← Quay lại trang sách

Chương 28 Biến động

Lúc dưới nhà đang huyên náo thì Lâm Hưởng vẫn chưa dứt hẳn cơn mơ. Thỉnh thoảng gã vẫn nằm mơ thế này. Một đôi chân nhỏ lấm bùn đang chạy trong rừng, ngay bên cạnh có một con cáo bạc trắng như bông. Nhưng lần này ngoảnh lại, gã nhìn thấy ánh lửa xuyên qua rừng cây, phía trước ánh lửa là đám khói cuồn cuộn tuôn đi như mãnh thú đang hú gào khiến gã ngạt thở. Lâm Hưởng áp tay lên cổ ngồi bật dậy, há miệng thở hồng hộc, cổ như đang bị móng vuốt của nó cào xé.

“Ngủ mê à?” Giọng nói dịu êm, hương thơm ngào ngạt. Y Lạc quan tâm hỏi.

Lâm Hưởng thầm kinh ngạc, sao gã lại ngủ li bì như thế chứ, nhỡ vừa rồi Y Lạc làm gì Ngải Ngải thì sao?

Những ngày qua ở gần nhau, ngoại trừ lối nói năng khêu gợi và ánh mắt lẳng lơ của Y Lạc, các chuyện khác căn bản là ổn, Y Lạc đối xử với Ngải Ngải rất thân tình, không có gì đáng ngại. Có lẽ vì thế mà Lâm Hưởng dần dần buông lỏng cảnh giác. “Sao tầng dưới ồn ào thế?” Lâm Hưởng thường để nguyên quần áo mà ngủ, lúc này trường kiếm đã trong tay, gã lướt ra cửa lẳng nghe.

Y Lạc khẽ nói, “Có người đang ra oai, cứ đòi ở trọ phòng thượng hạng. Nhưng gần đây giới võ lâm kéo đến ngày càng đông, lại chẳng thiếu những tay máu mặt, cho nên các phòng hạng sang đều đã kín khách, đám người đến sau không tìm được phòng trọ ra hồn nên tức tối, cứ ép chủ quán phải thu xếp. Chủ quán bó tay, thế là bị ăn đòn.”

“Thật vô lý!” Lâm Hưởng nói thầm, gã hé cửa trông xuống bên dưới, thấy ở tiền sảnh có mấy nam nhân tay câm đao côn, khinh khỉnh nhìn ba người đang nằm dưới đất.

Một trong ba người mặc trang phục công sai, cả ba đều đang hậm hực định ngồi dậy nhưng không thể hoặc có lẽ không dám. Ở đó vốn có vài cái ghế nhưng đã bị đập phá gãy nát, chỉ còn một chiếc lành lặn thì một vị công tử đang ngồi.

Công tử cầm quạt phe phẩy dù trời đang giá lạnh, trước ngực đeo một cây tiêu trúc tím, thỉnh thoảng lại nhấp một ngụm trà. Một người đứng tuổi tay cầm đao đứng cạnh công tử, nói với chủ quán đang run như cầy sấy, “Ngươi đi xem lại xem có ai sắp trả phòng không. Khi chén trà của chủ nhân ta nguội mà vẫn không thể vào trọ phòng sang, thì ngươi đừng hòng mở quán này nữa! Dù ngươi gọi cả đám bổ khoái Giang Kinh đến, bọn ta vẫn phá tan!”

Lâm Hưởng lập tức nhận ra công tử đang ngồi uống trà là chưởng môn Ngô Việt Thế Gia Diệp Tri Thu mà mình từng chạm trán ở Nhạc Dương. Giờ Diệp Tri Thu lại đến Giang Kinh, hiển nhiên là có liên quan đến linh kỳ đại hãn. Hôm nọ đến Ánh Xuân Uyển không tìm thấy Sở Ca, lại còn bị Sở Ca bắt quay về, Ngải Ngải ấm ức nhờ Lâm Hưởng đưa về Nhạc Dương. Nhưng ba người lại nghe tin bản đồ kho báu và linh kỳ xuất hiện ở Giang Kinh rơi vào tay các nhân sĩ võ lâm, thì Lâm Hưởng và Y Lạc cảm thấy thú vị, Ngải Ngải lại càng hiếu kỳ, sau tám năm làm con chim trong lồng, tạm quên đi mấy chữ “Mau trở về” mà Sở Ca dặn dò, đi theo “ca ca và tẩu tẩu” đến Giang Kinh xem sao.

