← Quay lại trang sách

Chương 24 Ngõ liễu

Phía sau lầu Nhạc Dương. Lâm Hưởng, Ngải Ngải và Y Lạc bị một toán người chặn lại, xung quanh vốn tối đen, lúc này sáng trưng bởi hơn chục cái đèn lồng. Người đi đầu là Lâu Toàn Bưu, bổ đầu Giang Kinh.

Đêm nay, trước khi xuất hành bám theo đám đệ tử phái Điểm Thương, Lâm Hưởng đã dặn dò Lâu Toàn Bưu gọi toàn thể công sai bổ khoái đến nha môn đợi lệnh, dặn rằng đến canh ba vẫn không thấy động tĩnh gì thì sẽ trở lại nha môn thông báo giải tán, giờ đã sau canh ba vẫn bặt tăm. Lẽ nào Lâm Hưởng về quán trọ ngủ rồi? Không, đó không phải tác phong của sai dịch Đông Xưởng. Vì thế, Lâu Toàn Bưu chia đám bổ khoái làm ba nhóm, đến xem xét ba nơi hay vi phạm lệnh cấm của thành Nhạc Dương. Đó là ba khu vực lớn hay ca vũ tiệc tùng gây náo loạn thâu đêm. Một trong số đó là Vân Mộng Lý, chốn ăn chơi ong bướm. Các lầu xanh ở Vân Mộng Lý thường xuyên vi phạm lệnh cấm, nhưng họ chi bạc cho nha môn đâu ra đấy, vì thế các công sai cũng hay nhắm mắt làm ngơ.

Các bổ khoái đi Vân Mộng Lý lần này không dám chủ quan, bởi lẽ, vừa đến đầu ngõ họ đã thấy có điều bất ổn. Họ gặp khách làng chơi chạy bổ ra, nói là định đi báo quan vì Họa Mi Cư bị kẻ xấu tắm máu. Các bổ khoái chạy vào xem xét hiện trường, thấy ngay vài cái xác gồm cả khách lẫn người hầu, ma ma Tiểu Kiều cũng bị thương nặng, khuôn mặt khả ái lãnh hai nhát kiếm, dung nhan coi như bị hủy hoại.

Lâu Toàn Bưu lập tức được báo tin. Khi được hỏi, các kỹ nữ và khách làng chơi đều nói có một bọn người truy bắt một nam một nữ. Hai người ấy đã nhảy lên nóc nhà rồi chạy về hướng Tây. Nam nhân mảnh khảnh, bịt mặt bằng khăn xanh, nghe mô tả có vẻ là Lâm Hưởng. Họ chạy về hướng Tây, là nơi nào? Dân ở đây nói hướng Tây chủ yếu là chỉ hồ Động Đình.

Lâu Toàn Bưu không thể xác định bọn người kia có đi về hướng Tây không, nhưng khu vực dưới lầu Nhạc Dương có Tây Môn bỏ hoang đã lâu, dân giang hồ thường vào thành Nhạc Dương bằng lối đó, bèn dẫn thuộc hạ chạy đến lầu Nhạc Dương. Đến nơi, họ không thấy bóng ai, nhưng nhìn thấy trên mặt hồ có ánh đèn. Đêm khuya chèo thuyền ra hồ là vi phạm quy định, chắc chắn đó là mấy tên nhân sĩ giang hồ coi trời bằng vung. Lâu Toàn Bưu bèn bố trí nha dịch mai phục, hi vọng sẽ tóm được vài tên để tra hỏi.

Nhưng các công sai không ngờ kẻ bị tóm lại là Lâm Hưởng và hai mỹ nhân! Lâu Toàn Bưu nhìn Y Lạc ăn mặc theo kiểu Bạch Liên Giáo thì biết ngay là bị Lâm Hưởng bắt được, bèn hô lớn, “Bắt lấy chúng!” Các bổ khoái biết mặt Lâm Hưởng, cho nên, “chúng” ở đây tức là hai cô gái.

“Khoan đã!” Lâm Hưởng dõng dạc nói. Đám bổ khoái đang lăm lăm đao, thương, côn, xích... đều dừng cả lại.

Lâm Hưởng tung mình nhảy đến trước mặt Lâu Toàn Bưu, bổ đâu định chào thì đã bị Lâm Hưởng giơ tay điểm liền mấy huyệt lớn. Lâu Toàn Bưu võ công rất khá nhưng bị người phe mình đánh úp bất ngờ, lập tức đổ sập xuống đất không nói được nửa lời.

Một bổ khoái hô lên, “Làm phản à?”

Thế là cả đám xô tới. Lâm Hưởng xuất chưởng, chỉ tay điểm huyệt, cả bọn chỉ chớp mắt đều lần lượt ngã gục.

Lâm Hưởng thở phào nhìn các bổ khoái cứng họng nằm la liệt trên đất. Gã biết, nếu không ra tay kịp thời thì sẽ bị Lâu Toàn Bưu và các đồng liêu gọi ra danh phận Đông Xưởng, không thể cùng Ngải Ngải đi Giang Kinh được nữa, công trạng mất toi cũng được, nhưng Ngải Ngải biết gã là người của Đông Xưởng thì sẽ nghĩ sao? Liệu cô bé còn đối xử chân thành và cùng ngao du giang hồ với gã nữa không? Trước khi thành công, gã không thể để lộ danh phận Đông Xưởng!

Lâm Hưởng ngoảnh nhìn hai cô gái đang trố mắt, “Ta chỉ điểm huyệt vô hiệu hóa họ đến canh năm, trước khi mở cổng thành. Nhằm giảm bớt mọi phiền hà.”

Ngải Ngải và Y Lạc nhìn Lâm Hưởng điểm huyệt, thảy đều kinh ngạc. Ngải Ngải viết lên lưng Lâm Hưởng: Muốn đến thăm Họa Mi Cư. Lâm Hưởng biết lầu xanh đó có nhiều thương vong, người vốn che chở Ngải Ngải là Tiểu Kiều giờ đã bị hủy dung, Ngải Ngải đương nhiên không thể thờ ơ. Tuy rất đồng cảm, gã vẫn khuyên, “Viên tiểu thư trọng tình nghĩa, nhưng kẻ xấu còn ở Họa Mi Cư, quay lại đó là tự chui đầu vào rọ. Chúng ta cứ đi Giang Kinh đã, mai kia ta sẽ cùng tiểu thư về Nhạc Dương.”

Ngải Ngải không nói gì nữa, chỉ buôn bã lặng nhìn về phía Vân Mộng Lý. Cả ba chờ đến canh năm, Lâm Hưởng mua hai con ngựa thắng vào xe chở hai cô gái, rồi đánh xe ra ngoài thành qua Đông Môn, phóng thẳng về phía Giang Kinh. Dọc đường phải vào nghỉ quán trọ, Lâm Hưởng nói với chủ quán, “Ta đưa nương tử và tiểu muội đi chơi.” Y Lạc sắm vai nương tử, Ngải Ngải sắm vai tiểu muội, cả ba ở chung một phòng, Lâm Hưởng cứ để nguyên quần áo mà nằm. Y Lạc đã thay trang phục như một thiếu phụ bình thường, trông vẫn muôn phần xuân sắc. Lâm Hưởng biết giữ mình, nhất là đang khi làm công vụ, nhưng khó tránh khỏi dao động vẩn vơ. Tối tối gã đều tọa thiền đến khuya, lại nghĩ về Ngải Ngải thuần khiết trong sáng, nên hạn chế được tơ tưởng.

