng đưa Tiết tiểu thư vào núi thì với một cô gái, việc ăn uống, tắm gội hằng ngày sẽ thế nào? Đương nhiên là phải gần nguồn nước. Ở Huệ Sơn quả có một cái ao hứng nguồn suối chảy vào.
Những nỗi lo sợ trước khi đến miếu Quỷ đều tan biến, A Kiệt lập tức chạy vùng ra, lên ngựa phóng tới thôn xóm ở chân núi Huệ Sơn. Lúc này trời đã khuya. Gã biết có thể trở về báo với nha môn, huy động lực lượng đến hỏi từng nhà, nhưng gây phiền hà cho dân đã đành mà còn đánh động Vân Lăng, tốt nhất tự thân vận động thôi.
A Kiệt lén lút lẻn vào nhà ba bốn chục hộ dân kiểm tra nhân khẩu, mất hơn nửa canh giờ, nhưng không thấy dấu vết Tiết tiểu thư và Vân Lăng. Cuối cùng, gã đành đánh thức một ông già sống đơn chiếc, hỏi đường lên hang động trên núi. Lại hỏi thêm, mấy hôm trước ông có nhìn thấy một đạo nhân có vẻ rồ dại không? Ông ta trả lời, có nhìn thấy một lão ăn mày cưỡi lừa đi qua, không rõ có phải đạo nhân không.
Theo hướng dẫn của ông già, A Kiệt mò mẫm đi ngay nhưng vẫn lạc đường, hoặc nói là hết đường, vì không còn dấu vết đường mòn dân miền núi hay đi nữa. Gã đành men theo sườn núi mà đi lên chỗ cao hơn, đôi lúc phải chân bước tay bám, vô cùng chật vật. Cứ thế hồi lâu, toàn thân rã rời mệt lử, gã đành dừng lại, định bụng nghỉ ngơi đến sáng rồi đi tiếp. A Kiệt bèn ngồi xuống khoanh chân tọa thiền, tập trung hít thở đều để dưỡng thần, đó là tâm pháp nội công cha dạy cho từ nhỏ.
Nghĩ đến cha già, A Kiệt lại hối hận, thậm chí nhớ tiếng ghế gỗ lộc cộc của cha. Mai xuống núi về nhà xin lỗi vậy. Còn về chuyến đi bí hiểm đêm hôm ấy của Liêu Kiếm Phàm, gã tin rằng cha sẽ thẳng thắn cho mình biết vào một dịp thích hợp. Mà, cho biết thế nào nhỉ? A Kiệt bỗng bật cười, ông già còn làm nổi việc gì? Lẽ nào là đi giết người, như Đoạn Chỉ Ma? Gã bỗng rùng mình như vừa tỉnh khỏi cơn mê. Có nhẽ đâu thế? Cha bị cụt hai chân, đương nhiên không thể là Đoạn Chỉ Ma!
Không ai biết ông bị mất hai chân như thế nào. Ưng Trường An, đồng đội của ông hôm đó đã chết thảm, không thể làm nhân chứng. Tại sao trong các bổ khoái từng giao đấu với Đoạn Chỉ Ma chỉ còn cha mình sống sót, và cũng không bị mất trí? Ôi, mình toàn nghĩ linh tinh chẳng đâu vào đâu. A Kiệt cố thở đều trở lại, giữ tinh thần ổn định, rồi dần dần đi vào trạng thái thiền định, vạn vật nhạt nhòa dần nhưng lại hết sức rõ ràng.
Tiếng nước chảy róc rách. A Kiệt bỗng mở mắt, tập trung lắng nghe. Đúng là văng vẳng tiếng nước! A Kiệt đứng lên, đi về phía có tiếng nước chảy.
Đường đi khúc khuỷu quanh co, trời thì tối, A Kiệt vấp phải rễ cây bò lan vô số lần, gã ngã dúi dụi, có lúc đường lại trơn trượt, khiến gã lăn lông lốc xuống dốc núi. Cuối cùng, tiếng nước chảy đã ở ngay bên tai. Không gian bên dòng nước mở rộng, sáng hơn hẳn lúc đi trong rừng cây. Trước mặt là một khe suối chạy ngang, A Kiệt cúi xuống vốc nước uống, sau đó phủi sạch lá cây bụi bặm trên người, nhìn xuống phía hạ nguồn. Tối đen như mực. Nước đổ xuống thành thác thì phải. Địa thế phía thượng nguồn khá bằng phẳng. Không nên lần mò đi xuôi xuống, chẳng may ngã xuống vực thì sao, chi bằng tiếp tục đi lên cao. A Kiệt đi một lúc, phía trước thoáng đãng hẳn ra, một ao nước xuất hiện. A Kiệt dừng lại.
Có tiếng hát êm dịu xen lẫn tiếng nước chảy. A Kiệt bước lên mấy bước rồi nấp sau thân cây, chăm chú lắng nghe. Một giọng nữ. Văng vẳng vài câu đứt quãng. Cứ hát đi rồi hát lại. Một bài hát nồng nàn tình yêu.
A Kiệt nghe say sưa, mặt nóng bừng lên. Gã thử thò đầu ra nhìn dung nhan người hát, nhưng khoảng cách quá xa nên chỉ thấy bóng dáng mềm mại của một thiếu nữ đang tết mái tóc dài bên bờ ao. Cô ta là ai? Theo dấu chân Vô Kê, đây hẳn là Tiết tiểu thư!
A Kiệt bỗng sững người. Nếu là Tiết tiểu thư, cô ta không thể chỉ có một mình. Vân Lăng ắt quanh quẩn đâu đây! A Kiệt đảo mắt nhìn khắp, không thấy bóng ai, nhưng chưa biết chừng tên thủy tặc ấy đang lẩn trong bóng tối, trong rừng rậm, thậm chí lặn xuống chỗ nước nông!
Giải cứu tiểu thư là trên hết! A Kiệt nhảy vọt ra, cảm giác đôi chân bỗng có sức mạnh vô biên. Gã vừa lướt trên không vừa thét, “Tiết tiểu thư, đừng sợ, người của nha môn đã đến!”