Lúc này Lâm Hưởng đang định khép cửa quay vào để bàn bạc với Y Lạc thì thấy gian thứ ba bên trái bỗng mở cửa, một giọng nói oang oang vang lên, “Kẻ nào càn rỡ gây rối, lại dám đánh cả công sai, không coi vương pháp ra gì? Là quân tóc đuôi sam ngoài biên ải, hay là bọn Sấm tặc?” Rồi một người đàn ông đứng tuổi cao to vạm vỡ bước ra, đi sau là hai thanh niên dũng mãnh.

Người đứng tuổi có đôi mắt to, trán rộng, râu dài, mặc bộ đồ thêu, có nét đường bệ của một phú thương, bước đi vững chãi dứt khoát.

Dưới nhà, một đệ tử của Ngô Việt Thế Gia cười khẩy, “Tốt rồi! Đã có người bằng lòng nhường phòng, xin cảm ơn.” Nào ngờ vừa dứt lời thì một bóng người loáng lên ngay trước mặt, gã đệ tử lập tức giơ đao chém nhưng cánh tay bỗng đau buốt, đao văng tuốt lên cao chém phập vào thanh xà gỗ, người bị đẩy nhẹ một cái nhưng bay ra tận ngoài cửa quán trọ, xô vào bánh cỗ xe ngựa vừa mới đỗ, cả người tê điếng, không sao nhỏm dậy được.

Phú thương mắt tròn râu dài tung mình nhảy từ trên gác xuống, thân hình đồ sộ mà cử động rất nhanh nhẹn. Gã đệ tử Ngô Việt Thế Gia đang ra oai thì bị ông ta đánh bật ra ngoài cửa. Người xung quanh đều ồ lên.

Diệp Tri Thu lại nhấp ngụm trà, tay mân mê cây tiêu, cười, “Ngỡ là ai, thì ra đã kinh động đến ông chủ Phàn của Kim Điển Môn. Ta cứ tưởng thương nhân Kim Điển Môn buôn bán luôn phát đạt, một ngày thu cả đấu vàng, sẽ không thiết gì các món của cải phù phiếm, không ngờ các vị cũng nhòm ngó kho báu Bá Nhan!”

Y Lạc khẽ nói, “Phàn Tương Ngọ là cao thủ hiếm hoi của Kim Điển Môn đã luyện được nội công mình đồng da sắt. Kim Điển Môn từng móc nối với Bạch Liên Giáo, nay chúng ta lại trót biến thành hàng xóm của ông ta.”

Lâm Hưởng cũng đã nhìn thấy cái tên Phàn Tương Ngọ trong đám giấy tờ của Đông Xưởng. Lâu nay loạn lạc thiên tai, các nơi pháp lệnh không nghiêm, cho nên Kim Điển Môn cũng càn rỡ táo tợn hơn trước nhiều, họ và Ngô Việt Thế Gia thù hằn đối đầu dữ dội.

Phàn Tương Ngọ cười ha hả, “Đã lâu không gặp Diệp công tử. Mấy câu vừa rồi, tại hạ xin trả lại công tử nguyên vẹn, chỉ thay mấy chữ Kim Điển Môn thành Ngô Việt Thế Gia là được! Ha ha ha...”

Diệp Tri Thu không đấu khẩu với ông chủ của Kim Điển Môn nữa, chỉ nhẩn nha vuốt ve cây tiêu, cứ như sẵn sàng thổi một khúc nhạc cổ vũ cho tình thế lộn xộn này. Phàn Tương Ngọ bỗng cảm thấy không ổn, mặt hơi biến sắc, lập tức ngoảnh đầu lại thì đã muộn. Gã tùy tùng vừa bước ra với ông bỗng cắm đầu rơi xuống chỗ ba nạn nhân nằm trên mặt đất, chẳng rõ còn thở nữa không.

“Ngươi phóng độc châm từ cây tiêu bẩn thỉu ấy hả!” Phàn Tương Ngọ giận dữ quát.

