Chương 23 Chơi đêm
Ở ngoài xa ngàn dặm, cũng dưới màn đêm, mặt hồ Chiêu Dương như một tấm lụa đen rộng lớn, gió lạnh ùa đến, sóng nước lan xa, tràn ngập âm khí rờn rợn. Trên mặt hồ dập dờn một con thuyền nhỏ cứ như thuyền ma. Rào... rào... tiếng mái chèo khua nước. Không có âm thanh nào khác.
“Sinh ra và lớn lên ở Giang Kinh, hẳn ngươi có biết sự tích người mặc áo tơi, cần câu không dây câu tính mạng?” Tiết tiểu thư phá tan sự im lặng, nàng đang ngồi dựa vào lưng A Kiệt.
Tiết tiểu thư đã ở hơn một ngày trời trong căn nhà nhỏ do A Kiệt thuê cho, buồn đến nghẹt thở, nàng nài nỉ gã đưa đi chơi hồ. Không từ chối được, gã đành thuê một con thuyền nhỏ đưa tiểu thư đi, biết chắc sẽ phải đi cả đêm không về. Dẫu ngay bên cạnh là người đẹp ngan ngát hương thơm, A Kiệt cũng không mảy may hứng thú, vì đầu óc gã chỉ luẩn quẩn ba chữ: Lã Diệp Hàn.
A Kiệt còn nhớ hồi lên bảy, một buổi chiều vào lúc hoàng hôn, đã phát ngấy với xuống tấn, nâng đá, chém gạch... mà vẫn bị cha đôn đốc luyện võ công, nhân lúc cha vào bếp nấu cơm tối, gã lủi ra ngoài. Tay cầm mấy mũi cốt tiêu thó được của cha, đem theo một hình nhân gỗ, gã đi vào con ngõ hẹp, một mình luyện phóng ám khí. Mấy mũi cốt tiêu đều ném trượt, nhưng lại bay đi đằng nào không biết. A Kiệt chạy đến chỗ hình nhân tìm nhưng không thấy, bỗng nghe đằng sau vang lên một giọng khàn khàn, “Mấy cái đinh vớ vẩn này là của ngươi à?”
Kể từ đó A Kiệt bắt đầu theo ông già vô danh mặt chằng chịt nếp nhăn để học kiếm pháp. Câu nói đầu tiên của ông già là, kiếm pháp không thể tập ra, mà phải tu luyện ra. Kiếm pháp cao siêu nhất không phải dùng tay điều khiển, mà là dùng con tim, trí não vẽ nên. Thằng bé nghịch ngợm năm đó đương nhiên chưa hiểu, cho đến năm mười một, mười hai tuổi thì mới vỡ dần. Ông già luôn bắt A Kiệt phải thề rằng không hé lộ với ai về việc luyện kiếm, kể cả với cha mình. Điều này chẳng khó gì, vì A Kiệt vốn đã ấp ủ nhiều chuyện không nói cho cha biết. A Kiệt không hề áy náy, cha cũng giấu gã nhiều chuyện mà. Về cái chết của mẹ chẳng hạn.
Ông già vô danh không nói kiếm pháp truyền dạy cho A Kiệt thuộc môn phái nào, mỗi lần chỉ dạy một chiêu và cũng không ép gã phải tập đi tập lại nhiều, bảo gã về nhà tự lĩnh hội xem cần xuất chiêu thế nào cho đúng và thần tốc. Cứ thế hơn mười năm trời, lưng vốn của ông già vô tận, kiếm pháp của A Kiệt cũng nâng cao theo năm tháng. Ông già cảnh báo gã không được khoe khoang, có kiếm pháp siêu việt thì chỉ được dùng vào lúc cần thiết nhất. Cho nên, dù đêm hôm nọ bị Huyền vũ lưỡng nghi trận của phái Võ Đang vây khốn, gã cũng không tung ra kiếm pháp ông già đã truyền thụ, bởi vì, dù tung hết ra cũng chưa chắc đã thoát hiểm, quan trọng nhất là nhỡ bổ đầu truy hỏi lại không biết giải thích ra sao. Nay A Kiệt đã hiểu lý do ông già phải giấu giấu giếm giếm.
Lã Diệp Hàn. Nghe cái tên này sẽ có cảm giác gì? Phát hiện một người đúng ra đã chết nhưng lại vẫn sống sờ sờ, mà còn ngay bên ta hơn chục năm qua... đó là cái cảm giác này.
“Ngươi không nghe ta nói à?” Tiết tiểu thư khẽ hỏi, khiến A Kiệt giật mình.
“Không dám... tiểu thư thứ lỗi, tôi sơ ý.”
Tiết tiểu thư cười khúc khích, “Chà! Có gì mà phải xin lỗi. Vả chăng ta đã nói rồi, cứ gọi ta là Oanh Oanh! Ban nãy ngươi hơi lơ đễnh à? Đang nhớ đến ai vậy?”
Mấy ngày qua tiếp xúc với nhau, A Kiệt thấy Tiết tiểu thư không hề tỏ vẻ kiêu kỳ kiểu con gái nhà quan, đôi lúc còn thích nói đùa.
“Một ông già kỳ cục!” A Kiệt đang cuống, buột miệng nói thật.
Tiết tiểu thư lại cười, “Sở thích bất ngờ đấy! Mai kia ngươi đưa ta về kinh, ta sẽ giới thiệu vài vị công công cho ngươi kết bạn, được chứ?”
A Kiệt dừng tay chèo, “Tha cho tôi đi! Ông già kỳ cục đó… là sư phụ của tôi mà.”