Thiếu nữ quay người lại, khuôn mặt kiều diễm ngời sáng dưới bóng tối âm u. Nàng buông tay tết tóc, mái tóc dài đổ xuống như dòng thác mượt mà. A Kiệt ngất ngây, lúc tiếp đất còn loạng choạng suýt ngã.
“Chân hảo hán... không sao chứ?” Tiết tiểu thư đứng lên, chạy lại nhìn chân người khách lạ. A Kiệt cũng chăm chú nhìn đôi chân trần trắng muốt nhanh nhẹn của nàng, đầu óc mụ mẫm cả đi. Chừng như sực nhớ, Tiết tiểu thư lùi lại mấy bước, mỉm cười, “Hảo hán như thần tiên bất chợt giáng lâm, ta không kịp đi giày, có phần thất lễ.”
Lúc này A Kiệt mới bình tĩnh trở lại, cúi đầu nói, “Tiết tiểu thư! Tôi là Liêu Nhất Kiệt bổ khoái phủ Giang Kinh, đường đột lộ diện đúng lúc tiểu thư đang bận chải đầu, thật bất nhã.”
Đôi mắt đẹp nhìn một lượt từ đầu xuống chân A Kiệt, Tiết tiểu thư mỉm cười, “Sớm chút nữa mới là bất nhã! Bấy giờ ta mới tắm xong, không chỉ chưa kịp chải đầu mà còn chưa đi giày mặc quần áo nữa kia!”
A Kiệt đỏ mặt nghĩ, con gái nhà quan gì mà, chả trách bỏ trốn theo tay chơi giang hồ. Nhớ đến Vân Lăng, A Kiệt lăm lăm tay kiếm, láo liên nhìn ngó.
Tiết tiểu thư hỏi, “Sao lại cảnh giác thế?” Nàng đưa lược lên chải tóc, mái tóc dài thơm ngát vẫn chưa khô hẳn.
“Vân Lăng... hắn bắt cóc tiểu thư... hắn đang ở gần đây phải không?” A Kiệt tập trung tinh thần, nghiêng tai lắng nghe những tiếng động dù là nhỏ nhất trong đêm tối. Nhưng chỉ thấy tiếng thở của Tiết tiểu thư.
Tiểu thư ngạc nhiên, “Vân Lăng? Vân Lăng nào?”
“Kẻ vào phủ đại học sĩ bắt tiểu thư đi, không phải tên thủy tặc Vân Lăng hay sao?”
“Người ấy đúng là thủy tặc, nhưng không phải Vân Lăng mà là Phượng Trung Long.” Nàng dừng chải tóc, tì cái lược vào cằm, vẻ suy tư, “Ta có nghe nói Vân Lăng tuấn tú, cũng muốn gặp mặt.” Nàng lại ngắm nghía A Kiệt từ đầu đến chân, như thể đang đánh giá một tấm lụa, miệng nhoẻn cười, “Nhưng ngươi đã đến đây, cũng hay!”
Hay cái gì chứ? A Kiệt lại đỏ mặt, tim đập nhanh. Gã hỏi để khỏa lấp, “Thế thì... Phượng Trung Long đâu?” Dứt lời tự cảm thấy buồn cười, Phượng Trung Long đã chết, xác hắn bị một toán người mặc đồ đen đem đi từ đời nào.
“Chết rồi.” Tiết tiểu thư khẽ thở dài, “Ta nghĩ nha môn các vị phải biết từ lâu rồi chứ nhỉ.”
A Kiệt càng nghĩ càng thấy khó hiểu, “Có đúng là Phượng Trung Long không? Có phải tiểu thư đã ngồi trên cỗ xe ngựa rèm thêu đến bên hồ Chiêu Dương, vào ở một ngôi nhà lá?”
“Đúng, đúng! Bổ khoái Giang Kinh các vị thực tài giỏi!” Tiết tiểu thư tươi cười, “Mà tìm đến được đây thì đương nhiên là tài giỏi rồi!”
“Tôi đã hỏi chủ nhà, họ nhận diện người thuê nhà là Vân Lăng!” A Kiệt tự nhủ, thật không hiểu ra sao nữa.
Tiết tiểu thư dịu dàng nói, “Liệu có nhầm chăng? Ta chưa từng gặp mặt Vân Lăng, ngươi có tin không?” Nàng bước lại gần hơn, làn hương tỏa ra càng ngát thơm.
“Đương nhiên là có.” A Kiệt nuốt nước bọt, “Có lẽ Vân Lăng thuê nhà hộ Phượng Trung Long, giới thủy tặc lục lâm liên kết với nhau gây án, cũng không phải chuyện hiếm... nhưng, Phượng Trung Long đã chết... hắn chết như thế nào?”
“Chết dưới nước. Là thủy tặc thì còn cách chết nào khác chứ?” Tiết tiểu thư cảm thán.
A Kiệt ngớ ra, nói thế là sao? Lời nói linh tinh, lại như ngụ ý sâu xa. Con gái của đại học sĩ có khác!
“Phượng Trung Long chết, sao tiểu thư không báo quan mà vào rừng sâu làm gì?”
“Ta bị ép buộc.” Ánh mắt nàng nhìn xuống.
A Kiệt lại lập tức cảnh giác, đảo mắt nhìn quanh, “Ai ép buộc tiểu thư?”
“Kẻ muốn lấy mạng ta.” Nàng bước đến gần hơn nữa, không khí thơm nức lên, “Các ngươi không biết có người đang vất vả tìm ta ư?”
A Kiệt gật đầu, “Có, có người đã nhìn thấy một bọn cầm đao kiếm xông vào căn nhà tranh bên hồ. Họ là ai?”
“Ngươi thử đoán xem tại sao Phượng Trung Long đến hồ Chiêu Dương? Không đoán ra thì chưa phải là bổ khoái giỏi.” Tiết tiểu thư tiếp tục chải tóc.