Diệp Tri Thu cười khẩy, “Ra giang hồ cần đối xử với nhau công bằng, không ai được bắt chẹt ai, đúng chứ?” Diệp Tri Thu còn đang lảm nhảm thì bị Phàn Tương Ngọ giáng một quyền vào mặt. Diệp Tri Thu vớ luôn chén trà ném về phía đối phương, lùi cái ghế lại mấy bước, đứng bật dậy thọc cây tiêu vào ngực ông chủ Phàn. Phàn Tương Ngọ né tránh chén trà, xoay người sang phía bên cạnh Diệp Tri Thu rồi thúc cùi chỏ ra.

Hai người cứ thế ác đấu kịch liệt ở tiền sảnh quán trọ. Tên đệ tử Ngô Việt Thế Gia bị Phàn Tương Ngọ đánh bay ra cỗ xe ngoài cửa lúc đầu, đang gượng bò dậy thì có người đưa tay đỡ lên, quan tâm hỏi, “Các hạ không thương tích gì chứ?”

Tên đệ tử nhìn đôi tay người này, nhẵn nhụi đầy đặn, không phải bàn tay làm việc nặng, còn đeo hai cái nhẫn vàng gắn đá quý, chẳng biết là đá gì. Gã lại nhìn lên mặt. Tuổi ngoài năm mươi, tóc điểm bạc, da dẻ hồng hào, vẻ nho nhã tinh anh, vóc người cao lớn trong bộ đồ xanh chỉnh tề nhưng không xa xỉ. Rồi người ấy quay sang cỗ xe ngựa, vén rèm.

Người phụ nữ bước xuống từ cỗ xe cũng tuổi trung niên, phấn son rất nhẹ, nhan sắc trời cho. Bên ngoài bộ áo váy lụa là chiếc áo choàng lông thú nâu đỏ mềm mại, hai tay đeo găng da cũng màu nâu đỏ.

Lúc này gã Ngô Việt Thế Gia thô kệch quên hẳn cuộc giao đấu gươm đao trong quán trọ, trong đầu gã chỉ có độc một ý nghĩ, người đâu mà đẹp đôi đến thế! Và, thực là kỳ lạ, trong biển người đông vô kể, làm sao họ gặp được nhau?

Cuộc ác đấu trong quán trọ mỗi lúc một dữ dội. Không gian tiền sảnh có hạn nhưng cả hai đều là cao thủ, tiến lui nhanh như chớp nhưng có chừng mực. Tường, cột, xà chỉ sứt mẻ vài chỗ, không đến mức khiến chủ quán đang sắp khóc đến nơi phải cảm thấy bi thương thêm. Phàn Tương Ngọ đang nắm hai quả kim chùy, Diệp Tri Thu không ngừng thể hiện bản lĩnh, cây tiêu lúc như thanh đao, lúc lại như ngọn roi, lúc khác lại giống như cây bút của phán quan, biến hóa cùng vô số kiếm pháp.

Bỗng ngoài cửa vọng vào một giọng nữ ngọt ngào, kinh ngạc xen lẫn mừng vui, “Hồng huynh nhìn xem, công tử kia sử dụng cây tiêu cứ như sử dụng Việt nữ kiếm đã thất truyền ngàn năm nay.”

Giọng nam sang sảng đáp, “Đúng là có vẻ như thế thật! Từ lâu đã nghe danh Diệp công tử của Ngô Việt Thế Gia là bậc kỳ tài võ học, chắc công tử xem các bức tranh trong cổ thư rồi sáng tạo ra các chiêu kiếm này, vừa đẹp lại vừa có thần!”

Mấy câu bình luận, Diệp Tri Thu đều nghe thấy cả, lòng thầm kinh hãi, chỉ sợ là cứu viện của Phàn Tương Ngọ.

Phàn Tương Ngọ cũng nghĩ tương tự. Người kia đang khen đối phương, nếu thuộc Ngô Việt Thế Gia thì mình nguy to.

Giọng nam lại nói, “Chùy pháp hay lắm! Kia chẳng phải là Phàn chưởng môn của Kim Điển Môn hay sao?”

Giọng nữ khẽ cười, “Là ông chủ! Các thương nhân của Kim Điển Môn hoạt động rải rác nhiều nơi, họ không lập chưởng môn. Nếu có việc cần thương nghị thì các ông chủ tập hợp lại cùng bàn.”