“Thế à? Sao ngươi vẫn bảo cha ngươi chính là sư phụ của ngươi?” Tiết tiểu thư cười, “Ờ mà một chiêu kiếm tuyệt đỉnh hạ gục hai cao thủ Cẩm Y Vệ, chắc chắn không phải học từ một bổ khoái bình thường.”
Thấy A Kiệt thở dài, nhận ra mình đã lỡ lời làm tổn thương người ta, nàng bèn khẽ đụng khuỷu tay vào A Kiệt, “Ta nói thế, không có ý coi thường cha ngươi đâu.”
A Kiệt không giận, chỉ đáp, “Tiểu thư... Oanh Oanh không nói sai, cha tôi vốn là một bổ khoái có võ công bình thường. Ông già sư phụ mà tôi vừa nhắc cũng là bổ khoái, nhưng công phu cao cường lắm. Nghe nói trước kia đã làm dịch trưởng bách hộ ở Đông Xưởng.” Khi kể về lịch sử của Lã Diệp Hàn, A Kiệt có phần tự hào, coi như mình cũng được là đệ tử của một bậc thầy tiếng tăm!
“Là ai nhỉ?” Tiết tiểu thư cảm thấy hứng thú thực sự.
“Lã Diệp Hàn!”
“Lã Diệp Hàn?” Tiết tiểu thư hơi run, kéo chiếc áo khoác lông cừu quấn chặt vào người hơn nữa, cứ như đó là một cái tên đáng sợ. Có lẽ chữ “Hàn” khiến nàng thấy lạnh. “Ta có nghe nói, kiếm pháp của ông ta năm xưa thuộc hạng nhất nhì Đông Xưởng.”
“Đúng là thế đấy!” A Kiệt nghĩ ngợi. Xem ra, Vô Kê đạo trưởng hành nghề kể chuyện rong đã nói vống lên, nào là kiếm pháp của Mạc Tông Trạch ngang ngửa Lã bổ đầu, đọ sức vài chục chiêu bất phân thắng bại. Nhưng đã ai nhìn thấy hai người đấu kiếm? Toàn thêm dấm thêm ớt cho chuyện thêm hấp dẫn mà thôi. Kiếm pháp nhất nhì Đông Xưởng, thì rõ là cao hơn Mạc bổ đầu một bậc. Cho nên, chuyện Mạc bổ đầu giết Lã Diệp Hàn chắc chắn là bịa tạc.
“Rõ thật là...” Tiết tiểu thư cốc một cái vào đầu A Kiệt, “Không phải Lã Diệp Hàn đã chết rồi sao? Người thì nói bị Đoạn Chỉ Ma giết, người thì bảo tự ông ta cắt ngón tay và bị một bổ khoái vừa tới nhậm chức giết chết. Dân kinh đô đều nghe nói đến chuyện này, người của Đông Xưởng cũng bàn tán mãi.”
“Một tiểu thư rèm che trướng rủ như Oanh Oanh mà cũng biết à?”
Tiết tiểu thư cốc mạnh lên đầu A Kiệt khiến gã đau điếng, thuyền chao đi suýt bị lật, “Gã ngốc này rõ thật là... Cha ta từng làm thượng thư bộ Lại, ngươi quên à? Ngày trước ông ấy là bạn đồng lứa với Ngụy Trung Hiền, chuyện gì ở Đông Xưởng chẳng biết. Nếu không, ông ấy đứng đầu các đại học sĩ sao được?”
A Kiệt nghe đến đây mới thấy mình đã nhiều lời, đành nói, “Được rồi!”
“Được gì chứ, còn không nói rõ ràng ra! Kiếm pháp của ngươi là học của người chết thật ư?”
A Kiệt chịu thua, “Đừng nói khó nghe như thế. Lã bổ đầu đương nhiên chưa chết. Năm xưa Đoạn Chỉ Ma bày kế hãm hại ông, mang ngón tay của những người bị hại cất giấu trong nhà ông, Mạc bổ đầu suýt nữa bị trúng kế, định giết Lã bổ đầu. Về sau cả hai cộng tác bày mưu tương kế tựu kế, giả vờ như Lã bổ đầu quá mải phá án rồi tẩu hỏa nhập ma, biến thành Đoạn Chỉ Ma và bị Mạc bổ đầu tiêu diệt. Thật ra là nhằm che mắt thế gian, Lã bổ đầu bí mật ẩn thân và cùng Mạc bổ đầu tiếp tục khám phá vụ án Đoạn Chỉ Ma. Phải thấy rằng đó là một kế sách cực hay. Hồi trước Lã bổ đầu ở ngoài sáng còn Đoạn Chỉ Ma nấp trong bóng tối, toan tính đủ đường thậm chí cài tang vật hãm hại Lã bổ đầu. Lã bổ đầu giả chết rồi, thì Đoạn Chỉ Ma sẽ cho rằng địch thủ chung thân của mình đã tiêu đời, bèn tập trung mũi nhọn vào Mạc bổ đầu. Lã bổ đầu không còn là người của nha môn nữa, chỉ bí mật quan sát phá án, cho nên coi như ông đã chiếm ưu thế.”
“Kết quả là?” Tiết tiểu thư hỏi, vẻ chế nhạo.