A Kiệt đáp không cần suy nghĩ, “Chẳng khó khăn gì, hắn ta đến tìm kho báu Bá Nhan, thứ đáng giá nhất trong kho báu đó là linh kỳ của Thành Cát Tư Hãn. Lấy được nó thì sẽ tìm ra một cuốn binh thư có một không hai trên đời.”
“Sao ngươi biết?”
“Gần đây có một số nhân sĩ võ lâm bị giết bên bờ hồ Chiêu Dương, bổ đầu của chúng tôi đoán rằng họ chủ yếu là đến tìm kho báu Bá Nhan, nhưng tại sao bị giết thì không ai biết.” A Kiệt bỗng cảm thấy nói chuyện về vụ án bế tắc với một thiên kim gặp mặt lần đầu vừa kỳ quặc lại vừa tự nhiên.
“Ta thì không cảm thấy lạ. Chắc chắn có kẻ lợi dụng cơ hội để giết bừa giới võ lâm, cứ thế giết mãi, cuối cùng kho báu Bá Nhan hay linh kỳ đại hãn cũng sẽ rơi vào tay tên ma đầu ấy!”
A Kiệt nói, “Nhưng tôi không hiểu... tại sao tiểu thư...”
“Hôm nay ngươi gặp may đấy.” Tiết tiểu thư ngẩng mặt, hương thơm lan tỏa, “Để ta chia sẻ với ngươi một bí mật, Phượng Trung Long đã biết sự thật về linh kỳ.”
A Kiệt hiểu ra, “Tiểu thư ở bên Phượng Trung Long, chắc có nghe nói ít nhiều về linh kỳ của đại hãn. Bọn người đó muốn tìm tiểu thư đế tra hỏi những gì tiểu thư biết.”
“Nếu ta không chịu, hoặc không nói ra điều gì đáng kể thì hẳn ngươi cũng biết bọn họ sẽ hành hạ ta thế nào. Ta không thể thoát khỏi câu chuyện rắc rối này đâu.” Tiết tiểu thư ngẩn ngơ nhìn A Kiệt, “Ta luôn khắc khoải đợi một ai đó can đảm đáng tin cậy xuất hiện...”
Tinh thần hào hiệp trào dâng, A Kiệt cứng cỏi nói, “Tiểu thư cứ yên tâm. Nếu tiểu thư muốn, mời theo tôi xuống núi ngay bây giờ. Tôi cam đoan đưa tiểu thư về kinh đô an toàn không mất một sợi tóc!”
Ánh mắt tràn trề vui sướng của Tiết tiểu thư lấp lánh trong bóng tối, “Thế thì tốt quá. về đến nhà, ta sẽ thưa với phụ thân. Ông sẽ tiến cử Liêu hảo hán vào làm ở Cẩm Y Vệ hoặc Đông Xưởng.”
A Kiệt mừng thầm, gã cúi đầu, “Tôi không cầu mong gì, chỉ muốn bảo vệ tiểu thư bình an vô sự, nhưng nếu được đại học sĩ... dìu dắt đế có cơ hội về kinh làm việc thì thật là vạn hạnh.”
“Chỉ hiềm...” Tiết tiểu thư ngập ngừng.
“Xin cứ nói, đừng ngại.”
“Dọc đường chắc sẽ gian nan, chỉ sợ gặp vô số kẻ ác, rồi giao tranh đao kiếm... Liêu hảo hán là người của nha môn, e rằng...”
A Kiệt mỉm cười, “Chúng tôi không lạm sát người vô tội nhưng quyết không nương tay với kẻ ác. Nếu có kẻ định làm hại tiểu thư, tôi nhất định không tha.”
Tiết tiểu thư đã thực sự yên tâm, mỉm cười, “Thế thì hay rồi! Ta trở lại hang núi thu xếp các vật dụng, rồi sẽ theo Liêu hảo hán xuống núi.” Nàng xoay người, mới bước vài bước đã quay phắt lại, mặt tái xanh. A Kiệt cũng nghe thấy tiếng vạt áo bay trong gió, ở ngay trên không! Những hai người!
Không nói một lời, hai bóng đen lướt đến nhằm ngay vào Tiết tiểu thư.
A Kiệt xoay phắt lại, hai bóng đen đã áp sát. Một sợi thừng buộc phi hổ trảo mổ tới vai A Kiệt. Tiếp theo là một mũi kiếm, kiếm khí rít lên đanh gọn, chủ nhân hẳn phải là một cao thủ hàng đầu với nội công và kiếm pháp song toàn. Không còn thời gian đắn đo xem liệu mình có đủ sức giao chiến, A Kiệt tuốt phăng kiếm.
Dây thừng phi hổ trảo văng đến trước, mũi kiếm của A Kiệt đánh trúng “mõm hổ”. Đối phương cười khẩy, vì một khi đâm kiếm vào “mõm hổ” ắt bị nó ngoạm chặt, không thể giở ra đòn thế nào khác, cử động sẽ rối loạn. Các kiếm khách thường chú ý đối phó với hổ trảo này nhưng lại không biết rằng đầu kia của dây thừng còn có lưu tinh chùy bay vù đến, khó mà ứng phó kịp. Lần này cũng không ngoại lệ, đối phương giật thừng trở lại, phi hổ trảo ngoạm chặt trường kiếm rẻ tiền chưa đến nửa lạng bạc của A Kiệt, kéo, dắt, ngoặt, tiếp đó lưu tinh chùy bổ vào. Nhưng kẻ cầm trảo lại không ngờ, hổ trảo và lim tinh chùy của gã không khống chế được trường kiếm của tay bổ khoái trẻ tuổi, mà lại ngoắc trúng bảo kiếm của đồng bọn, khiến gã ta tê bại cả tay, không sao nắm chặt được đốc kiếm nữa. Trong lúc ấy, A Kiệt đã thu trường kiếm về, thoăn thoắt tung ra hơn mười chiêu. Đứng ngoài nhìn vào thấy hoa mắt, nhưng thật ra gã chỉ đâm hai mũi. Mỗi mũi hạ một tên.