Người đàn ông tung mình đáp xuống giữa hai đối thủ Diệp, Phàn. Ông ta xuất chiêu ra sao, không ai kịp nhìn, một tay tóm lấy kim chùy của Phàn Tương Ngọ, tay kia vô hiệu hóa cây tiêu lợi hại của Diệp Tri Thu. Rồi chép miệng, “Hai vị dù hiềm khích ra sao, mong hãy nể ta mà mỉm cười giảng hòa đi thôi! Tại hạ họ Trác, cũng là dân giang hồ như các vị.”

Họ Trác, lại gọi là “Hồng huynh”, Diệp Tri Thu tái mặt vì đã đoán ra nhân vật này. Nói năng khiêm tốn nhưng không bao giờ bỏ qua các hành vi càn rỡ. Tự xét hôm nay mình làm bừa ở quán trọ này thì không hay rồi, bèn bảo các thuộc hạ, “Ở đây đông người lắm chuyện, chúng ta đi tìm quán khác.”

Sai nha lúc nãy bị đánh ngã liền hiểu ra ý đồ, bạo dạn hẳn lên, “Ngươi đánh người xong, nói đi là đi luôn hay sao?”

Nếu nhân vật họ Trác không có mặt thì chắc chắn Diệp Tri Thu sẽ phóng châm độc giết sai nha này luôn, nhưng Diệp công tử nhẫn nhịn im re, đặt lên mặt bàn một đĩnh bạc hai mươi lạng, hậm hực, “Bạc này đủ để các người tìm thầy lang và mua bàn mua ghế.” Nói xong khệnh khạng bước ra cửa, nhưng lại giật mình. Một người đang đứng tựa vào cỗ xe ngựa, cười nói, “Diệp công tử nói ‘đông người lắm chuyện’ thì quá hẹp hòi, nhà nào lắm chuyện?” Người hỏi, chính là cao nhân họ Trác, không biết đã ra ngoài này từ bao giờ.

Diệp Tri Thu đành hạ giọng, “Tôi không đôi co nữa, coi như đã nhận lỗi rồi, ông còn muốn thế nào?”

Người nọ cười nhạt, “Ngươi chỉ là biết mình ở thế bí nên tháo lui, nhưng việc càn rỡ đánh người bị thương thì đã làm rồi, không thể cứu vãn. Bạc, tuy được việc nhưng vẫn là ngoại vật phù phiếm, tội đã gây ra không thế dùng bạc chuộc tội và thoát khỏi trừng phạt.”

Diệp Tri Thu biết không tranh cãi được, lập tức vung cây tiêu điểm vào đại huyệt ở ngực đối phương. Lúc nãy xem ông ta ra tay trong quán, Diệp Tri Thu đã hiểu nếu đấu với ông ta khoảng năm mươi chiêu thì mình sẽ đại bại, nên lúc này không e dè gì hết, Diệp Tri Thu vừa điểm huyệt vừa ngầm phóng châm độc. Nhưng người ấy đã biến mất ngay trước mắt, sau gáy vang lên giọng nói, “Sao Diệp công tử nóng vội thế? Ta ở bên này cơ mà, mau nhìn qua đây!”

Diệp Tri Thu không dám ngoảnh lại, lập tức tung mình tháo chạy, nhưng giọng nói ấy vẫn bám sát, “Trác mỗ có một thói xấu là hễ thấy chuyện bất bình thì ăn không ngon ngủ cũng không yên.”

Diệp Tri Thu lập tức xoay người lại múa tít cây tiêu, tấn công đối phương bằng một chiêu thức đỉnh cao của Việt nữ kiếm truyền thống. Mũi tiêu mờ ảo bất định, tiếp tục phóng châm độc.

Đối phương đúng là Trác Dật Hồng, Diệp Tri Thu tất nhiên phải lĩnh đủ đòn, nhưng bó tay chịu trận trước mặt các anh em bang hội thì mai này làm sao còn thống lĩnh được hơn ba ngàn đệ tử Ngô Việt Thế Gia đây?

“Hồng huynh cẩn thận!” Người phụ nữ nói. Hồng huynh là Giang Nam đệ nhất hiệp Trác Dật Hồng thì người phụ nữ này đương nhiên là Ngọc diện quan âm Miêu Đại Thanh. Danh hiệu Giang Nam đệ nhất hiệp thường gắn với tên Trác Dật Hồng, thật ra cách gọi này là chỉ cả hai vợ chồng, vì họ luôn bên nhau như hình với bóng. Họ là đồng môn, quen biết từ nhỏ, trưởng thành cùng nhau rồi gắn bó tung hoành giang hồ, tạo nên vô số câu chuyện hành hiệp trượng nghĩa.