A Kiệt trầm ngâm, “Như cha tôi cho biết, trong hai năm đầu nhậm chức, Mạc bổ đầu đã dốc sức nhiều, tình hình có chút khởi sắc và ngày càng áp sát Đoạn Chỉ Ma, đến mức... vào cái trận cuối cùng khiến cha mất hai chân ấy, họ gần như đã chặn đứng được y. Tôi cho rằng, chủ yếu là nhờ Lã bổ đầu đã ngầm theo dõi và bố trí giăng bẫy để tấn công. Có điều, mười tám năm trôi qua, vẫn chưa xác định được Đoạn Chỉ Ma là ai, còn sống hay đã chết, và, vẫn chưa khám phá ra mấy chục vụ án chặt ngón tay.”
“Không chỉ chưa thể phá án, mà gần đây y lại lộ diện, phải thế không?”
“Sao tiểu thư...”
“Khắp hang cùng ngõ hẻm đều đang bàn tán, ta thì không điếc.” Tiết tiểu thư lại cười, “Nên thấy rằng, Đoạn Chỉ Ma đã phải nín thở nằm im mười tám năm trời thì Lã Diệp Hàn giả chết cũng thật bõ công. Ở Giang Kinh ít người có võ công cao siêu, ngươi cho rằng Đoạn Chỉ Ma là ai?”
A Kiệt lắc đầu, “Nếu biết thì tôi đã chạy đi báo cho sư phụ.”
“Sai rồi! Dù biết cũng không nên báo cho ông ấy, mà cứ để ông ấy tự mình điều tra. Nếu không, hóa ra ông ấy đã phí công giả chết ngần ấy năm, đã chẳng được xu đãi ngộ nào của triều đình lại còn không tự phá án được ư?”
A Kiệt nhận thấy tiểu thư xinh đẹp này thật khôn khéo, kết giao với nàng quả không sống hoài hai mươi năm nay. “Tôi đã cho tiểu thư biết một bí mật lớn lao, chỉ mong tiểu thư giữ kín cho.”
“Đừng gọi ta là tiểu thư nữa, thì ta mới giữ kín giúp ngươi.”
“Đa tạ Oanh Oanh cô nương.” A Kiệt đã hơi yên tâm.
Tiết tiểu thư vui vẻ nói, “Có thế chứ!” Thuyền vẫn lặng lẽ trôi, nàng nghĩ ngợi rồi lại nói, “Liệu có phải... ông ấy là Đoạn Chỉ Ma không? Thế này nhé, sau khi giả chết, trải qua nhiều năm không tìm thấy hung thủ nhưng gần đây lại lần lượt xảy ra mấy vụ, ngươi có dám bảo đảm không thể là ông ấy không?”
A Kiệt làu bàu, “Tôi chỉ là một bổ khoái bình thường, dám bảo đảm cái gì chứ?” Còn nghi ngờ cả cha mình là Đoạn Chỉ Ma đây này! Nhưng gã lại chợt nghĩ, Lã Diệp Hàn bao năm trời sống trong bóng tối như cô hồn, như ma trơi, tẩu hỏa nhập ma rồi gây án như Đoạn Chỉ Ma cũng nên? Trong cái đêm mình và Mạc bổ đầu gặp nạn ở miếu Quỷ rồi được ông ấy giải cứu, tại sao ông ấy biết mà tìm đến miếu Quỷ? Có phải ông ấy thường xuyên ra vào miếu Quỷ không? Hay là... ông ấy đã giết Vô Kê đạo trưởng? Mạc bổ đầu nói, Vô Kê có công lực siêu phàm. Một nhát kiếm lấy mạng Vô Kê, liệu có mấy người? Cả Giang Kinh này chỉ có Lã Diệp Hàn mà thôi!
“Nguy rồi!” A Kiệt buột miệng.
“Làm sao?” Tiết tiểu thư hỏi.
A Kiệt đáp, “Nếu đúng là ông ấy thì gay rồi!”
Tiết tiểu thư nói, “Ta chỉ nghĩ ngợi lung tung thôi, đừng cho là thật. À này, đêm nay ngươi ra ngoài thế này, liệu cha già có nhớ mong không?”
A Kiệt đáp, “Có chứ! Nhưng tôi đã nói với cha là đi điều tra vụ án, nên ông cũng không hỏi han nhiều. Đây không phải lần đầu tôi qua đêm không về.” A Kiệt nhớ đến lúc nãy mình lơ đễnh, bèn nói, “Vừa rồi Oanh Oanh hỏi câu gì nhỉ?”
“Hỏi về người mặc áo tơi câu tính mạng, chuyện ấy liệu có thật không?”
“Có! Và cũng kỳ quái lắm! Phủ Giang Kinh mấy chục vạn dân, mỗi ngày có vài người chết bất thường, trên hồ xuất hiện một con thuyền nhỏ, thế là mọi người liên hệ đến con thuyền. Gán ghép khiên cưỡng.” Tuy mạnh miệng nhưng A Kiệt vẫn chột dạ, gã cảnh giác nhìn quanh mặt hồ tối đen. Cũng may, không thấy người mặc áo tơi và con thuyền. Gã lại nhớ đến cái đêm gặp thi thể của Bùi Tố Nương. Xem ra không nên nói quá dứt khoát. “Tuy nhiên cũng lạ lùng, nghe nói trước hôm xuất hiện mấy cái xác nhân sĩ võ lâm, có người nhìn thấy vài con thuyền nhỏ trên mặt hồ. Gần đây Đoạn Chỉ Ma lại vẫy vùng, gây ra nhiều vụ hung án dã man, trước hôm một phụ nữ bị giết, trên mặt hồ cũng xuất hiện con thuyền nhỏ... Kinh khủng thật! Lẽ nào trước hôm Phượng Trung Long gặp nạn...”