Hai cao thủ khinh công hạng nhất bám theo A Kiệt lên núi chẳng tốn chút sức lực nào, A Kiệt thì không hề hay biết. Cả hai những tưởng đêm nay nắm chắc phần thắng, tóm gọn Tiết tiểu thư, nào ngờ lúc này kiếm đâm thủng ngực vẫn còn chưa hiểu tay bổ khoái rút trường kiếm khỏi hổ trảo ra sao, còn lôi theo cả hổ trảo và lưu tinh chùy đánh ngược lại bảo kiếm thế nào. Cả hai thắc mắc... nhưng đầu óc mau chóng trống rỗng, chẳng mấy chốc đã đổ gục xuống đất. Dưới màn đêm, lưỡi kiếm dính máu của tay bổ khoái biến thành màu đen. Chính đầu óc A Kiệt lúc này cũng trở nên trống rỗng, mình đã làm gì thế này?
“Hảo hán! Bổ khoái... mau tỉnh lại!” Tiết tiểu thư êm ái gọi, giọng vừa mừng vừa sợ.
A Kiệt không ngất lịm đi, nhưng gã không hiểu tại sao sự việc vừa rồi chỉ xảy ra trong chớp mắt.
Tiết tiểu thư thỏ thẻ, “Ngươi là bổ khoái phủ Giang Kinh thật ư? Kiếm pháp sao mà cao siêu... phát sợ!”
A Kiệt cũng chưa nghe thật rõ. Hồi lâu sau gã mới thực sự tỉnh táo, khẽ hắng giọng, “Xuất chiêu đánh bừa... đánh bừa mà thôi... có lẽ hai kẻ đó võ công cũng tầm thường.” Câu trả lời đúng là lừa mình lừa người, nhưng A Kiệt nghĩ Tiết tiểu thư không biết võ công, chưa chắc đã nhận ra trình độ của hai tên kia.
Tiết tiểu thư dịu dàng nói, “Ta yên tâm rồi. Có ngươi hộ tống về kinh, không lo cường đạo quấy nhiễu nữa. Với bản lĩnh này, khỏi cần gia phụ tiến cử, Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ vẫn tranh nhau mời ngươi cũng nên.”
A Kiệt xem xét hai xác chết, “Chưa rõ bọn họ từ đâu đến.” Họ mặc đồ đen để đi đêm, trông mặt mũi không giống hình truy nã đám thủy tặc giang hồ. A Kiệt khám cả hai, không có thu hoạch gì. Chỉ thấy thắt lưng mỗi người đeo một cái túi gấm, mở ra, ngoại trừ vài thứ lặt vặt thì đều có thẻ đồng và thẻ bạc kích cỡ như nhau, mỗi cạnh chừng một đốt tay, trên thẻ khắc mấy chữ “Ty củng vệ Thân quân Cẩm Y Vệ”.
Tiết tiểu thư khẽ kêu lên, “Ai được cấp thẻ đồng, là chức bách hộ. Thẻ bạc, ít nhất cũng thiên hộ.”
A Kiệt nghe mà như sấm nổ bên tai. Giết ai không giết, lại giết đúng chức chỉ huy của Cẩm Y Vệ thế này!
Lúc trước đường đường là một bổ khoái, lúc sau đã đáng xếp vào tội phạm số một số hai triều đình! Thế là hết hi vọng đưa Tiết tiểu thư về kinh lập công, rồi được làm ở Đông Xưởng hay Cẩm Y Vệ! Chỉ còn nước bị giải ra Tây Thị chém đầu nữa thôi!
Hiểu được tâm tư của A Kiệt, Tiết tiểu thư nhẹ nhàng nói, “Ngươi đừng lo. Việc ngươi giết hai kẻ đó, ngoài ta ra có ai biết đâu? Nơi này rừng thẳm hang sâu, cứ chôn xác đi thì mấy trăm năm sau cũng chẳng ai tìm được. Coi như chúng ta chưa từng gặp họ, thế là xong.”
A Kiệt kinh ngạc, “Tiểu thư... bằng lòng nói dối giúp tôi?”
“Đừng dùng từ khó nghe như thế! Ngươi giết họ, chẳng qua là để bảo vệ ta! Huống chi ngươi thừa biết, họ xuất chiêu rất tàn bạo chứ đâu phải đến cứu ta về kinh? Rành rành là có ý đồ xấu.”
A Kiệt không hiểu, “Nhưng tại sao họ lại muốn hại tiểu thư? Họ không sợ đắc tội với Tiết đại nhân ư?”
Tiết tiểu thư cười nhạt, “Chắc là họ định bắt ta, để ép ta nói ra tung tích của linh kỳ. Nếu lấy được linh kỳ thì ngay hoàng đế họ cũng chẳng coi ra gì nữa là một quan viên như cha ta! Bốn phương bao la, họ trốn đi đâu chẳng được?”
A Kiệt nghĩ ngợi, rồi vỡ lẽ, “Ý tiểu thư là... hai người đó cũng như bọn võ lâm, đều muốn tìm tiểu thư để lấy được kho báu Bá Nhan, chứ không phải là do Tiết đại nhân cử đi đón tiểu thư về kinh?”
“Đương nhiên! Nếu không tại sao họ phải ra tay hung bạo như thế?” Tiết tiểu thư gằn giọng, “Chính bọn họ tự tìm đến cái chết thôi! Ta đã cân nhắc rồi, tạm thời chưa thể về kinh được. Cẩm Y Vệ, Đông Xưởng ở kinh thành đều lăm le rình rập, muốn ta nói ra tung tích kho báu Bá Nhan. Trở về khác gì tự chui đầu vào rọ?”
“Nhưng phụ thân tiểu thư... ông ấy...”