Hai cánh tay Trác Dật Hồng mở ra đóng vào, giống như một vị đại nho giảng kinh sử đến chỗ lý thú, ống tay áo phấp phới, nhẹ nhàng gạt những mũi châm độc rơi xuống đất, rồi ông hơi khép hai bàn tay lại. Diệp Tri Thu cảm thấy một sức hút cực mạnh kéo cây tiêu ra khỏi tay, cố nắm lại thì cả người cũng bị hút về phía trước. Bỗng nhiên sức hút đó biến mất, Diệp Tri Thu ngã đập mặt xuống đất, cây tiêu rơi vào tay Trác Dật Hồng. Gã công tử nho nhã nằm sấp dưới đất, khác hẳn phong độ vốn có mọi ngày. Lần đầu tiên trong đời bị hạ nhục ê chề mà tự biết không sao chống trả được.

Trác Dật Hồng nghiêm khắc nói với Diệp công tử chưa kịp nhổm dậy, “Ba thôn ở Tây Bắc phủ Giang Kinh có trăm ngàn dân đang chịu đói, cảm ơn Diệp công tử đem lại cho họ chút trù phú của Giang Nam, nội trong ba hôm phải chuyển đến đó một vạn thạch lương thực. Làm xong, thì vụ này coi như xí xóa. Công tử có ý kiến gì không?”

Diệp Tri Thu tức quá nhưng không dám cãi cự, chỉ khẽ xua tay, một đệ tử lớn tuổi của Ngô Việt Thế Gia nói, “Nhớ rồi ạ!”

Trác Dật Hồng cầm cây tiêu định bẻ gãy, nhưng dừng lại ngẫm nghĩ, thở dài, rồi ném xuống đất, cây tiêu xuyên qua gạch lát, cắm sâu xuống dưới. Lúc ông ta phất ống tay áo bước đi thì cây tiêu vẫn đang rung rung.

Sau khi ra mặt dạy cho công tử Ngô Việt Thế Gia một bài học, Giang Nam đệ nhất hiệp cũng vào ở quán trọ ban nãy. Lâm Hưởng chứng kiến từ đầu chí cuối, không khỏi kinh ngạc vì Trác Dật Hồng lừng danh nghĩa hiệp mà cũng đeo đuổi kho báu. Ông ta xuất chiêu không nhiều, chủ yếu là phòng ngự, nhưng cũng đủ để chứng minh mọi ghi chép cơ bản của Đông Xưởng, thân pháp khinh công số một, nội công Đạo gia chính cống. Xét kiếm pháp, ông ta là truyền nhân xuất sắc của phái Nhạn Đãng. Vợ là Miêu Đại Thanh hôm nay không ra tay, nhưng đúng là trang quốc sắc. Nghe nói Miêu Đại Thanh không chỉ có kiếm pháp kinh hồn mà còn có lòng nhân từ, bà luôn cùng chồng trợ giúp kẻ yếu, kẻ bần hàn, cho nên mới có mỹ danh Ngọc diện quan âm.

Còn về ông chủ Phàn Tương Ngọ của Kim Điển Môn, đứng ra giải vây cho chủ quán trọ, nhưng chủ quán chẳng thể hô biến thêm phòng sang, Phàn Tương Ngọ sau khi chứng kiến Trác Dật Hồng võ công siêu phàm bèn có ý kết giao, chủ động nhường lại phòng đang ở cho Giang Nam đệ nhất hiệp.

“Giả sử Trác đại hiệp biết bản đồ kho báu Bá Nhan đang nằm trong tay ai đó, liệu ông ta có làm chuyện bất nghĩa, ép họ giao nộp bản đồ, thậm chí giết rồi cướp bản đồ không?” Lâm Hưởng tự hỏi mình, rồi ngẩng nhìn Y Lạc đang lắng nghe.