“Ngươi có nhớ đêm đó vừa gió vừa mưa...” Tiết tiểu thư khẽ hỏi.
“Đúng! Chớp giật sấm rền suốt cả đêm.”
“Nửa đêm ta choàng tỉnh vì gió mưa, khi ra đóng cửa sổ, ta vô tình nhìn thấy trên mặt hồ có con thuyền nhỏ và một người mặc áo tơi, có vẻ như đang câu cá.” Tiết tiểu thư run run kể.
A Kiệt dừng tay chèo, quay sang ôm lấy nàng, hương thơm thấm vào tận tim khiến hồn phách gã chơi vơi như con thuyền không người cầm chèo lúc này.
“Ôi...” Tiết tiểu thư khẽ kêu lên.
“Tiết... à, Oanh Oanh đừng sợ, chuyện đó đã trôi qua rồi...”
Tiết tiểu thư thì thầm với A Kiệt, “Không phải ta sợ chuyện đó, mà là sợ lúc này...” Giọng nàng từ dịu dàng đã đổi sang hãi hùng.
“Nghĩa là gì?” A Kiệt khẽ rùng mình.
“Người mặc áo tơi câu mạng!” Tiết tiểu thư trỏ về phía trước, những ngón tay run rẩy.
A Kiệt nhìn theo, tim bỗng đập liên hồi. Dưới màn đêm, trên mặt hồ xa xa, khá gần đảo Hồ Tâm, một con thuyền đang dập dềnh, nhìn rõ bóng người mặc áo tơi ngồi im trên đó.
Rào, rào, rào... Có lẽ muốn thể hiện chút khí phách nam nhi, A Kiệt bỗng trở nên can đảm lạ thường, ra sức chèo thật lực, con thuyền lao vun vút về phía đảo.
Thuyền họ tiến sát đảo Hồ Tâm, nhưng con thuyền câu kia thì càng lúc càng xa hơn. A Kiệt hỏi Tiết tiểu thư, có phải ta hoa mắt không, thì lại bị cốc một cái lên đầu, “Đồ ngốc ạ, thuyền đó vẫn đang bồng bềnh. Tại ngươi nghiêng ngả để chèo thuyền, nên mới có cảm giác như thế.” Khi thuyền áp sát hòn đảo, hai người chẳng nhìn thấy con thuyền của người mặc áo tơi đâu nữa. Lúc này, gã bổ khoái dù ngốc nghếch đến mấy cũng hiểu rằng, con thuyền đó đã lánh về phía bên kia hòn đảo rồi. A Kiệt bèn chèo thuyền vòng sang nhưng nó vẫn biệt tăm.
“Ở đây!” Tiết tiểu thư khẽ kêu lên,
A Kiệt ngạc nhiên, “Ở đâu? Sao tôi chẳng nhìn thấy?”
Tiết tiểu thư, “À, ý ta là, lần trước Phượng Trung Long bị hại, đã dừng thuyền ở đây!”
A Kiệt càng kinh ngạc, “Trước khi Phượng Trung Long chết, cô đã nhìn thấy hắn ta à?”
“Ừ. Ngươi đã cho ta biết một bí mật thì ta xin đáp lễ. Hôm đó Long lang nói là đi gặp vài chiến hữu để cùng tìm kho báu Bá Nhan. Đêm hôm trước ta nhìn thấy con thuyền có người mặc áo tơi, ta lo chàng sẽ hỏng việc, bèn thuê một thuyền đánh cá khác chở ta bám theo từ xa. Chuyện này, ngươi không được kể lại cho bất cứ ai, thề đi!”
A Kiệt sửng sốt vì câu nói của Tiết tiểu thư. “Xin đức Di Lặc chứng giám, mọi điều tiểu thư... Oanh Oanh cho con biết, con sẽ không nói với bất cứ ai.” A Kiệt thề.
Tiết tiểu thư cau mày, “Đức Di Lặc? Ngươi có theo Bạch Liên Giáo không?”
A Kiệt lắc đầu quầy quậy, “Bạch Liên tà giáo, nha môn tối kị, tôi đâu có... Đức Di Lặc chính là Phật tổ mà! Cha tôi theo đạo Phật.”
“Thế thì được! Nếu ngươi là Bạch Liên Giáo thì ta phải tránh cho xa!” Tiết tiểu thư mỉm cười.
A Kiệt hỏi, “Hôm đó Oanh Oanh nhìn thấy những gì? Ai đã giết Phượng Trung Long?”
Tiết tiểu thư khẽ nói, “Chàng dừng thuyền ở ngay mỏm đá nhỏ nhô ra này, buộc thuyền vào mỏm đá rồi lập tức nhảy xuống nước. Ta không lặn theo. Chờ một lúc rồi ta quay về.”
A Kiệt cảm thấy quá khó tin, “Trong khoảng thời gian đó, hẳn ta không cần ngoi lên hít thở à?”
“Cứ như Long lang nói, thì những tay sành sông nước lặn lâu chừng một tuần trà, vì đều luyện được nội công cao siêu. Họ còn mang theo các đốt trúc, khi xuống nước rồi thì nối chúng lại thành một ống dài thò lên mặt nước để hít thở.” Tiết tiểu thư bỗng chỉ vê phía trước, khẽ kêu lên kinh ngạc, “Thuyền!”
A Kiệt nhìn theo. Đúng thế, phía trước không xa có một bến thuyền nhỏ với hơn chục con thuyên kích cỡ khác nhau. Bắt mắt nhất là một con thuyền hoa đẹp, nhưng không thấy thắp đèn nến và hình như không có ai.