Trên đường đi, Y Lạc tập giao tiếp với Ngải Ngải. Ngải Ngải thoạt đầu cảnh giác, nhưng ngồi xe không thể viết chữ cũng buồn, rồi dao động bởi sự nhiệt tình chân thành của Y Lạc, thái độ cũng dần dần ôn hòa hơn.

Y Lạc và Lâm Hưởng vẫn không hiểu tại sao Ngải Ngải lại nhận ra Viên phu nhân giả mạo, bèn dò hỏi mấy lần. Ngải Ngải cảnh giác không nói gì, nhưng khi quan hệ với Y Lạc trở nên thân thiết hơn, cô gái nhỏ đã nói ra nguyên do, nốt ruồi trên trán Viên phu nhân là nốt ruồi giả. Ngải Ngải có một nốt ruồi bẩm sinh, không do di truyền từ cha mẹ. Hồi ba bốn tuổi từng bị con cái của người hầu trêu ghẹo vì cái nốt ruồi này, chúng còn gọi cô là “Tiểu yêu”. Viên phu nhân muốn an ủi con, nên tự vẽ một nốt ruồi son trên trán mình, nói là “nốt ruồi cao quý” do di truyền, “Con xem, mẹ cũng có đây này.” Ngải Ngải còn bé, chỉ hiểu lơ mơ, nên đã tin là thế. Kể từ đó, Viên phu nhân luôn luôn tự vẽ nốt ruồi, và chẳng ai trêu ghẹo Ngải Ngải nữa. Cho nên, tranh vẽ Viên phu nhân do Đông Xưởng tung ra đều có một nốt ruồi son.

Khi lớn khôn, Ngải Ngải hiểu ra tâm ý của mẹ và cũng nhớ nốt ruồi son của bà phẳng chứ không cộm lên như nốt ruồi thật của mình. Nốt ruồi được làm khéo của “Viên phu nhân” kia nổi hẳn lên, rõ ràng là đồ giả. Khi Ngải Ngải bước lại gần nhìn kỹ, đã khẳng định được điều này. Còn về mấy câu Viên Sùng Hoán dặn dò Viên tiểu thư lúc vào ngục thăm ông, thì Ngải Ngải quyết không nói ra, Lâm Hưởng và Y Lạc cũng không gặng hỏi nữa.

Hai hôm sau đến Giang Kinh, ba người vào quán trọ. Lâm Hưởng nói với Ngải Ngải, “Có địa chỉ của người mà tiểu thư cần tìm không?” Ngải Ngải lắc đầu, Lâm Hưởng nói tiếp, “Giang Kinh rộng lớn, vậy nên bắt đầu tìm từ đâu?”

Ngải Ngải cười, ra hiệu với Y Lạc. Y Lạc nói, “Huynh đi mượn chủ quán giấy bút.” Có giấy bút rồi, Ngải Ngải bắt đầu vẽ, vẽ hình hai người sinh động, quần áo mũ mão cũng vẽ rõ ràng, đẹp hơn hẳn các bức vẽ truy nã hay dán ở cổng thành. Y Lạc trầm trồ khen ngợi. Lâm Hưởng bước lại xem, rồi giật mình. Trước khi rời Đông Xưởng xuống đây, gã đã nghiên cứu tỉ mỉ hai gương mặt này nên không thể quên. Một trong hai người có khuôn mặt dài, cặp lông mày nhọn, khí thế, mặc áo ngắn, quần chẽn ống, là kiểu của ngư dân, nhưng trông lại có nét thư sinh. Người kia diện mạo thanh tú, đội mũ hợp với khuôn mặt đẹp, mặc áo xanh, giắt trường kiếm, lưng đeo túi gấm. Đó là hai thủy tặc có hạng thời nay, Sở Ca và Vân Lăng! Lâm Hưởng đi Nhạc Châu nhằm truy tìm tung tích của Vân Lăng, nào ngờ cơ duyên dẫn dắt, gã tóm được cô con gái của nghịch thần Viên Sùng Hoán, lúc này lại biết tin Vân Lăng đã trở lại Giang Kinh. Và, Sở Ca liên kết với Vân Lăng, sẽ còn khối chuyện thú vị đây! Xem ra, chuyến đi này Lâm Hưởng không chỉ phá được một mà hẳn vài ba vụ án, con gái Viên Sùng Hoán, trùm phỉ Bạch Liên Giáo, hai tên thủy tặc, tung tích kho báu Bá Nhan và linh kỳ đại hãn! Nếu lần theo truy tìm giải quyết tất cả, thì phen này ở Đông Xưởng gã sẽ được đổi đời! Lòng khấp khởi nhưng không thể hiện ra nét mặt, gã nhìn kỹ hai bức hình hồi lâu, rồi hỏi, “Chúng ta sẽ cầm theo hai bức vẽ này ra phố nghe ngóng à?”

Ngải Ngải tủm tỉm, rồi viết lên một mảnh giấy khác bốn chữ: Phải nhằm trúng đích. Cô gái lại cùng Y Lạc nói chuyện bằng động tác tay một hồi, rồi bỗng đỏ mặt, viết lên bàn tay Y Lạc mấy chữ.

Y Lạc cười, ngoảnh sang Lâm Hưởng, “Hỏi chủ quán xem chốn lầu xanh ở đâu, lầu nào lớn nhất, có nhiều cô nương nhất.”

Thì ra, Ngải Ngải vẫn nhớ năm xưa Sở Ca dẫn quân cướp tù, đưa cô trốn về miền Nam, hễ dừng chân nghỉ tạm, Sở Ca đều đưa cô bé vào các kỹ viện. Bởi nha phủ nhận được lệnh truy nã, trước hết sẽ sục tìm các quán trọ, hàng ăn, bến đò, ai mà ngờ phạm nhân đang hốt hoảng chạy trốn lại còn tâm trạng đi chơi lầu xanh? Vì thế, các lầu xanh thường không bị thăm viếng. Vào nơi nào Sở Ca cũng hào phóng chi bạc mua chuộc ma ma, kèm theo võ công thượng thặng uy hiếp, bắt ma ma và các cô nương trong thanh lâu phải ngậm miệng, rồi dẫn Ngải Ngải vào một phòng ở. Ma ma không bao giờ được quan phủ cho tiền, nên bà ta sẽ không dại gì mà nhiễu sự, ngoan ngoãn để cho Sở Ca tạm trú một đêm. Nếu hiện nay Sở Ca vẫn bị triều đình truy nã, vẫn đồng hành với các cường đạo Giang Kinh, thì y sẽ lại hành động kín đáo và tạm trú ở kỹ viện. Huống chi, Vân Lăng giả trai, vào kỹ viện lại càng không vấn đề gì, lỡ gặp nguy hiểm thì chỉ cần thay đồ phụ nữ rồi trà trộn vào các kỹ nữ là ổn.

Mang theo hai bức hình, cả ba đi hỏi thăm lần lượt từng thanh lâu đều tốn công vô ích, cho đến khi tới Ánh Xuân Uyên thì... được việc! Ma ma họ Triệu nói “Không biết gì hết” nhưng vẻ mặt kinh hãi của bà ta khi nhìn hai bức chân dung thì chẳng khác gì không khảo mà xưng. Lâm Hưởng nhận ra uẩn khúc, ngoảnh nhìn Y Lạc. Cô ta nói thầm, “Chắc chắn bà ta đã gặp.”