Y Lạc cười, “Ông ta chẳng cần ép, mà thuyết phục người đó hiểu đại nghĩa, ví dụ nói là Trác mỗ này lấy được kho báu rồi sẽ cứu tế dân chúng bị thiên tai hoặc mua lương thực cho tướng sĩ vùng biên ải, hoặc dùng làm lễ vật ra mắt nghĩa quân Lý Sấm đế được gia nhập liên minh... đều có lý. Tuy nhiên, cũng có thể hai vợ chồng họ Trác chỉ đến thăm phong cảnh Giang Kinh chứ không liên quan gì đến bản đồ kho báu.”

Ngải Ngải ngồi bên bỗng bật cười.

Lâm Hưởng trầm ngâm, “Đôi hiệp khách lừng danh giang hồ đương nhiên phải giữ thể diện, đến Giang Kinh lần này lẫn lộn với đám đông đang thèm khát kho báu, không sợ bị thiên hạ chỉ trích là tham lam tầm thường như ai, thì ta đoán rằng họ phải có mục đích cụ thể.”

Y Lạc dịu dàng nói, “Cách suy nghĩ cân nhắc của ngươi nghe giống bổ khoái quá.”

Lâm Hưởng cười, “Sau chuyến đi hộ vệ lần này, ta sẽ xin một chân công sai cũng nên!”

“Ng... ng...” Ngải Ngải cau mày, lắc đầu quầy quậy. Chắc là vì gian nan từ nhỏ, gia đình tan nát, rồi bị đày đi miền Nam, nên cô bé ghét bọn công sai. Lâm Hưởng tự dưng thấy lòng man mác.

Đến đêm, sau khi hai cô gái đã thở đều đều đi vào giấc ngủ, Lâm Hưởng lấy vải sẫm bịt mặt, thay trang phục, trèo qua cửa sổ, phi thân lên nóc nhà, nằm phục ở một góc kiên nhẫn chờ đợi. Mấy hôm nay, ban ngày gã ngồi nhà, ban đêm mới lên nóc quán trọ mai phục, nếu thấy có người ra thì bám theo, nếu không thấy ai thì sang quán trọ khác để thám thính. Tuy chưa có thu hoạch gì nhưng Lâm Hưởng cũng nhận ra không ít nhân sĩ võ lâm lượn lờ như cô hồn dã quỷ, hoặc tụ tập bàn việc, hoặc tranh chấp đánh nhau... qua đó biết nhân tình thế thái trên giang hồ ra sao. Đêm nay yên ổn, gã định sẽ lén vào nha phủ để xem các công văn giấy tờ gần đây, muốn biết tại sao Giang Kinh đang “náo nhiệt” thế này mà Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ đều không có động tĩnh gì? Nam công công đã nhiều lần dạy bảo, muốn trở thành một sai dịch xuất sắc của Đông Xưởng thì khi làm việc phải hết sức kiên nhẫn tỉ mỉ, có thế mới phát hiện ra các manh mối nhỏ nhất. Việc theo dõi, thám sát, chờ đợi lại càng không được nôn nóng.

Mai phục không lâu, Lâm Hưởng thấy hai ô cửa sổ mở toang, năm bóng đen chui ra, một trong số đó thân hình cao lớn, là ông chủ Phàn. Đúng vậy, hai ô cửa sổ đó thuộc hai phòng trọ hạng sang của Kim Điển Môn.

Năm bóng đen bay lên nóc nhà, quan sát qua loa xung quanh không thấy gì khác thường thì lướt về hướng Đông Nam. Có nên bám theo không? Không, vẫn nên kiên nhẫn chờ đợi. Quả nhiên, nửa canh giờ sau, Lâm Hưởng đã thấy mục tiêu đêm nay.

Khi Trác Dật Hồng vọt lên nóc nhà thì Lâm Hưởng đã nấp trên một cây lê cổ thụ ở sân sau quán trọ. Trác Dật Hồng nhìn quanh bốn bề, tỉ mỉ thận trọng, lại chạy trên nóc nhà một lượt, xác định không có ai rồi mới tung mình lướt đi theo hướng Đông Bắc. Lâm Hưởng đã đoán trước hướng đi đêm nay, chờ ông ta đi xa rồi mới từ trên cây nhảy xuống bám theo.

Trác Dật Hồng vì đề phòng bất trắc, toàn phi thân lướt trên các nóc nhà. Lâm Hưởng thấy ông ta bay không chút do dự chẳng khác gì đi trong sân nhà mình, chắc chắn là thông thuộc mọi mái nhà ở Giang Kinh, gã lấy làm lạ, lại càng tin chắc chuyến đi này của Trác đại hiệp không đơn giản chỉ là thăm thú.