A Kiệt chèo thuyền đến gần. Tiết tiểu thư nói, “Thì ra trên đảo có người ở!”
“Có người đã đành, họ đều là người nhà quan hoặc phú thương! Trên này có vài chục trang viên và không có gia đình dân thường. Nhưng, hiếm khi thấy lắm thuyền neo đậu thế này.” A Kiệt chèo chậm lại, bỗng cảm thấy mỏi mệt đủ bề.
Tiết tiểu thư hào hứng đứng dậy trên con thuyền nhỏ, người chao đi như cành liễu trước gió. “Đỡ ta lên thuyền hoa kia!”
Trên thuyền, tay vịn lan can bằng gỗ đàn hương thơm ngát, đèn không sáng nhưng còn âm ấm. Tuyết tiểu thư nói, “Chứng tỏ người trên thuyền này mới neo ở đây thôi.”
“Ngày nào chẳng có thuyền đến đảo Hồ Tâm và châu phủ. Nghe nói tri phủ và đại nhân chỉ huy sứ đều có nhà riêng ở đây, họ dùng thuyền hoa để chở khách là chuyện bình thường.” A Kiệt vừa nói vừa đỡ Tiết tiểu thư quay ra, đi xuống, rồi bước lên bậc đá của bến thuyền. Gã nhặt một cây sào dưới đất, khều con thuyền nhỏ của hai người vào sát bờ, rồi buộc lại. Gã hơi ngạc nhiên, tại sao đêm nay lại có lắm thuyền đậu thế này?
Hai người tùy hứng bước đi một lúc. Tiết tiểu thư hỏi, “Dù sao thì đêm nay cũng không thể quay về thành, hay là chúng ta tìm một chỗ kín gió mà nghỉ ngơi?”
A Kiệt đưa tay vỗ lên cái bọc to đeo sau lưng, “Ngủ ngoài trời là giải pháp tình thế, tôi cũng đã chuẩn bị sẵn đệm và chăn bông đây rồi. Tuy trên đảo chỉ có những khu nhà sang trọng nhưng chủ nhân bỏ trống vì nhà chính của họ ở trong thành, ta cứ thử tìm xem sao. Nếu có, thì chúng ta vào làm phiền một đêm.” Quả là trên đảo Hồ Tâm có những ngôi nhà bỏ trống thật. Trước khi làm bổ khoái, thiếu niên A Kiệt tinh nghịch đã cùng gã bạn nối khố là Đào Đại hiếu động thường ra đảo chơi. Họ cậy tài phi thân nên thường đột nhập các khu nhà bỏ trống để ngủ qua đêm và cùng cảm thấy khoái trá.
Tiết tiểu thư nối gót A Kiệt đi đến trước một tòa nhà tối om, không sáng đèn nến như những căn nhà khác. Một ổ khóa to bằng nắm tay treo ở cổng chính. Rõ ràng là chủ nhà đi vắng.
A Kiệt cười, “Đây rồi!”
Tiết tiểu thư nói, “Ngươi có chìa khóa không?”
A Kiệt biết nàng chỉ nói đùa, bèn cười đáp, “Có!” Rồi choàng tay ôm eo tiểu thư, tung mình nhảy qua đầu tường cao, hạ xuống sân, “Thấy chưa, cửa mở rồi! Xin mời quý khách!”
Tiết tiểu thư cười ngặt nghẽo, chạy thẳng ra sân sau,
“Nhà này rộng thật!”
A Kiệt rảo bước theo, ném túi hành lý vào phòng ngủ của chủ nhà, khẽ gọi, “Tiểu... cô vào đây mà nghỉ, tôi sang chái Đông, cần gì cứ gọi.”
Tiết tiểu thư vui vẻ bước vào phòng, châm hai cây nến đỏ, rồi nhìn quanh một lượt. Trướng mỏng, đệm êm, giường chạm trổ, chăn bông hoa, đủ vẻ sang trọng của nhà phú hào. Nàng gật đầu, nói, “Được! Ta không khách sáo nữa. Khuya rồi, ta thay áo đi ngủ đây!”
A Kiệt đang quay người bước xuống thềm giọng Tiết tiểu thư vọng theo, cùng mùi hương thơm ngát, “Lạ nước lạ cái, lại tự tiện vào nhà người ta, ngủ một mình ta sợ lắm!”
A Kiệt chầm chậm ngoảnh lại, cho rằng mình nghe chưa rõ. Dưới ánh nến đỏ, đập vào mắt gã là gương mặt kiều diễm mê hồn của Tiết tiểu thư. Tim đập thình thịch, A Kiệt ấp úng nói, “Thế thì... không hay... nam nữ ở chung...”
Tiết tiểu thư dịu dàng nói, “Đây đâu phải lần đầu? Đêm hôm nọ trong sơn động đã ở chung rồi còn gì?”
A Kiệt gật đầu lia lịa, “Oanh Oanh nói đúng.” Thật ra kể từ lúc nhìn thấy Tiết tiểu thư ngồi bên hồ nước trên núi vừa chải tóc vừa hát, gã đã tâm niệm “Tiểu thư luôn đúng”, để rồi đi đến tình huống hôm nay.
“Thế thì còn đứng đó làm gì nữa? Mau vào đi!” Tiết tiểu thư một tay cầm đài nến, tay kia kéo A Kiệt vào, rồi đóng cửa lại và lập tức thổi tắt nến. Nàng đặt đài nến lên bàn, “Cẩn thận vẫn hơn. Ngươi còn nhớ người mặc áo tơi bỗng biến mất một cách lạ lùng không? Ai biết hắn đã vòng đi đâu, hắn lên đảo như chúng ta cũng nên.”