“Cha ta là quan to thật, nhưng thánh thượng nặng tâm tư, một năm thay ba tể tướng không còn là chuyện lạ. Nhất là chuyện linh kỳ liên quan đến giang sơn xã tắc, nếu triều đình cho rằng ta có biết ít nhiều thì họ không dễ dàng buông tha ta đâu. Nói không biết cũng vô ích, sẽ bị cực hình thẩm vấn. Thân gái như ta đến Đông Xưởng hoặc Cẩm Y Vệ để họ hành hạ, thì thà chết luôn còn hơn.” Nói đến câu cuối, đôi mắt nàng rớm lệ.
A Kiệt vội an ủi, “Tôi hiểu rồi! Tiểu thư đừng buồn, chúng ta tạm thời không quay về nữa.”
Tiết tiểu thư gật đầu, “Ta nghĩ, sớm muộn gì kho báu và linh kỳ cũng được tìm thấy, khi đó không ai đi tìm ta nữa, ngươi đưa ta về kinh sau.”
A Kiệt gật đầu, rồi hỏi, “Nhưng tại sao tiểu thư biết kho báu sẽ được tìm ra? Nghe nói đã hai trăm năm không có mảy may tin tức. Còn... Phượng Trung Long thì đã chết...”
Tiết tiểu thư nhíu mày, “Bổ khoái Giang Kinh mà không biết gì à?”
“Không biết... cái gì?”
“Mấy nhân vật võ lâm chết bên hồ Chiêu Dương. Họ là những người thế nào?”
“Chuyện này thì biết chứ!” A Kiệt nói rành rọt, “Họ thuộc phái Điểm Thương, Ngô Việt Thế Gia, Nga Mi, Tấn Bắc Thần Nông Giáo, và một truyền nhân của Thích gia thương...”
“Không, không phải!” Tiết tiểu thư cười, ngắt lời, “Họ là người của phái nào không quan trọng.”
“Sao?”
“Điều đáng nói là, họ có đặc điểm gì khác thường?”
A Kiệt ngớ ra một lúc, họ đều chết đứ đừ... là điểm khác thường! Gã lắc đầu, “Các bổ khoái còm như chúng tôi, biết đi đâu mà tìm hiểu về thân thế gia cảnh của họ chú?”
Tiết tiểu thư mỉm cười, “Xem ra, bổ đầu của các ngươi nên bơn bớt rượu chè để lo nghĩ cho công việc thì hơn. Ngươi đã khám nghiệm tỉ mỉ các tử thi ấy rồi chứ?”
A Kiệt gật đầu.
“Thử nhớ lại xem trong đó có xác phụ nữ không?”
A Kiệt lại gật đầu, “Có hai nữ tục gia đệ tử phái Nga Mi, một nữ đệ tử Ngô Việt Thế Gia.”
“Khuôn mặt ta trông thế nào? Cụ thể là, làn da ta thế nào?”
Nghe câu hỏi đột ngột, A Kiệt lấy làm lạ, nhưng vẫn trả lời, “Trắng... mịn màng.”
“Da dẻ của ba nữ hiệp đó thế nào?”
A Kiệt tập trung suy nghĩ, rồi nói, “Hơi đen, làn da còn thô ráp.”
“Mấy cái xác đàn ông thì sao?”
A Kiệt lại nghĩ ngợi, “Đều đen hơn so với người bình thường.”
“Ngươi có biết tại sao không?”
“Chắc họ xuất thân từ nghề nông?” A Kiệt không nghĩ ra.
Tiết tiểu thư mỉm cười, “Không phải. Tại họ đều là cao thủ dưới nước. Nước, nắng, gió đều là những yếu tố gây sạm da. Thường xuyên bơi lội thì không tránh được.”
“Vâng, đúng như tiểu thư nói, họ đều là kình ngư. Vậy thì sao?” A Kiệt vẫn chưa hiểu, “Nếu là vụ họ lặn xuống tìm linh kỳ thì chẳng có gì lạ, vì bổ khoái chúng tôi đều biết cả rồi.”
“Các ngươi mới chỉ biết một phần. Đúng, họ đi tìm linh kỳ, nhưng không phải là hành động hấp tấp bột phát đâu. Phượng Trung Long biết tung tích kho báu Bá Nhan, mấy người này cũng biết, nhưng không rõ bằng Phượng Trung Long.”
A Kiệt gãi đầu, “Nghe chẳng hiểu gì cả.”
Tiết tiểu thư nói tiếp, “Như Long lang kể, thì kho báu được đánh dấu trên bản đồ, bản đồ lại nằm trong tay chàng.”
A Kiệt lại kinh ngạc, “Thảo nào hắn ta mất mạng!”
“Nhưng chàng bảo, đến hồ Chiêu Dương rồi còn phải gặp mấy người bạn đã. Họ cũng biết về tung tích kho báu Bá Nhan.”
“Tiểu thư đã gặp mấy tay bạn đó chưa?” A Kiệt thầm nghĩ, nếu sớm gặp Tiết tiểu thư thì có lẽ phá án xong rồi.
Tiết tiểu thư nói, “Trên đường đến Giang Kinh, chúng ta gặp rất nhiều người kỳ quái. Đầu tiên là một đạo sĩ rồ dại, mặt trơ trán bóng, cứ đòi xem tướng cho Phượng Trung Long. Rồi nói là chàng mắc họa mất mạng.”
“Vô Kê đạo trưởng!” A Kiệt kêu lên.
Tiết tiểu thư cười nhạt, “Cái tên cũng không đúng lắm nhỉ! Sau đó không lâu, có hai người cưỡi ngựa đến gần. Ta nghe tiếng phụ nữ khúc khích đùa bỡn rất lả lơi với Phượng Trung Long, bực quá bèn vén rèm lên nhắc nhở, thì thấy là hai cô nương mặc đồ trắng, cưỡi ngựa trắng. Thấy ta giận dữ họ trở ngựa chạy luôn.”
“Hai đệ tử tục gia phái Nga Mi.”
“Đúng! Sau đó lại có vài người lần lượt đi ngựa đến chào hỏi Phượng Trung Long. Ta gạn hỏi, chàng cho biết họ là trợ thủ cùng làm một phi vụ lớn. Ta đâm lo, vì với cái nghề của chàng, làm ăn càng lớn thì nguy hiểm càng cao. Ta bèn khuyên đừng làm. Phượng Trung Long nói khúc nguy hiểm nhất đã qua rồi, giờ chỉ còn chia chác với nhau thôi. Nào ngờ...” Tiết tiểu thư cúi mặt, rơi nước mắt.