Cứ thế chạy khoảng hai ba dặm, Trác Dật Hồng bỗng dừng bước, một lần nữa quan sát bốn phía. Lâm Hưởng đứng cách ông ta hơn mười trượng lập tức nằm rạp xuống.

Không thấy gì đáng ngờ, Trác Dật Hồng tung mình nhảy xuống một cái sân. Lâm Hưởng lập tức nhổm dậy rồi nhảy xuống đầu tường của khu nhà ấy, thu mình quan sát. Trác Dật Hồng đang nhẹ chân bước đến gian chái phía Đông, ghé tai lắng nghe động tĩnh bên trong. Tiếp đó rời ô cửa sổ, rón rén bước đến cửa ra vào, lại nhìn xung quanh một lượt. Lâm Hưởng vẫn nằm rạp trên đầu tường, bất động.

Trác Dật Hồng ngó nghiêng xong thì khẽ đẩy cửa bước vào, rồi khép lại. Lâm Hưởng rất thắc mắc, nhưng vẫn nằm yên nghe ngóng. Một lúc sau, Trác Dật Hồng đẩy cửa bước ra, đứng đó có vẻ tiếc nuối, nhún vai thất vọng, thậm chí thở dài. Lâm Hưởng cố ghi nhớ vị trí ngôi nhà để ngày mai đến nghe ngóng xem ai đang ở, tại sao Trác Dật Hồng phải quan tâm.

Trác Dật Hồng nhảy lên nóc nhà rồi quay về quán trọ, Lâm Hưởng nhổm dậy lướt theo, thấy ông ta lại chui vào ô cửa sổ. Tức là chuyến đi đêm nay của họ Trác đã kết thúc, còn chuyến đi của Lâm Hưởng chỉ mới bắt đầu. Gã xác định phương hướng, rồi lướt về phía nha môn.

Mấy hôm nay luôn ở bên hai cô gái, vì không muốn bị họ nghi ngờ, Lâm Hưởng chỉ tranh thủ viết thư rồi bí mật gửi cho Nam công công, gã không biết tin tức gì của Đông Xưởng, nên định đêm nay sẽ lén vào nha môn để đọc công văn giấy tờ, xem xem Đông Xưởng có biết tình hình giới võ lâm đổ về Giang Kinh không, bản đồ kho báu Bá Nhan đã xuất hiện, ai nắm được thì tựa như xóc phải quẻ chết chóc.

Lâm Hưởng lọt vào nha môn rồi chạy thẳng đến hai gian đầu tiên ở phía Đông đại sảnh, nơi để các loại thư tín. Gã mở cửa sổ nhảy vào. Các mặt bàn đều có hồ sơ giấy tờ, Lâm Hưởng châm ngọn đèn sáp nhỏ vẫn mang theo người, đèn do Đông Xưởng đặc chế, đủ sáng để đọc. Toàn là giấy tờ về những chuyện lặt vặt, khỏi cần xem. Lâm Hưởng mở cửa đi ra, không gian im ắng. Qua hai lần cửa, gã đến hậu đường. Nha môn các nơi đều bố trí na ná nhau, gần kề hậu đường là thư phòng của tri phủ. Đúng thế, cánh cửa đầu tiên bên phải dán mảnh giấy đề “Khiêu Đăng Hiên [*] ”. Cửa đang khóa, Lâm Hưởng gượng cười, hai tay nắm chặt cánh cửa, giật mạnh, cửa bật ra. Bước vào rồi, gã kéo cửa khép lại như cũ. Đêm nay tri phủ không chong đèn làm việc, mà là một tiểu sai dịch Đông Xưởng thắp đèn sáp miệt mài. Giữa phòng kê một cái bàn to bằng gỗ đàn hương, giấy bút, mực, nghiên trên mặt bàn đều là thứ hảo hạng. Có vài tờ công văn và thư tín đã mở, xếp ở chính giữa. Lâm Hưởng bèn “duyệt hộ” tri phủ. Tất cả đều không nhắc đến Đông Xưởng hoặc kho báu Bá Nhan. Bỗng nghe thấy từ xa vọng đến tiếng chân giẫm trên mái ngói, Lâm Hưởng lập tức tắt đèn, nấp bên cửa sổ căng tai lắng nghe. Bây giờ có thêm tiếng gió tạt vào áo quần xen lẫn tiếng bước chân đáp xuống sân. Nghe âm thanh, Lâm Hưởng đoán có đến hơn chục người, võ công đều không tầm thường. Lát sau, gã lại nghe lục đục một hồi, thêm một số người nữa kéo đến. Lâm Hưởng tiếp tục đợi. Cả thảy có bốn đợt người. Lâm Hưởng nhìn qua khe cửa sổ, dưới màn đêm mịt mù có đến năm sáu chục người đang ở khoảng sân trước hậu đường. Thêm ba người nữa xuất hiện. Đám đông khẽ chào, Kỳ công công, Hoàng tướng quân, Lý tướng quân. Tiếp đó là một giọng thanh mảnh, nhỏ nhẹ, nghe quen quen, “Các vị đi từ xa đến, vất vả quá!” Chính là Kỳ công công ở Đông Xưởng.