Đúng thế, vừa rồi đứng ngoài cửa nghĩ ngợi vẩn vơ, A Kiệt đã quên béng tình tiết người mặc áo tơi, bèn gật gù nói nhỏ, “Cô cứ nghỉ đi, tôi nằm ở cái phản kia là ổn rồi.” Tiết tiểu thư đồng ý.
A Kiệt ngồi trên cái phản ấm áp cách giường Tiết tiểu thư chưa đầy một trượng. Những tiếng sột soạt khe khẽ vọng đến, Tiết tiểu thư thay đồ. A Kiệt có thể tưởng tượng, chắc lúc này nàng đã cởi váy ngoài và chỉ còn lại áo lót bó ngực, là màu gì nhỉ? Hồng đào hay xanh lục? Phía dưới thì sao... A Kiệt ngồi không vững, cho nên, giữa màn đêm, khi nàng gọi “A Kiệt” thì suýt nữa gã ngã phệt xuống sàn.
“Oanh Oanh... có gì dặn dò?”
Tiết tiểu thư nói, “To xác như thế mà nằm trên cái phản rộng chưa đầy sải tay thì khó chịu lắm. Sao không lên giường này nằm chung?”
A Kiệt lập tức hơi nghẹn thở, tay nhớp mồ hôi. Vốn đã biết nàng rất phóng khoáng, dám bỏ nhà đi theo Phượng Trung Long, rồi mới gặp người xa lạ như gã mà cũng nói năng khêu gợi. Mấy hôm nay đi với nhau, hai người đã không ít lần thân mật, nhưng mới chỉ sơ sơ vòng ngoài... Gã chẳng phải người danh giá sang trọng, cũng không phải một hiệp khách lừng danh, làm sao Tiết tiểu thư lại trao thân cho...
“Đừng nghĩ ngợi linh tinh. Ta chỉ muốn ngươi được ngủ ngon giấc. Nhất định không làm bừa.” Tiết tiểu thư nói thêm, như thể đọc được ý nghĩ tệ hại trong đầu A Kiệt.
A Kiệt định nói “Vâng, vâng,” nhưng cổ họng cứ ậm ừ, chính gã cũng không biết mình nói gì, hai chân chơi vơi bước lại chiếc giường. Tiết tiểu thư đã chừa chỗ cho gã, A Kiệt nằm nghiêng sang bên, thoang thoảng làn hương dìu dịu... Tình thế này, dù có xảy ra chuyện gì hay không thì đêm nay gã vẫn không sao ngủ nổi.
Trong ngoài phòng ngủ đều yên tĩnh, chỉ có tiếng thở cố nén cho thật khẽ của cả hai. A Kiệt cảm thấy rõ hơi thở của Tiết tiểu thư phả vào gáy, sau tai ngưa ngứa, ruột gan càng nóng ran, tim đập thình thịch như tiếng trống trận, đủ thứ âm thanh rối loạn. A Kiệt giở mình, nửa chừng nhớ ra sau lưng là Tiết tiểu thư, hai người sẽ thành nằm đối diện, thì ngượng lắm, nên đành quay lại như cũ.
“Cứ trở qua trở lại mãi thế không mệt à?” Tiết tiểu thư khẽ cười. Tim A Kiệt chỉ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Một bàn tay choàng lên vai A Kiệt.
“Trót mạo phạm!” A Kiệt nói, chẳng rõ nói với mình hay nói cho Tiết tiểu thư nghe, và cũng không rõ có ý xin lỗi thật không hay chỉ để cho mình thêm can đảm, gã quay người ngoảnh sang thật, rồi nắm lấy cánh tay trần của Tiết tiểu thư. Cảm giác mịn màng, đê mê.
A Kiệt đang ngẩn ngơ, thì đôi môi nóng bỏng áp tới.
Khi phương Đông hừng sáng, Tiết tiểu thư tỉnh dậy, đánh thức A Kiệt. Cả hai đi thuyền vào bờ, rồi kín đáo đi thẳng đến ngôi nhà thuê.
Bố trí ổn thỏa cho Tiết tiểu thư xong, A Kiệt chỉ uống tách trà rồi vội vàng từ biệt, “Thông cảm nhé, tôi không thể nán lại lâu, còn phải đến nha môn để điểm danh đúng giờ.”
Tiết tiểu thư nói, “Bổ đầu còn tự ý rời nha môn mà ngươi vẫn cần mẫn nhỉ?”
A Kiệt nói, “Người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ đi tìm Oanh Oanh, nhất định sẽ đến nha môn châu phủ ra oai. Không có bổ đầu thì đám bổ khoái càng bị họ hành dữ. Vắng mặt là phiền hà to. Cô cứ nghỉ ngơi, tôi sẽ tranh thủ trở lại đây sau.”
Tiết tiểu thư cười nói, “Ta không muốn ngươi bị ăn mắng đâu, chỉ cần ngươi vẫn nhớ đến ta là được.”
A Kiệt bước ra khỏi nhà, tiện thể đóng cửa lại. Lòng gã lâng lâng, chưa thoát khỏi cảm giác mê đắm vì tình cảm nồng nàn và làn hương ngây ngất của Tiết tiểu thư, nên không nhận ra một người đang đứng phía sau. “Rõ thật là... làm ta giật cả mình!” A Kiệt khẽ kêu lên, chỉ e kinh động đến Tiết tiểu thư.