“Phi vụ lớn đấy là kho báu Bá Nhan phải không?” A Kiệt hỏi lại cho rõ.
“Đúng thế. Ta căn vặn mãi chàng mới thú thật. Nghe nói trong kho báu đó, thứ quý nhất không phải vàng bạc gì hết mà là một lá cờ, linh kỳ của Mông Cổ, trên đó vẽ bản đồ, dựa vào đó sẽ tìm thấy cuốn binh thư của Thành Cát Tư Hãn. Ta lại hỏi chàng cần binh thư để làm gì. Chắc là cười thầm đàn bà nông cạn, chàng chỉ đáp rằng bản thân không cần, nhưng thời buổi loạn lạc này có vô số kẻ đang thèm khát nó. Thời xưa Thành Cát Tư Hãn bách chiến bách thắng, ai lấy được cuốn sách ông ta tổng kết vào lúc cuối đời cũng sẽ bách chiến bách thắng. Ngươi thử nghĩ xem triều đình có muốn không? Lý Sấm có muốn không? Các võ sĩ Mãn Thanh có muốn không? Ta còn hỏi, nếu tìm được linh kỳ thì chàng sẽ đưa cho ai? Ngươi đoán ra câu trả lời không?”
A Kiệt nghĩ bụng, làm sao hi vọng một thủy tặc như Phượng Trung Long biết hết lòng báo quốc? Nhưng không trả lời vào câu hỏi, “Làm sao Phượng Trung Long và đám lục lâm thảo khấu kia biết tung tích kho báu Bá Nhan?”
Tiết tiểu thư đáp, “Nghe kể cách đây không lâu, cả bọn cùng thực hiện một phi vụ, lấy được tấm bản đồ kho báu Bá Nhan, định lập tức đến Giang Kinh để đào bới. Nhưng, đám người đó ầm ĩ huênh hoang quá, Phượng Trung Long thì cũng nảy ra ý riêng, muốn đón ta trước, chờ chia chác xong, lấy được linh kỳ rồi thì hai đứa sẽ ra đi biệt tích. Vì thế chàng và họ nhất trí rằng mọi người sẽ đi lẻ, rồi gặp nhau ở phủ Giang Kinh. Phượng Trung Long vòng lên kinh thành đón ta, sau đó chạy đến hồ Chiêu Dương.”
A Kiệt càng nghe càng thấy lạ, “Nhiều người cùng biết tung tích kho báu, chẳng may ai sinh tư tâm ra tay nẫng trước thì sao?”
Tiết tiểu thư cười, “Ngươi bắt đầu biết nghĩ như dân giang hồ rồi đấy! Đám đông tuy cùng làm ăn nhưng mỗi người một tâm tính, cảnh giác dè chừng nhau. Vì thế họ cắt tấm bản đồ kho báu Bá Nhan thành tám mảnh, mỗi người giữ một mảnh. Khi nào tập hợp với nhau thì mới ghép lại thành bản đồ hoàn chỉnh.”
A Kiệt thầm nhẩm số xác chết bên hồ Chiêu Dương, Điểm Thương, Thần Nông Giáo, Ngô Việt Thế Gia mỗi phái một người, Nga Mi hai, cộng với Tôn Bá Hùng và Phượng Trung Long là bảy. Người thứ tám là ai? Bảy trong tám người đã chết, quá dễ để đoán ra người thứ tám chính là hung thủ, hắn giết bảy chiến hữu để một mình chiếm đoạt kho báu! A Kiệt nghĩ ngợi rồi nói, “Bảy cái xác đó, chúng tôi đã tìm kỹ, không thấy bản đồ nào cả. Liệu có phải...”
Tiết tiểu thư gật đầu, “Chính là thế đấy, tên thứ tám đã giết bảy đồng đội để chiếm bảy mảnh bản đồ.”
“Kẻ thứ tám đó là ai?” A Kiệt hỏi.
Tiết tiểu thư cười nói, “Nghĩ thêm đi! Ngươi sẽ phá được án.”
A Kiệt lẩm bẩm, “Phượng Trung Long đưa tiểu thư đến nhà tranh ở một đêm, chủ nhà thì xác định Vân Lăng là người thuê nhà. Trước đó không lâu Tôn Bá Hùng cũng gặp Vân Lăng, rồi tự ý rời quân doanh, chắc là hợp tác làm ăn với Phượng Trung Long để tìm kho báu. Thế thì, người thứ tám chính là Vân Lăng!”
Tiết tiểu thư nói, “Ban nãy cũng nghe ngươi nhắc đến cái tên Vân Lăng. Xem vẻ nha môn các vị đã đi đúng hướng.”
A Kiệt đứng dậy, “Chắc chắn là hắn! Mấy hôm trước hắn ép Khâu ngỗ tác đi cùng, tiếc rằng tôi không địch nổi đành để hắn chạy mất! Sáng mai tôi xuống núi trở về nha môn, bảo các bổ khoái dán thông báo truy nã, loan tin khắp thành...”
Tiết tiểu thư hỏi, “Ngươi thử nghĩ kỹ xem, có làm như thế được không?”
A Kiệt hiểu ngay, nếu người của nha môn hỏi tại sao lại suy đoán Vân Lăng là hung thủ, gã biết trả lời ra sao? Bản đồ kho báu Bá Nhan cắt làm tám phần, nói thế liệu có ai tin không? Cũng không thể nói đó là tin tức của Tiết tiểu thư. Nàng còn đang lo sợ không muốn trở về kinh thành nữa mà. A Kiệt lại hỏi, “Tiểu thư định ở mãi trên hang núi này à? Hay là về Giang Kinh thuê nhà ở đi, tôi bảo đảm giữ kín lai lịch cho tiểu thư. Được không?”