Lâm Hưởng cười, gật đầu, rồi cầm hai bức chân dung trên quầy cuốn lại cho gọn, ra vẻ băn khoăn, quay người định bước đi. Thình lình xoay phắt lại, bất ngờ cắm phập cuộn giấy xuống mặt quầy. Triệu ma ma nhìn giấy mềm ăn sâu vào gỗ, dù mù tịt võ học thì cũng toát mồ hôi nhận ra thanh niên trông hiền lành này không dễ đối phó. Y Lạc bước đến, tươi cười nhổ cuộn giấy lên, mở ra như cũ rồi nhẹ nhàng hỏi, “Lầu hoa của ma ma làm ăn phát đạt, khách khứa nườm nượp, đâu thể lập tức nhận ra từng người? Bây giờ bà nhìn lại xem, chắc sẽ nhớ ra.”

Triệu ma ma như thể chết đuối vớ được cọc, bèn nắm lấy luôn, “Vâng, tôi sẽ xem lại.” Bà ta giả bộ chăm chú nhìn thật kỹ hai bức hình, rồi bừng tỉnh, “À, nhớ ra rồi! Đúng là họ có tới lầu của tôi. Cả hai rất lạ lùng, không gọi cô nương nào vào hầu, chỉ ngủ riêng mỗi người một phòng.”

“Họ đâu rồi?” Lâm Hưởng hỏi.

“Đã đi từ mấy hôm trước, không nói là đi đâu.”

Y Lạc tiếp, “Họ đến Giang Kinh buôn bán gì?”

Triệu ma ma nói, “Ai nói là họ buôn bán?” Bà ta định kể vụ họ hóa trang nữ nhi lừa lão Khâu, nhưng nhớ đến cái chết của Tiểu Hồi Hương, hiểu rằng lắm mồm sẽ hớ to, lại chuốc lấy rắc rối, bèn nén lại rồi nói sang chuyện khác, “Cả hai suốt ngày ru rú trong phòng, chúng tôi coi như họ là quan viên hẹn nhau đến đây bàn chuyện kín, để tránh ánh mắt dòm dỏ của người đời. Nhưng mấy ngày tiếp theo họ vẫn ở riêng nên tôi chẳng hiểu ra sao.”

Lâm Hưởng vốn định hù dọa nữa để moi thêm manh mối, nhưng xem chừng hai tên thủy tặc ấy khó mà hé lộ điều gì với Triệu ma ma, nên lại thôi. Dù sao, ít ra cũng biết chắc hai người đã từng đến Giang Kinh, nếu họ đến vì kho báu Bá Nhan thì đương nhiên không chịu ra về tay không, có khi đang quanh quẩn ở đây, cần tìm hiểu thêm.

Ngải Ngải từ nãy vẫn đứng ngoài cửa, lúc này bước vào giơ tay “đối thoại” với Y Lạc, rồi lại viết lên lưng Lâm Hưởng: Vào phòng xem sao. Lâm Hưởng hiểu ra, nơi hai tên đó ở may ra vẫn còn chút dấu vết.

Triệu ma ma bực mình khi nghe yêu cầu của Lâm Hưởng, nhưng nhìn cái lỗ trên bàn do cuộn giấy cắm xuống, bà ta cũng không dám từ chối, huống chi, lúc này bà ta đang ngây người nhìn Ngải Ngải.

“Này, tiểu muội ta đấy, bà chớ nghĩ vớ vẩn.” Lâm Hưởng lừ mắt.

“Không dám!” Triệu ma ma nói, “Cô đây... không nói được, là Ngải Ngải phải không?”

Một luồng sáng lóe lên, trường kiếm của Lâm Hưởng đã kề cổ ma ma, “Bà là ai? Sao biết tên Ngải Ngải?”

Triệu ma ma sợ hết hồn, nghẹn tiếng, “Kìa, hảo hán đừng... một trong hai người trên hình dặn tôi... giao một thứ cho cô gái này.”

Lâm Hưởng thu kiếm về, nhưng vẫn tức giận, “Mau đem ra đây!”

Bà ta dẫn ba người vào một gian ở tầng trên, nhìn trước ngó sau không thấy ai, bèn đóng chặt cửa lại. Giữa căn phòng có một chiếc giường to, chăn đệm đẹp, bà ta chỉ vào đầu giường, “Phiền hảo hán nhấc lên hộ tôi.”

Lâm Hưởng làm theo, Triệu ma ma ngồi thụp xuống lật hai mảnh ván, moi ra một cái hộp bằng bạc rộng chừng hơn gang tay, rồi đưa cho Ngải Ngải. Hộp chạm trổ hoa lá tinh xảo. Lâm Hưởng nói, “Yêu cầu bà tạm lánh đi.”

Triệu ma ma cười nhạt, “Hai vị cũng thế. Người ấy đã dặn tôi chỉ để cô bé này xem.” Bà ta làu bàu, “Nhưng tôi biết, tôi chẳng thể ngăn cản các vị.”

Ngải Ngải ngắm cái hộp, rồi lại đặt xuống giường, vẻ hiếu kỳ.

Y Lạc dịu dàng, “Ngải Ngải tự xem đi, ta và Lâm Hưởng ra cửa chờ.”

“Ng... ng...” Ngải Ngải chỉ vào hai người rồi lại chỉ vào cái hộp bạc.

“Chúng ta cũng được xem à?” Y Lạc hỏi.

Ngải Ngải cười, gật đầu.

Lâm Hưởng mở cửa phòng, Triệu ma ma biết ý, bèn đi ra.

Ngải Ngải vội mở nắp nhưng Lâm Hưởng ngăn lại, “Cẩn thận! Coi chừng bên trong có ám khí.” Khi xem xét các loại hòm xiểng thu được, quy trình của Đông Xưởng là trước hết thử gõ nhẹ, nghe xem có tiếng động gì lạ không, rồi gõ mạnh, xem có phát nổ không, cuối cùng, dùng gậy sắt móc sắt để mở hộp chứ không dùng tay.

Ngải Ngải mỉm cười, rồi giơ ngón tay ra hiệu “Không sao cả”. Sau đó cô lật giở cái hộp, trỏ chữ “Dã” khắc ở một góc. Độc Cô Dã, biệt hiệu của Ngải Ngải. Đủ thấy đây là thứ Sở Ca chuẩn bị cho Ngải Ngải, mở ra an toàn.

Lâm Hưởng tự dưng bồi hồi, liệu có ngày nào Ngải Ngải sẽ tin gã như tin Sở Ca? Nhưng ngay lập tức tự thấy mình thật đáng cười, vì khi bị tống ngục Đông Xưởng rồi, có khi Ngải Ngải chỉ mong gã bị đao kiếm băm vằm cho xong.

Ngải Ngải mở hộp. Bên trong là một bức thư bọc giấy nến. Ngải Ngải mở ra, thoáng nhìn, mặt hơi biến sắc. Thư chỉ có ba chữ “Mau trở về”. Ngắn gọn, nhưng gói trọn mọi điều.

Bên dưới thư là một cái túi gấm. Trong túi là tấm áo nhuyễn giáp đen bóng. Lâm Hưởng ồ lên ngạc nhiên. Ngải Ngải và Y Lạc đều nhìn Lâm Hưởng. Gã đành nói, “Ta từng nghe một người lính già xuất ngũ kể rằng, Viên đốc sư khi xưa ra trận luôn mặc ô kim nhuyễn giáp. Nghe nói, đao thương, tên bắn cũng không thể xuyên thủng. Viên đốc sư từng bị trúng tên nhiều lần nhưng đều được nhuyễn giáp bảo vệ an toàn.” Còn một điều gã không nói ra, là tài liệu Đông Xưởng có chép, Viên Sùng Hoán bị kết tội rồi tống giam, ô kim nhuyễn giáp cũng phải tịch thu, nhưng tìm ở quân trướng, ở phủ đệ kinh thành đều không thấy, đoán rằng Viên Sùng Hoán đã tặng nhuyễn giáp cho ai từ trước. Hóa ra chính Dương Khiếu Lâm đem đi.