Là tiểu bổ khoái Đào Đại. “Sao ngươi lại ở đây? Tách ra không ở với cha nữa à?”
“Chuyện dài lắm... sao ngươi lại tìm đến đây?”
Đào Đại đắc ý đưa tay sờ mấy sợi râu lún phún, “Chớ quên ta cũng là một bổ khoái của phủ Giang Kinh. Nghe nói ngươi mới thuê ngôi nhà xập xệ này. Bí mật bao nuôi cô ả nào hả?”
“Đừng nói bừa!” A Kiệt bước lại bịt cái mồm “nói chuẩn” của tên đồng liêu. “Ta chỉ khó chịu vì ông già nói lắm quá, mới chuyển đến đây cho đỡ ù tai. Ngươi lại còn đến gây rối thêm!”
Đào Đại cười nhạt, “Muốn đỡ ù tai thì đến nhà ta lánh mặt mấy hôm là được, sao phải đi thuê nhà cho tốn kém? Lòe ai chứ lòe ta sao được? Trong nhà đang giấu cô nương xinh đẹp nào thế, phải cho xem mặt thì ta mới chịu đi!” Không đợi A Kiệt bằng lòng, Đào Đại đã phóng ngay đến cửa.
A Kiệt đờ ra như tượng, quá bất ngờ vì Đào Đại bỗng xuất hiện, chưa kịp định thần thì gã đã đẩy cửa bước vào. “Không được!” A Kiệt vội đuổi theo.
Đào Đại xông vào, rồi khựng lại vì một mũi đoản kiếm chĩa ngay giữa ngực, gã kinh ngạc nhìn tuyệt thế giai nhân trước mặt. Tay nàng nắm chuôi kiếm, rồi một tiếng “Hự”.
“Đừng, đừng...” A Kiệt chạy vụt đến đỡ đồng liêu kiêm bạn nối khố, gã nhìn Tiết tiểu thư. Ánh mắt gã từ sợ hãi chuyển sang nài nỉ.
Tiết tiểu thư vô cảm rút mạnh kiếm ra, né người để tránh những tia máu phun vào quần áo. Nàng lạnh lùng nói, “Không thể trách ta, mà phải trách gã quá tò mò, cứ thích xen vào chuyện người khác.”
“Nhưng cũng không đến nỗi phải chết!” A Kiệt nói trong tiếng khóc.
“Nếu để gã nhận ra, chẳng lẽ gã không tâu với Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ để lập công lĩnh thưởng? Chỉ e, lúc đó người được thăng chức, về kinh thành làm việc sẽ không phải là ngươi nữa.” Tiết tiểu thư bỗng thút thít, “Còn ta, ta sẽ bị họ giải về để thẩm vấn, hành hạ đủ đường, thậm chí mất mạng...”
“Nhưng... bây giờ thế này... thì làm sao đây?” A Kiệt nước, mắt như mưa ôm xác Đào Đại.
Tiết tiểu thư khẽ nói, “Ta sẽ cho ngươi biết.” Thấy A Kiệt tưởng thật chăm chú nghe, Tiết tiểu thư cười nhạt, “Chôn đi!”
Không hiểu tại sao A Kiệt bỗng nhớ đến mặt hồ trong đêm, một con thuyền với một người mặc áo tơi.
Lại một đêm nữa Liêu Kiếm Phàm không nhìn thấy con trai, đương nhiên là lo lắng, nhưng ông lại không muốn làm khó mình, ông biết con trai đã lớn, Giang Kinh đang đầy mây đen sóng gió và ma quỷ hoành hành, nó làm bổ khoái đã vất vả mà còn phải nghe ông càu nhàu suốt, chả trách không muốn về nhà. Cầu trời phù hộ cho nó đừng trở lại cái chốn miếu Quỷ nguy hiểm ấy. Thật ra, tâm tư của ông đang dồn cả vào vụ án Đoạn Chỉ Ma mới phát sinh, A Kiệt đã đi đâu ngủ qua đêm, ông cũng chẳng thiết căn vặn nữa.
Ngoài Mạc bổ đầu ra, Liêu Kiếm Phàm có tư cách căm hận kẻ đó hơn bất cứ ai. Đôi chân tàn phế của ông tất nhiên là do Đoạn Chỉ Ma “ban cho”, cũng vì tên tà ma này mà gia đình đầm ấm của ông tan nát, ngày xưa vợ ông ra đi, ngày nay con ông mặt nặng mày nhẹ. Cho nên, sẽ không ai trách ông bấy lâu nay cứ như kẻ mất hồn hoặc ban ngày hay ngồi lẩm bẩm với bức tường ở sân sau nhà.
“Liệu có phải... ngươi đã quay lại rồi không?”
Ngồi trên ghế gỗ, cái ghế thay cho đôi chân, lộc cà lộc cộc. Ông ra khỏi nhà, khóa cổng lại. Bộ dạng cứ như sắp lên đường đi xa. Rồi ra đến đầu ngõ. Ông đã gọi cỗ xe to, xe đang chờ ông ở đây. Người đánh xe là ông bạn già Đào Húc. Đào Húc xuống ngựa định bước đến đỡ Liêu Kiếm Phàm lên xe, nhưng lại nhớ ra tính khí ông ta nên “không dại gì”, chỉ đứng nhìn Liêu Kiếm Phàm tung mình nhảy lên xe, rồi nhấc cái ghế đặc biệt lên.