Tiết tiểu thư nhìn A Kiệt hồi lâu, bỗng trào lệ, “Từ khi Long lang mất, ta luôn nơm nớp sợ hãi, đau khổ hơn cả sống trong hang núi. Nay ta đã biết thế nào là chốn giang hồ hiểm ác, cho nên, nói thật lòng, ta còn chưa rõ có tin ngươi được không.”
A Kiệt nói, “Tôi chậm chạp vụng về, không biết nói sao để tiểu thư yên tâm. Thế này vậy, bản tính tôi căm hận mọi toan tính thấp hèn, gia đình đã mấy đời làm bổ khoái phủ Giang Kinh, chưa dám nói gì cao xa nhưng cũng có tâm để làm việc chính trực, hành thiện giúp người. Tin tôi được hay không, thì tùy tiểu thư.”
Tiết tiểu thư cúi đầu nghĩ ngợi một lúc, rồi mỉm cười, “Được lời như cởi tấm lòng. Vậy, trăm sự nhờ ngươi!”
A Kiệt tính toán, không nên đưa luôn Tiết tiểu thư vào thành mà cứ về phủ thuê nhà xong xuôi, sau đó đánh xe ngựa lên chở nàng thì mới đảm bảo kín đáo không bị lộ mặt.
Bởi thế sáng hôm sau gã xuống núi, vào thôn tìm lại bộ yên cương và con ngựa gầy nhom buộc gốc cây du. Con ngựa đang nằm gặm mấy ngọn cỏ khô xơ xác, thấy chủ nhân, nó nhớ ra chuyến đi bão táp hôm qua, và đang nghĩ xem có nên đứng lên “chào” hay không. A Kiệt bước lại vuốt nhẹ bờm ngựa, mỉm cười, “Đồ lười nhác, đứng dậy đi! Chuẩn bị lên đường!” Dứt lời thì thấy đỉnh đầu lành lạnh, A Kiệt ứng biến cực nhanh, tung mình nhảy lên lưng ngựa rồi cúi nhìn. Hú vía! Chỗ gã vừa đứng bên con ngựa có hai mũi tên ngắn cắm phập xuống.
“Cha ngươi đôn đốc có hiệu quả! Công lực của ngươi ngày càng tinh tiến đấy!” Một giọng già nua khàn khàn từ trên cây vọng xuống.
A Kiệt tức giận, “Né chậm một chút thì toi đời người ta rồi! Thú vị lắm à?” Cũng như mũi cốt tiêu của cha già, ám khí độc đáo này đã nhiều lần nhắc nhở A Kiệt phải cảnh giác.
“Ngươi nửa đêm lò dò vào rừng núi thì thú vị hay sao? Lẳng lặng đi suốt đêm không về, cha ngươi tìm kiếm tán loạn cả lên... lần trước ăn một vố mà chưa rút ra bài học à?” Người ấy vẫn nấp trên cây nói vọng xuống.
Lúc này A Kiệt mới nghĩ cho cha già. Hôm nọ gã và Mạc bổ đầu cùng gặp nguy hiểm hai ngày đêm không về, khi gặp lại nhau, cha đã ôm gã thật chặt, không nói lời nào. Lúc buông ra rồi mới thấy khóe mắt ông rơm rớm. Những lúc ấy mới cảm nhận được tình cha con nương tựa sinh tồn. A Kiệt tự giễu cợt mình, chỉ mấy canh giờ trước còn dám nghi ngờ cha là Đoạn Chỉ Ma, nhưng gã vẫn nói cứng, “Thì ông ấy cũng lẳng lặng đi suốt đêm!”
“Hả?” Ông già trên cây ngạc nhiên, “Nói thế là sao?”
A Kiệt đáp, “Đêm hôm kia ông ấy không có nhà, sáng ra mới về...” A Kiệt ngập ngừng, rồi quyết định nói thẳng, “Về xong liền rửa ráy ở sân, người ngợm đầy những máu!”
Ông già trên cây im lặng một lúc. A Kiệt cúi mình nhổ hai mũi tên ngắn, ném ngược lên cây. Ông già bỗng nói, “Ngươi đã tìm thấy chưa?”
“Tìm thấy cái gì?” A Kiệt ngạc nhiên.
“Cô gái mà ngươi đang tìm. Ngươi đi dò la khắp chốn, ta hỏi là biết ngay.” Có thể ông trời chê người cha gàn dở lắm lời còn chưa đủ, nên lại dẫn thêm ông già nhiễu sự, cố chấp và quái dị này đến với A Kiệt. Gã xòe tay ra, “Nếu tìm thấy rồi thì sao tôi phải xuống núi một mình?”
“Có gì mà không thể?” Ông già cười nhạt, “Ngươi tìm thấy nhưng chưa chắc cô gái ấy chịu theo ngươi!”
A Kiệt lắc đầu, “Tôi nói không lại với ông. Rừng sâu núi cao, tìm người khác nào mò kim đáy bể? Tôi đã sai lầm, một bổ khoái non nớt như tôi lẽ ra không nên đi. Tôi chỉ dốc lòng khám phá án mạng của Vô Kê đạo trưởng, chứ cô gái kia, dù có quan trọng hay không, tôi cũng không mạo hiểm đêm hôm vào núi.”
“Có gặp hai tên Cẩm Y Vệ không?”
A Kiệt lại kinh ngạc, sao ông ta biết? Đâm lao phải theo lao, gã đành tiếp tục nói dối, “Cẩm Y Vệ nào?”
Ông già nhảy xuống đất, lập tức đứng vững, chỉ có đầu gối hơi chùng. Râu tóc bạc trắng, quần áo rách bươm, nhưng ánh mắt sắc lẹm, chắc không thế thì trông ông ta sẽ giống một lão ăn mày tầm thường. Ông già nói, “Một trong hai người ấy rất dễ nhận ra, vì binh khí kỳ cục lắm, là sợi thừng một đầu buộc phi hổ trảo, đầu kia buộc lưu tinh chùy. Người còn lại thì dùng trường kiếm. Ngươi đã không gặp thì ta nói nữa cũng vô ích. Còn cô gái, nếu đúng là ở trên núi, ngươi không tìm thấy thì họ sẽ tìm thấy.”