Y Lạc khẽ nói, “Sở Ca thực có tâm, người này biết Ngải Ngải muội cư trú yên bình thì không cần nhuyễn giáp hộ thân. Nhưng xông pha giang hồ có nhiều rủi ro, bộ giáp sẽ rất hữu ích.”

Lâm Hưởng hừ mũi, “Nhưng Sở Ca lại chẳng ngờ lần này Ngải Ngải đã có hai hộ vệ tận tâm, sẵn sàng hứng chịu rủi ro cho cô bé.”

Ngải Ngải không để ý nghe, cứ mải vuốt ve tấm nhuyễn giáp mà trào nước mắt, vì thương cha, vì xúc động trước tấm lòng của Sở Ca, hay là cả hai?

Lát sau, Y Lạc khẽ hỏi, “Có muốn mặc bây giờ không?” Ngải Ngải gật đầu. Y Lạc nhìn Lâm Hưởng, gã hiểu ý, bèn đi ra ngoài phòng, khép cửa lại.

Vừa đứng yên, Lâm Hưởng liền nghe thấy tầng dưới có giọng nói già nua nhưng vẫn mạnh mẽ, “Ai đến đây làm loạn thế? Có còn vương pháp nữa không?”

Những âm thanh lộc cộc rót vào tai, Lâm Hưởng siết chặt đốc kiếm, nhìn xuống dưới thì thấy một người đang đứng, thật ra là ngồi, trước mặt Triệu ma ma. Là một ông già cụt chân, tay tì vào cái ghế đẩu.

Triệu ma ma đon đả, “Ôi, đã lâu không gặp, làn gió mát nào đưa lão Liêu đến đây thế? Chỗ tôi không có ai gây rối đâu, vẫn ổn cả, chắc chỉ là hiểu lầm...”

Liêu Kiếm Phàm ngước mắt lên cao hơn, thấy Lâm Hưởng bấy giờ đã rời tay khỏi đốc kiếm, đứng thẳng người, môi mỉm cười. Ông không truy hỏi nữa, mà nói sang chuyện khác, “Ta đang giúp lão Đào chủ hiệu thuốc tìm thằng con A Đại.”

Triệu ma ma hiểu ngay, tươi cười, “Các ông sợ đám trẻ sung sức ham chơi, đến đây tiêu khiển chứ gì? Nói thật nhé, Đào Đại hay Liêu Nhất Kiệt đều rất ngoan ngoãn, chưa vào đây bao giờ. Hai vị thật biết dạy bảo con cái.”

“Thế á?”

“Tôi đâu dám nói dối? Chẳng lẽ lại không sợ ông dỡ cửa tiệm của tôi à?” Triệu ma ma cười, day nắn hai vai Liêu Kiếm Phàm, chỉ tiếc không thể bốc cả người lẫn ghế quẳng ra ngoài.

Nhà họ Liêu ở gần khu lầu xanh, chỉ cách đây vài quãng phố, dài chừng một dặm là cùng. Liêu Kiếm Phàm đang có điều băn khoăn, vừa đi vừa nghĩ nên một dặm đường này hôm nay bỗng xa diệu vợi. Từ hôm Đào Húc đánh xe chở ông đi viếng mộ vợ, Đào Đại đã đi biệt hai ngày không về nhà. Cũng như A Kiệt, Đào Đại từ bé tinh nghịch nhưng chưa từng gây ra tai họa gì lớn, cũng chưa từng đi qua đêm. Ít lâu nay Giang Kinh cứ như bị ma ám, xảy ra trọng án đã đành, đám thanh niên cũng thay đổi hẳn. A Kiệt trở nên lầm lì khó hiểu, nhất là sau nguy hiểm ở miếu Quỷ, gã biến đổi hẳn, khó nắm bắt tâm tính, bỏ đi qua đêm đã là chuyện thường tình. Tuy nhiên sáng sớm vẫn đến nha môn điểm danh, ban ngày vẫn trở về nhà “trình diện”, chào hỏi cha già. Không kể cái lần gặp nguy ở miếu Quỷ thì gã chưa bao giờ đi mất hút hai ngày hai đêm như Đào Đại. Một người vốn nề nếp, biệt tăm hai ngày liền, đã bị coi là mất tích chưa? Đáng lo nhất là mất mạng. Gần đây, giới võ lâm đổ về Giang Kinh ngày càng đông, giang hồ đồn đại về kho báu Bá Nhan và linh kỳ cũng càng sôi nổi. Mạc Tông Trạch đã sai các bổ khoái đi khắp nơi ngăn cản khuyên nhủ bọn họ quay về, nhưng không ăn thua. Trên hồ Chiêu Dương nườm nượp thuyền lớn thuyền nhỏ, các hộ ngư dân xung quanh khỏi cần vất vả cả ngày, chỉ cần cho thuê thuyền là kiếm ra tiền. Liệu Đào Đại láu táu có đắc tội với gã giang hồ nào để rồi hóa thành ma, chết oan dưới lưỡi đao của họ? Ít ra Đoạn Chỉ Ma cũng chưa từng giết nam giới...

Nghĩ đến Đoạn Chỉ Ma, Liêu Kiếm Phàm lại rùng mình. Lưỡi kiếm kề cổ ông khi viếng mộ hôm đó, đến giờ vẫn còn lạnh. Lưỡi kiếm không đáng sợ bằng kẻ cầm kiếm, kẻ đó là ma chứ không phải người. Lã Diệp Hàn đã chết, chết từ hơn hai mươi năm trước, chính mắt ông nhìn thấy. Con trai ông không ngớt hỏi “Mẹ con chết như thế nào”, nhiều người đã cho nó biết “Bà ấy tự sát, tôi đã nhìn thấy”... Nhưng rõ ràng là Lã Diệp Hàn thì chưa chết, nếu không, ông ấy đã không cầm Lãnh tuyền kiếm rồi nói “Ngày mạt vận của Giang Kinh sắp đến”, không kề lưỡi kiếm vào cổ ông hỏi “Có phải Đoạn Chỉ Ma đã tái xuất không?”, cũng không cho ông biết A Kiệt từ bé đã theo mình học kiếm thuật, Lã Diệp Hàn thông qua nó nắm bắt mọi động thái của ông. “Ta đã sớm nghi ngờ ngươi từ trước cuộc chiến mà ngươi bị tàn phế!”

Rồi Lã Diệp Hàn “tâm sự’ với ông, “Năm xưa mỗi lần ta dày công giăng bẫy, đều bị Đoạn Chỉ Ma biết thóp, ta không hiểu nổi tại sao. Về sau được cao nhân gợi ý, ta ở chốn sơn lâm mới tháo gỡ được mối băn khoăn này, lần nào Đoạn Chỉ Ma cũng chặn đứng kế sách của ta, bởi vì y đã thừa biết ý đồ của ta rồi! Ai biết kế hoạch của ta? Chính là lũ bổ khoái các người!”

Vẫn bị Lãnh tuyền kiếm gí vào cổ, Liêu Kiếm Phàm khẽ gật đầu. Đúng thế còn gì!