Hai người vừa trò chuyện vừa đi, ra khởi cổng thành, xe đi theo con đê trồng dương liễu ven sông Thanh An, lát sau họ dừng lại trước một quả đồi cao. Trên đồi là rừng tùng bách rậm rạp, đó cũng là khu nghĩa địa của dân chúng Giang Kinh từ trăm năm nay. Đào Húc biết quy tắc của Liêu Kiếm Phàm, chỉ dừng xe dưới chân đồi rồi ngồi hút thuốc, chờ ông ta một mình “đi” bằng cái ghế gỗ vào rừng. Vì lão Liêu muốn nói chuyện riêng với Tiểu Hạm, Đào Húc không muốn quấy rầy.
Tiểu Hạm họ Mễ, cũng là người địa phương, dòng dõi thư hương danh giá, các thế hệ thi thoảng vẫn xuất hiện cử nhân tiến sĩ. Phụ thân của Tiểu Hạm cũng đỗ tú tài, gia đình có mười ba đứa con, Tiểu Hạm là con thứ mười hai, nên về sau giới võ lâm Giang Kinh gọi bà là “Mễ thập nhị nương”. Cũng, vì là con thứ mười hai nên bị thờ ơ, Tiểu Hạm không miệt mài đọc sách như các anh chị em của mình, bà chỉ mê luyện đao múa kiếm.
Cha bà không ngăn được, đành đưa con lên núi Cửu Hoa học võ, tiện thể tu Phật, hi vọng con hóa giải được tính khí bất kham.
Mễ Ngọc Hạm học võ mười năm rồi quay lại Giang Kinh, thành thân với Liêu Kiếm Phàm, trở thành nữ công sai đầu tiên trong lịch sử Giang Kinh, lại sinh ra cậu con trai linh lợi.
Liêu Kiếm Phàm hơn Mễ Ngọc Hạm bảy tuổi, ông rất mực yêu thương vợ, gia đình vui vẻ mọi bề. Nào ngờ bi kịch ập đến quá nhanh. Chuyện xưa đau thương dù không thể bị thời gian làm mờ đi nhưng ít ra cũng bớt sôi sục, A Kiệt đã trưởng thành, cao lớn sáng sủa, được đồng liêu ở nha môn khen ngợi.
Âm thanh của chiếc ghế gỗ gõ lộc cộc trên đá nhỏ dần. Đào Húc ngẩng nhìn làn khói thuốc phả lên không trung, ông bỗng nhớ đến A Đại. Đêm qua nó không về nhà, nó đã đi đâu?
Liêu Kiếm Phàm lên dốc, đi được một đoạn, len lỏi giữa rừng cây. Tuổi cao, phải vận sức đế điều khiển chiếc ghế gỗ dịch chuyển, khi đến mộ Tiểu Hạm, ông đã thở gấp, toàn thân vã mồ hôi. Hôm nay không phải lễ tết nên không có ai đi viếng mộ thân nhân, bốn bề vắng vẻ. Ông rời cái ghế gỗ, xuống ngồi trước mộ vợ, cúi đầu nghĩ ngợi, thầm khấn một hồi tôi khẽ nói, “Mình ơi, gần đây Đoạn Chỉ Ma lại bắt đầu gây tội ác, tôi nhớ đến mình...” nghe thấy âm thanh gì đó, ông ngẩng đầu nhìn quanh. Gió thổi, rừng thông rì rào, chắc mình nghe nhầm. “Xem ra, Đoạn Chỉ Ma vẫn chưa chết. Tại sao sau bao năm im lặng, nay y lại lộ diện, chắc là vì liên quan đến kho báu Bá Nhan.” Liêu Kiếm Phàm tiếp tục lẩm bẩm. Lại một làn gió thổi đến, cây cối lao xao hưởng ứng, là tán thành hay lắc đầu? Ông lại nhìn quanh, không có bóng ai, hai tay ông đặt xuống đất rồi hẩy mình lên, cứ thế vài lần, ông đi đến bên một cây thông. Cây đã lâu năm, thân to, một người ôm không xuể, một số sợi rễ đã ngoi lên mặt đất. Gần chỗ rẽ cành có một chỗ lõm sâu, là cái hốc tự nhiên của cây. Liêu Kiếm Phàm thò tay vào, lần mò xác định, rồi moi ra một túi giấy dầu chống thấm. Nhìn các dấu vết, xác định chưa bị ai đụng đến, ông mở túi ra. Bên trong có hai cuốn sách mỏng, là sổ ghi chép từ thời lên núi Cửu Hoa học võ mà Tiểu Hạm luôn mang theo người, một cuốn về nội công tâm pháp, cuốn còn lại về kiếm pháp.
Người đã đi xa, cái chết của Tiểu Hạm vợ ông có liên quan đến võ công của chính bà. Ông không muốn nhìn thấy sách vì nó gợi nhớ đến người, bèn giấu chúng trong hốc cây này, coi như chôn theo vợ. Cái túi vẫn nguyên vẹn, Liêu Kiếm Phàm yên tâm cất lại vào hốc cây. Ông quay về bên mộ, ngồi xuống một lúc, vẫn không hiểu tại sao Đoạn Chỉ Ma lại lộ diện ở Giang Kinh làm điều ác.
Cuối cùng, ngại Đào Húc phải chờ lâu, Liêu Kiếm Phàm ngồi lại ghế để xuống đồi. Tiếng lộc cộc vừa vang lên bỗng tắt lịm, Liêu Kiếm Phàm ớn lạnh, một lưỡi kiếm đang lia đến, dừng lại nơi gáy ông.