A Kiệt lấy làm lạ, “Sao ông biết thân thế của họ? Chẳng lẽ họ đi khắp nơi khoe rằng tôi là Cẩm Y Vệ? Và, sao ông biết họ tìm thấy Tiết tiểu thư?”
Ông già cười nhạt, “Thứ binh khí kỳ cục ấy là đồ tự chế của Thạch Anh Tùng. Gã làm ở Cẩm Y Vệ, đến giờ phải thăng tới thiên hộ là ít. Gã kia là Chu Phong Địch, cũng nổi danh về kiếm pháp lắm. Năm xưa làm ăn ở kinh thành ta đã từng gặp họ. Tạm chưa bàn đến võ công, nhưng trong Cẩm Y Vệ thì năng lực truy tìm tung tích của họ là số một...”
“Số hai.” A Kiệt ngắt lời.
“Nói gì?” Ông già ngạc nhiên.
A Kiệt ngáp một cái, “Họ là hạng hai.”
“Ta chỉ muốn cho ngươi biết rằng họ cực giỏi tìm người, dù chỉ có một dấu vết mong manh, họ cũng sẽ lần ra cô gái nọ! Ta đoán rằng, ngay hương thơm của cô gái đó, lũ bổ khoái rác rưởi ở nha môn các ngươi còn chưa ngửi thấy thì con gái nhà người ta đã bị đưa về kinh thành rồi!”
A Kiệt đáp trả, “Đừng nên nói năng khó nghe như thế! Các tuần bổ nha môn đều là rác rưởi hay sao? Mạc bổ đầu là rác rưởi à? Lã bổ đầu ngày trước cũng là đồ bỏ đi chắc?”
Ông già nín lặng một lúc.
A Kiệt lại hỏi, “Mẹ tôi chết như thế nào?”
“Lúc mẹ ngươi ra đi thì ta không có mặt ở Giang Kinh, ta biết sao được?” Giọng ông ta hơi căng thẳng.
“Liệu có phải bị Đoạn Chỉ Ma giết không?”
Ông già hỏi, “Sao ngươi lại nói thế?”
“Người ta vẫn bảo, về sau Đoạn Chỉ Ma thích giết những phụ nữ khó nhằn. Mẹ tôi thì giỏi võ công...”
“Các vụ chặt ngón tay xảy ra mấy ngày nay, những phụ nữ bị hại đâu có khó giết?” Hỏi một đằng ông già trả lời một nẻo. Nhưng điều này cũng cho thấy ông ta vẫn để ý đến các vụ trọng án gần đây.
“Người đàn bà ở tiêu cục vừa bị hại...”
“Ta đã xem mấy cái xác,” ông già ngắt lời. “Giống phương pháp của Đoạn Chỉ Ma năm xưa, nhưng chỉ là hình thức, chứ tinh thần không giống...”
“Khoa trương quá! Giết người, lại còn hình thức với tinh thần cái gì chứ?”
“Ừ! Thử xòe bàn tay non nớt ra đếm xem mình đã tham gia được mấy vụ hung án. Chỉ có các bổ khoái tỉ mỉ mới nhận ra, cùng là giết người, cùng một thủ pháp nhưng vẫn có chỗ khác nhau.”
Vừa nghe “non nớt”, A Kiệt đã tự nhủ, lại muốn giảng đạo đây mà, bèn ngáp dài. “Ông còn gì chỉ bảo nữa không? Tôi đi được chưa?” A Kiệt đập thật mạnh vào mông ngựa, con ngựa bị đau, gườm gườm nhìn chủ nhân rồi từ từ đứng lên, bốn cái chân khẳng khiu khẽ run rẩy.
Ông già nói, “Đừng vội! Để ta xem xem có phải kiếm pháp ta truyền cho ngươi đã lóng ngóng rồi không.”
A Kiệt ngán ngẩm lắc đầu, “Có gì đáng xem?”
“Ngươi chỉ mới luyện hai năm, căn cơ chưa vững chắc. Ta nhất định phải kiểm tra liên tục.”
“Để lần sau.” Chưa dứt lời, A Kiệt đã bị ánh kiếm vây kín mít. Ông già múa tít trường kiếm, chẳng mấy chốc hai bên đã đấu đến mười hiệp.
“Kiếm pháp vẫn chấp nhận được mà! Tại sao lúc ở miếu Quỷ ngươi không kham nổi một chiêu?” Ông già dừng lại, huýt sáo. Một con chó vẫy đuôi chạy lại.
“Chắc là tại cái trận pháp rắc rối của Võ Đang đấy.” A Kiệt kêu lên, rồi bỗng nghĩ ra mình đã quên béng cái vụ chết đi sống lại ở miếu Quỷ, liền quỳ một chân xuống, “Sư phụ tha tội! Đồ đệ chỉ mải hậm hực với sư phụ mà quên chưa tạ ơn cứu mạng.”
Ông già xua tay, “Ta đến hơi muộn, để ngươi và Mạc bổ đầu phải chịu khổ... Mạc bổ đầu có nhận ra ta không?”
A Kiệt đáp, “Không... chí ít là không thấy ông ấy nhắc đến. Khi không uống rượu thì Mạc bổ đầu khá là thâm trầm. Ông ấy quen ông hay sao?”
“Có lẽ hắn hơi đoán ra. Vì hắn biết ta đâu có chết?”
Lần này A Kiệt hết sức kinh ngạc, “Sống chết gì chứ? Tại sao Mạc bổ đầu lại biết? Thật ra sư phụ là ai?” Suốt chục năm qua ông già kỳ quái này đã âm thầm dạy A Kiệt kiếm thuật nhưng chưa bao giờ xưng danh, cũng chưa từng nói tại sao ông lại chọn tên ngốc như gã làm đồ đệ.
Ông hỏi, “Nghe đến tên Lã Diệp Hàn rồi chứ?”