“Thảo nào, khi giăng bẫy mới, Lã bổ đầu không loan tin cho đám bổ khoái chúng tôi biết. Như vụ án Thích phu nhân, ông chỉ gọi người mới nhậm chức là Mạc phó bổ đầu tham gia, vì ông biết khi trước ông ta ở tận kinh đô xa xôi, không thể là Đoạn Chỉ Ma.”

Lã Diệp Hàn nói, “Trong các bổ khoái nha môn, ngươi có võ công cao nhất, lại là con nhà nòi công sai, vì tính tình cứng rắn mà không được quan phụ mẫu ưa, nên không thể làm bổ đầu, từ đó oán hờn cũng tích tụ.”

Liêu Kiếm Phàm sửng sốt, rồi gượng cười, “Ông nói là Liêu mỗ đã gây ra các vụ trọng án, nhằm xả giận, để quan trên lo sợ mà thăng chức cho tôi làm bổ đầu à?”

“Nhưng không ngờ một cựu binh Đông Xưởng là ta lại đến nắm mất cái chức ấy.” Lã Diệp Hàn cũng gượng cười, “Cách suy đoán này không phải là tự dưng. Bổ khoái ngấm ngầm ai oán như ngươi, không chỉ có một hai kẻ.”

Liêu Kiếm Phàm cười nhạt, “Ai oán là một chuyện, nhưng Liêu mỗ từ nhỏ được cha mẹ dạy dỗ, coi việc giữ gìn trị an Giang Kinh là nhiệm vụ của mình, dù làm bổ khoái hay bổ đầu cũng đều là phục vụ địa phương, chứ đời nào lại làm hại dân chúng?”

“Vỗ ngực nói hay, ai chẳng biết!” Lãnh tuyền kiếm của Lã Diệp Hàn vẫn kề cổ Liêu Kiếm Phàm, “Từ khi ta nhậm chức, Đoạn Chỉ Ma coi ta là đối tượng để y làm càn đùa giỡn, y trút vào ta mọi oán hờn đang có. Thử nghĩ xem tại sao ta nghi ngờ nhà ngươi? Thật ra không chỉ riêng ngươi mà còn vài bổ khoái kỳ cựu nữa. Ta nhận định Đoạn Chỉ Ma là một trong các bổ khoái, ta nhiều lần cùng lão Mạc giăng bẫy thăm dò nhưng chưa kẻ nào cắn câu. Cho đến vụ Thích phu nhân, vụ mà ta cho là kế hoạch vẹn toàn kín kẽ nhất, nào ngờ vẫn thất bại, Thích phu nhân trong ngôi nhà nhỏ ven sông bị bắt đi, ta và lão Mạc giao đấu trong đêm tối, suýt nữa tàn sát lẫn nhau! Ai mà ngờ Đoạn Chỉ Ma gây ra đến hai vụ trọng án trong một đêm, cướp Thích phu nhân và giết vợ mới cưới của lão Mạc. Đau xót vô cùng đã đành, ta hiểu rằng phải dùng biện pháp khác thường, phải lập diệu kế thì mới đánh bại được Đoạn Chỉ Ma. Ta và lão Mạc lại liên kết bố trí, tạo ra tình huống ông ấy giết ta, đánh lừa Đoạn Chỉ Ma, khiến y cho rằng ta đã bị ngộ sát. Từ đó, y sẽ tha hồ làm càn, còn ta thì bí mật quan sát, sẽ dễ bắt được y.”

Liêu Kiếm Phàm lắc đầu, “Hai ông bịa ra tình huống đó hơi quá đáng! Cái hộp đựng ngón tay, ở đâu ra? Lẽ nào lão Khâu không...” Liêu Kiếm Phàm cố nhớ lại, nhưng chuyện đã cách xa hai chục năm, với ông, chẳng khác nào chuyện từ kiếp trước. Chỉ có cái chết của Tiểu Hạm vẫn rõ mồn một...

“Đúng thế, lão Khâu có cặp mắt tinh tường, nên ta mới nhờ cậy người ở Đông Xưởng gửi công văn điều ông ta về kinh hỗ trợ khám nghiệm tử thi. Còn về cái hộp kia, đúng là các ngón tay phụ nữ, là do ta...” Lã Diệp Hàn thở dài, “Thiên hạ nói ta đã tẩu hỏa nhập ma vì điều tra phá án Đoạn Chỉ Ma, không phải không có lý. Phải đi guốc trong bụng kẻ tà ma ấy thì mới đoán được các bước đi tiếp theo của hắn. Muốn biết ý đồ của y thì phải hóa thân thành ma quỷ. Cho nên ta đã cất công ‘sưu tầm’ một số ngón tay trỏ bên bàn tay kia của các nạn nhân. Tại sao tên đàn ông to xác ấy lại nghiện những ngón tay bé tẹo? Ta dành thì giờ nghiên cứu các đốt xương, làn da, móng tay, vân tay của những ngón tay đó, nhằm tìm ra đặc điểm chung. Suốt mấy năm trời vẫn không có kết quả, cuối cùng chuyện này lại được ‘phù phép’ thành chứng cứ xác đáng về Đoạn Chỉ Ma! Tội danh đã rõ, thì các việc tiếp theo sẽ dễ thực hiện. Tội phạm Đoạn Chỉ Ma phải bị bêu riếu công khai trước khi hành quyết mới phải, nhưng lão Mạc đã đề nghị với các quan châu phủ rằng, hung thủ vốn là bổ đầu của bản phủ, nếu nói rộng ra thì chứng tỏ quan phủ đã bất lực. Mặt khác, tân bổ đầu càng nhìn sẽ càng đau buồn vì cái chết của vợ... Quan phủ cân nhắc cả lý lẫn tình, cuối cùng cũng tặc lưỡi quyết định đem chôn ta luôn. Thuốc mê và thuật bế khí đã che được mắt những ai đã đụng đến ‘thi thể’ của ta, họ chôn xác ta qua loa cho xong. Ngay đêm hôm đó ta đã vùng sống dậy. Từ đó ta bí mật theo dõi các bổ khoái, trước hết là ngươi.”

Liêu Kiếm Phàm giật mình, và không thể không thán phục lòng yêu nghề của Lã bổ đầu, thực đáng ngợi ca nhưng cũng đáng buồn. Ông nói, “Nhưng hơn hai chục năm qua ông cũng không thể tìm ra chứng cứ khẳng định tôi là Đoạn Chỉ Ma! Nếu không, ông đâu để tôi sống đến giờ?”

Lã Diệp Hàn vẫn nắm chặt đốc kiếm đang ghì cổ lão Liêu, “Chưa tìm ra chứng cứ, không có nghĩa là ngươi vô can. Ai cũng biết chỉ mình ngươi sống sót dưới lưỡi kiếm của Đoạn Chỉ Ma. Người nào tinh ý đều dễ dàng nhận ra từ khi ngươi cụt chân thì Đoạn Chỉ Ma không gây án nữa.”

Liêu Kiếm Phàm cười nhạt, “Điều này chỉ đúng đến cách đây một tháng trở về trước.”

“Phải!” Lưỡi kiếm tì sát hơn, “Ngươi và ta đều bí mật đến xem hiện trường, bí mật khám nghiệm tử thi rồi, mấy vụ án chặt ngón tay này có giống các vụ cách đây hai chục năm không?”

Liêu Kiếm Phàm đáp, “Ra tay tàn nhẫn hơn trước kia. Nhưng vẫn là Đoạn Chỉ Ma, vì y phải nín nhịn nằm im bao năm trời nên giờ càng khát máu hơn. Tuy nhiên có mấy điểm nghi vấn, năm xưa giết phụ nữ rồi, y còn hành hạ thi thể bằng đúng mười chín vết thương.”

Lã Diệp Hàn nói, “Hừ! Trí nhớ của ngươi khá lắm! Xem ra ngươi vẫn quan tâm đến vụ việc này.”

“Trên thi thể mấy phụ nữ bị giết gần đây, có từ mười đến hơn ba mươi vết thương, không cố định. Và...” Liêu Kiếm Phàm rùng mình trước khi nói tiếp, “... Khi xưa Đoạn Chỉ Ma cắt ngón trỏ của nạn nhân, y để lại hai phần ba, giờ đây y cắt cả ngón.”

Lã Diệp Hàn hỏi, “Vậy là ngươi đã có kết luận, Đoạn Chỉ Ma ngày nay không phải Đoạn Chỉ Ma ngày xưa?”

“Không hẳn. Có lẽ sau mười tám năm trời, tâm tính của Đoạn Chỉ Ma cũng đã biến đổi, y không giữ nguyên quy tắc ngày trước nữa. Tôi khó mà tưởng tượng nổi, trong hai chục năm trời, Giang Kinh này lại xuất hiện đến hai tên yêu nghiệt táng tận lương tâm.”

Lã Diệp Hàn cười nhạt, “Nội ngoại thành Giang Kinh có chục vạn người, nói là ít hay nhiều đều được cả. Nếu nói Đoạn Chỉ Ma biến đổi tâm tính thì thân thể y cũng biến đổi.”

Liêu Kiếm Phàm ngạc nhiên, “Xem ra, Lã bổ đầu vẫn cứ nghi ngờ tôi! Tôi giờ đây thao tác không còn chính xác như xưa, chặt thêm mấy nhát dao, để lại mấy phần ngón tay, đã chẳng còn bận tâm.” Giọng ông bỗng trở nên hài hước, “Và, chẳng biết Đoạn Chỉ Ma tôi đây bị ma ám hay sao, mười tám năm trước, khi hai vị bổ đầu bế tắc không hiểu ra sao, tôi đã tự chặt bỏ hai chân mình, nghĩa là tôi đã hối cải chứ gì? Đã thế thì tại sao ngày nay tôi còn trở lại nghề cũ?”

Lã Diệp Hàn thu kiếm về, “Vì đứa con, tất cả đều là vì đứa con trai.”

Liêu Kiếm Phàm bỗng vã mồ hôi trán, cứ như Lãnh tuyền kiếm vẫn đang kề cổ, “Nói thế là ý gì?”

“Đoạn Chỉ Ma cũng có tình phụ tử, phải không? Bình thường, y là một bổ khoái đường hoàng, biết phân biệt đúng sai, nhưng đêm đến, tính ma trong người y dâng lên rồi đi gây án? Ngày trước ở Đông Xưởng, ta đã làm hàng trăm vụ án, đã đọc hàng vạn hồ sơ kỳ quái. Hung thủ trúng tà hóa điên không chỉ có một hai tên. Ban ngày sống bình thường như ai, đêm đến chúng biến thành kẻ ác giết chóc bừa bãi. Liệu có phải Đoạn Chỉ Ma cũng trúng tà rồi mắc chứng điên cuồng? Y biết tội ác của mình ban đêm, y cũng biết nếu mình không có quyết tâm mạnh mẽ thì không thể dừng tay gây án. Y không muốn con trai mai kia nhận ra bộ mặt thật của cha, cũng không muốn con trai lây nhiễm để rồi sau này cũng thành ác ma, nên y đã tự chặt chân, biến thành kẻ tàn phế. Mục đích là ép mình không thể sống bình thường, càng không thể phân cao thấp với đám bổ đầu bổ khoái võ công cao cường, chỉ dốc lòng nuôi dạy đứa con trưởng thành.” Lã bổ đầu vẫn lăm lăm thanh kiêm, sẵn sàng trừ khử Liêu Kiếm Phàm bất cứ lúc nào.

“Nay đứa con đã trưởng thành, nhiều năm qua ngươi cũng đã cất công khổ luyện, dù không còn hai chân nhưng ám khí và kiếm pháp lại tinh tiến hơn cả ngày xưa, thừa sức đối phó với các cao thủ võ lâm bình thường, càng không nói đến những cô gái ẻo lả. Chỉ có Bùi Tố Nương là khó đối phó nhất, dù là tập kích, ngươi cũng phải dùng nhiều chiêu mới hạ được. Có lẽ hơn ba chục vết thương trên người cô ta đã cho thấy ngươi phải gian nan, phải tức bực mới giết nổi.”

Liêu Kiếm Phàm hơi nghẹn họng, “Xem ra Lã bổ đầu đã tổn hao tâm lực, nói có lý, chỉ tiếc rằng trắng vẫn là trắng đen vẫn là đen, Liêu mỗ vẫn không phải Đoạn Chỉ Ma.”

Lã Diệp Hàn nói, “Thật ra, cho đến giờ ta cũng không coi lão Liêu ngươi là Đoạn Chỉ Ma nữa. Nhưng có một vài điều khó nghĩ, ta mong ngươi làm sáng tỏ. Điều quan trọng nhất, tại sao sau khi ngươi tàn phế thì Đoạn Chỉ Ma cũng biệt tăm tích suốt mười tám năm?”

Liêu Kiếm Phàm than thở, “Điều này tôi đã đau đầu suốt mười tám năm, nhưng cũng chẳng để làm gì, chỉ còn cách nhìn thấy Đoạn Chỉ Ma thì mới biết... Tuy nhiên, tôi cũng xin nói thêm, trong cuộc chiến năm xưa khi tôi bị chém cụt hai chân, chính mắt tôi nhìn thấy y cõng một đứa bé con... ”

Lã Diệp Hàn gật đầu, “Kế hoạch đó lão Mạc bày ra, ta cũng bí mật tham gia, và vẫn cứ bị Đoạn Chỉ Ma phá hỏng. Y không đi giết bổ đầu Tam Giang Võ Quán là Tiêu Ngũ Nghiên, nhưng lại đến biệt quán của Cố quốc cữu ở Giang Kinh giết tiểu thiếp của ông ấy, rồi bắt trộm một đứa bé ở đâu không biết, đã có vài bổ khoái nghe thấy tiếng khóc của đứa trẻ. Đêm ấy ta lại rơi vào thế hạ phong, muốn chạy đến đó thì đã muộn. Vì lão Mạc giăng lưới tỉ mỉ, lại có ngươi và Ưng Trường An thông thuộc địa hình Giang Kinh kịp thời chạy ra cản đường, nếu không, y đã sớm cao chạy xa bay... Đương nhiên, kết cục cuối cùng vẫn cứ là thế này, ít ra đã có hai bổ khoái võ công hạng nhất vây đánh, khiến y nhụt nhuệ khí.”

Liêu Kiếm Phàm nói, “Những năm qua một mình nuôi dạy A Kiệt khôn lớn, tôi thấm thía mọi nỗi niềm, đứa con là tất cả đối với tôi. Liệu có thể thế này không, Đoạn Chỉ Ma không nỡ sát hại đứa bé cướp được, y chăm nuôi nó trưởng thành, biến thành con mình. Sau mười tám năm, đứa con đang làm việc gì đó hoặc đã tòng quân chẳng hạn, tên ma đầu rảnh rang, bèn trở lại nghề cũ.”

Lã Diệp Hàn hơi nghĩ ngợi, rồi nói, “Không phải là không có lý, nhưng bọn ta đã điều tra khắp nơi, không thấy người dân Giang Kinh nào trình báo mất con. Huống chi, Đoạn Chỉ Ma tàn bạo như thế đâu thể bỗng dưng động lòng trắc ẩn, thậm chí chăm nuôi đứa bé đến tuổi trưởng thành, và lại nén nhịn suốt ngần ấy năm không gây án.”

“Ông vừa nói rằng có một số sát thủ tàn độc chỉ ban đêm mới lên cơn ma chướng. Nếu bên cạnh có đứa bé được y yêu quý, biết đâu nó lại vừa khéo để triệt tiêu cái ác trong người y?” Liêu Kiếm Phàm bỗng cảm thấy mình đã bị thuyết phục.

Lã Diệp Hàn lại gật đầu, sắc mặt vẫn nặng nề, “Dù sao thì Đoạn Chỉ Ma cũng đã xuất hiện trở lại, việc cấp bách lúc này là phải ngăn chặn y gây tội ác sát hại sinh linh. Ta ngờ rằng y đã giết những nhân sĩ võ lâm ở bên hồ... và cả hai cao thủ Cẩm Y Vệ nữa.”

Liêu Kiếm Phàm giật mình, “Cao thủ Cẩm Y Vệ mà bị giết? Lần đầu tôi nghe đến điều này.”

Lã Diệp Hàn nói, “Không phải cao thủ bình thường mà là bách hộ, thiên hộ, Thạch Anh Tùng và Chu Phong Địch. Ta vốn nuôi một con linh khuyển, nó đã dẫn ta đi tìm xác hai người ấy ở bên đầm nước trên sườn núi Huệ Sơn. Xác bị vùi qua loa ở đó không lâu.”

Liêu Kiếm Phàm càng kinh ngạc, “Chao ôi... đó là hai người nổi tiếng ở đại nội. Nghe nói Chu Phong Địch là tay kiếm số một của Tân Lĩnh, còn Nhật nguyệt lưu tinh sách của Thạch Anh Tùng hiếm có ai địch nổi! Một chọi một mà lần lượt thắng được hai người cũng khó, đừng nói là giết phăng cả hai. Trong giới võ lâm, kẻ có được bản lĩnh ấy chỉ đếm trên đầu ngón tay.”

“Thì ra ngươi cũng biết. Khi rỗi rãi nên kể cho quý công tử nghe. Lúc ta nói với nó, nó cứ ngơ ngác như một gã ngốc.” Lã Diệp Hàn cười nhạt.

Liêu Kiếm Phàm lạnh cả người, “Tại sao phải nói với A Kiệt? Nó chỉ nói là có hai hiệu úy Cẩm Y Vệ đến, một họ Trương, một họ Bành, chứ nó không...”

“Họ Thạch và họ Chu này là hạng nhất nhì trong Cẩm Y Vệ, có sở trường truy tìm, họ đến Giang Kinh trong đêm bèn lên ngay núi Huệ Sơn, không thể không có mục tiêu. Khéo làm sao, đêm đó A Kiệt cũng ở trên núi, nói là truy kích hung thủ, chẳng rõ nó làm trò gì giữa đêm. Mấy hôm nay A Kiệt lúc ẩn lúc hiện, muốn gặp cũng khó.” Lã Diệp Hàn có vẻ băn khoăn.

Liêu Kiếm Phàm gượng cười mấy tiếng, “Lã bổ đầu đã đích thân chỉ bảo nó kiếm pháp, chắc phải biết kiếm pháp dù huyền diệu đến đâu, nó có tư chất khá thế nào cũng không thể giết cả hai cao thủ hàng đầu ấy...”

Lã Diệp Hàn gật đầu, “Nói phải lắm. Hằng tháng ta đều thử kiểm tra xem võ công của A Kiệt tiến triển ra sao, ta biết nó tiến bộ nhanh, nhưng muốn giết hai vị Thạch, Chu bằng một nhát kiếm thì e còn xa mới làm nổi.”

“Bằng một nhát kiếm?” Liêu Kiếm Phàm rùng mình ớn lạnh.

“Vũ khí của Thạch Anh Tùng rất hung hãn, hễ tung ra thì cát bay đá chạy. Nhưng ta đã xem xét khu vực gần chỗ mai táng, chỉ thấy vài dấu vết giao tranh. Nếu không phải có người đem xác từ nơi khác đến chôn, thì xem ra hai tên đó bị kết liễu khá nhanh, đều là một nhát kiếm trúng tim. vết đâm rất giống tuyệt chiêu của phái ta, nhưng công lực rất mạnh, ta không thể làm nổi, đoán rằng A Kiệt lại càng không có cái bản lĩnh đó.”

Liêu Kiếm Phàm nói, “Dù sao thì... vẫn là tôi dạy bảo con chưa nghiêm, tôi sẽ nhắc nhở uốn nắn nó.”

Lã Diệp Hàn nói, “Đâu phải thế. Chẳng giấu gì ngươi, bao năm qua dạy A Kiệt kiếm pháp, ta cũng coi nó như con. Nay yêu ma quỷ quái nổi dậy hoành hành, ngươi và ta nên đồng tâm hiệp lực, ít ra là không để nó gặp bất trắc và càng không thể để nó đi vào tà lộ.”

“Tà lộ?” Liêu Kiếm Phàm sửng sốt, “A Kiệt hơi ngố thật, nhưng không đến nỗi...”

Lã Diệp Hàn nói, “Nếu thực sự muốn điều tốt cho nó, thì phải dạy cho nó hiểu đại nghĩa, và phải giám sát nhất cử nhất động của nó, để nó không kết giao nhầm với bọn bất lương, nhất là hiện nay Đoạn Chỉ Ma tái xuất...”

“Lã bổ đầu vẫn nhận định sát thủ mới nổi dậy là Đoạn Chỉ Ma à? Nói ra thì hổ thẹn, tôi cũng từng lén vào nha môn xem xét tử thi các nạn nhân, ngón trỏ bị cắt nhưng vết cắt thì không giống ngày trước, và thủ pháp giết người lại càng không bình thường, nghe nói hung thủ đã dùng đến Hận lôi độc chưởng.” Liêu Kiếm Phàm băn khoăn không hiểu.

Lã Diệp Hàn nhìn Liêu Kiếm Phàm hồi lâu, do dự nói, “Hai mươi năm trước, võ công của Đoạn Chỉ Ma cực kỳ khó lường, các bổ khoái giao đấu với y đều thất bại, không ai sống sót, nên không thể miêu tả tại sao. Lão Mạc kể là lão Liêu nhà ngươi cũng không nhận ra y vận dụng kiếm pháp nào?”

Liêu Kiếm Phàm gật đầu, “Đúng thế.”

Lã Diệp Hàn nói, “Ngày nay xuất hiện Hận lôi độc chưởng, cũng tức là có thêm một manh mối. Độc chưởng, tự học là chính, mới đầu không khó, nhưng để thành công thì cực kỳ khó khăn. Có thể nói ai luyện được độc chưởng đều tự hào. Cho nên trăm năm nay hình thành một thói quen, ai luyện độc chưởng thành công sẽ đến núi Nga Mi, lên vách đá sám hối ở Kim Đỉnh, vào sơn động năm xưa Diêu Kha Nhi bị cầm tù để khắc tên mình và ngày tháng luyện thành công. Tuy nhiên, luyện độc chưởng chẳng phải chuyện vẻ vang gì, vì thế có người chỉ khắc ký hiệu chứ không khắc họ tên thật. Kim Đỉnh Nga Mi là nơi những người hay ngao du sơn thủy ưa chuộng, giới võ lâm cũng có người hiếu sự tìm đến sơn động đó và tiện thể chép lại danh sách người khắc tên lên vách động, rồi truyền lại cho nhau xem. Ít hôm trước ta đi Nam Kinh và tìm thấy một bản sao, người gần đây nhất luyện thành công cũng phải hai chục năm trước.”

Liêu Kiếm Phàm nghe mê mải, hỏi, “Thật sao?”

Lã Diệp Hàn lại nhìn ông ta, nói, “Đúng thế. Khoảng trước hoặc sau năm thứ 45 Vạn Lịch, có một người luyện được độc chưởng nhưng không khắc họ tên, chỉ để lại cái này.”

Liêu Kiếm Phàm nhìn, kinh ngạc trợn tròn mắt, “Thẻ bài của bổ khoái!”

“Ngươi nhìn kỹ đi!”

Chính giữa thẻ bài khắc dọc mấy chữ “Tuần bổ phủ Giang Kinh Canh Thân”.

Liêu Kiếm Phàm lập tức hiểu ra, “Là một bổ khoái của phủ Giang Kinh chúng ta.”

Các thẻ bài bổ khoái đeo ở thắt lưng đều có ký hiệu khác nhau. Có châu phủ khắc luôn họ tên bổ khoái vào thẻ, lại có nơi như Giang Kinh, dùng thiên can địa chi làm ký hiệu. Nếu tra được năm Canh Thân ai đeo thẻ bài này thì sẽ tìm thấy manh mối quan trọng. Cách đây hai mươi năm, kẻ đó đã luyện được Hận lôi độc chưởng, suy ra chính là Đoạn Chỉ Ma!

Lã Diệp Hàn nói, “Ta và lão Mạc đã hẹn gặp mặt muộn nhất là vào ngày mai, kiểu gì cũng tra ra nhân vật này.”

“Mạc bổ đầu đã đi kinh thành rồi mà?”

Lã Diệp Hàn nói, “Lão ấy chỉ bí mật đi điều tra vụ án, không đi xa đâu.” Rồi ông hạ thấp giọng, “Trước khi đi, ông ấy vẫn tìm cách nhắn tin cho ta, nói là phải quan tâm A Kiệt.”

Liêu Kiếm Phàm thấy ấm lòng, ông nhích cái ghế gỗ tiến lên một bước, chắp tay, “Đa tạ hai vị bổ đầu tình sâu nghĩa nặng, thực là vạn hạnh cho thằng con tôi. Nay được gặp lại Lã bổ đầu, cũng là ông trời thương vậy!”

Lã Diệp Hàn đỡ lão Liêu ngồi thẳng lên, “Ngươi vì việc công vì đại nghĩa, tuy tàn phế nhưng vẫn gắng sức...” Ông bỗng đờ ra, đôi mắt đầy nếp nhăn trợn tròn. Bao nhiêu kinh ngạc, rối trí và phẫn nộ ngập tràn trong ánh mắt nhòa lệ. Hai tay đang đỡ Liêu Kiếm Phàm cứng đơ, run rẩy. Máu tuôn xối xả nơi cổ. “Ngươi... thế này là...” Giọng khàn khàn của ông bỗng vỡ vụn, “Ngươi... là...” Ông không thể hỏi tiếp, trước khi chết chỉ có thất vọng cùng cực. Vì muốn truy bắt Đoạn Chỉ Ma, ông không sợ mang tiếng oan là tên tội phạm, giả chết hai chục năm, sao kết cục cuối cùng lại là thế này? Tại sao lại chết dưới bàn tay của một bổ khoái giải nghệ, cụt hai chân? Lẽ nào Liêu Kiếm Phàm chính là...

Không thể nghĩ tiếp, Lã Diệp Hàn đổ gục xuống đất, oan hồn bay đi. Ngực, họng, mỗi chỗ găm một mũi Thấu cốt đinh, mũi ở ngực chọc thẳng vào tim. Thủ pháp ám khí thật cao siêu. Bao năm qua, đôi chân vô dụng, Liêu Kiếm Phàm bèn dành hết tâm trí luyện ám khí. Nếu giao đấu thông thường, có lẽ Lã Diệp Hàn sẽ tránh được kiếp nạn này, nhưng cả hai ở quá gần nhau, Liêu Kiếm Phàm đã rắp tâm sẵn nên Lã Diệp Hàn hết đường sống.

Liêu Kiếm Phàm nhảy xuống đất, gục xuống trước cái xác, khóc không thành tiếng. Bi thương vô hạn. Lã Diệp Hàn là bậc trung lương, là người tốt. Một bổ đầu kỳ cựu. Nhưng ông ta đang tiến gần đến sự thật. Bí mật cất giữ suốt bao năm trời không thể bị vạch trần.

Trước phần mộ Lã Diệp Hàn, Liêu Kiếm Phàm châm lửa đốt tờ giấy vẽ tấm thẻ bài, thầm nhẩm, Lã bổ đầu, là tại ông ra sức theo đuổi, ngăn cản tôi. Đừng trách tôi, và cũng không thể trách gì tôi...

Tiếng ghế gỗ lộc cộc vang lên, sắp về đến cổng nhà, tâm tư Liêu Kiếm Phàm trĩu nặng. Vẫn chưa có tin gì về Đào Đại, gã gần như là đứa con thứ hai của ông, vì thế ông thật lòng lo lắng. Chợt nhớ quán rượu Giang Tả chỉ cách nhà năm đoạn phố, các sai dịch của nha môn vẫn hay đến đó sau khi mệt mỏi làm việc trừ hại cho dân. Cách đây không lâu, A Kiệt cũng liều lĩnh uống say bí tỉ, liệu Đào Đại có bắt chước nó mò đến uống say đến sáng không?

Ông rẽ về phía quán rượu, đi vội vàng. Đến cửa, ông đã cảm nhận bên trong đang hỗn loạn, quán này không bao giờ mở đến khi trời sáng, chắc hẳn đang có chuyện.

Hai bóng người lướt ra, khinh công tuyệt đỉnh, loáng một cái đã chạy mất hút. Từ trong quán vọng ra tiếng kêu của chủ quán, “Có người chết, sao còn đứng ngây ra đó? Mau đi báo quan!”

Một thiếu niên chạy bổ ra, suýt nữa xô vào lão Liêu. Chính là tiểu nhị của quán rượu.

“Ông... Liêu bổ khoái... đến thật đúng lúc! Vừa có án mạng!”

Trên sàn quán, một nam nhân mặt sẹo, râu dài, ôm bụng thở hắt ra, nhìn thấy ông già cụt chân đang đi vào bằng cái ghế gỗ thì trợn tròn mắt.

Liêu Kiếm Phàm hỏi, “Hung thủ là ai?”

Kẻ nằm đó thoi thóp thở, cố nói mấy tiếng, “Hoàng Sơn Song Hiệp... bọn Hoàng Sơn Song Hiệp khốn kiếp...”

Hoàng Sơn Song Hiệp mới nổi lên vài năm gần đây, tài năng trẻ của phái Hoàng Sơn, tại sao lại giết người giữa thanh thiên bạch nhật rồi tháo chạy như chuột? Liêu Kiếm Phàm hỏi, “Họ có hiềm khích với ngươi hay sao?”

“Chúng... đã cướp mất... bản đồ kho báu... Bá Nhan.”