(ct): * Hiên chong đèn (làm việc đêm).

Kỳ công công nói, “Đêm nay các vị cứ ngủ cho ngon giấc, sáng mai giờ Thìn một khắc điểm danh. Sau đó chia nhau đi xem xét các khu vực, như sơ đồ phân công. Đã có hơn một ngàn nhân sĩ võ lâm đến Giang Kinh, các vị phải tra ra và ghi lại lai lịch hành vi của họ, không được để lộ mình là người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ. Họ tên giả và tên bang phái của mình, mọi người đã nhớ kỹ chưa?”

Đám đông khẽ thưa, “Rồi ạ.”

“Tốt! Phải nhớ kỹ, tuyệt đối không để lộ mình là người Đông Xưởng. Hành động lần này khác với mọi lần trước, là hành động liên quan đến giang sơn xã tắc Đại Minh, không thể lơ là chủ quan. Nếu thấy đồng đội bại lộ thân phận thì phải xử lý ngay tại chỗ, không mủi lòng nương tay.” Kỳ công công nói nhẹ như không, nhưng đám người đứng đờ ra như bị đông cứng.

Lâm Hưởng ở trong nhà cũng rùng mình. Xem ra, Đông Xưởng đang có mưu đồ lớn, chắc chắn là liên quan đến linh kỳ đại hãn. Thì ra, Đông Xưởng cũng muốn chiếm được kho báu Bá Nhan và bản đồ lăng mộ Thành Cát Tư Hãn, đám đông võ lâm kia là một rào cản khó vượt qua, mấy chục người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ không thể bắt hoặc đánh bại tất cả bọn họ nhưng tổ chức giám sát thì ít nhiều có thể ngăn chặn một số người náo loạn.

“Đêm nay các vị ngủ tạm ở hậu đường vậy. Ta sẽ báo cho tri phủ biết, đến giờ Tỵ nha môn mới mở cửa.” Kỳ công công nói. “Các vị giải tán đi.”

Tiếng chân dồn dập xa dần. Lâm Hưởng biết đây là cơ hội để chuồn đi, bèn ra khỏi phòng, khép cửa lại như cũ. Gã dò dẫm đi qua hai sảnh, trở ra đại đường. Vừa ra khỏi cửa thì nghe phía sau có tiếng nói trầm thấp, “Hảo hán định đi đâu thế?”

Lâm Hưởng kinh hãi, mình đã cẩn thận thế mà vẫn bị lộ. Giọng nói này gã từng nghe thấy nhưng không quen, không phải là Kỳ công công.

“Quay lại để ta nhìn nào, chớ giở trò. Ta đến để bắt đồng bọn của ngươi.”

Lạ quá, mình làm gì có đồng bọn nào? Lâm Hưởng chầm chậm ngoái đầu, tâm trạng hoang mang. Gã thấy hai bóng đen bước ra từ bóng tối của cánh cửa đại đường, nhận ra một người ăn mặc kiểu hoạn quan đang áp giải một thiếu nữ, thanh kiếm kề cổ. Là Ngải Ngải!

“Con nhóc này khinh công khá lắm, nhưng võ công tầm thường thôi. Ta đã tạm điểm huyệt để khống chế.”

Lâm Hưởng đã nhận ra người kia là Diêu công công, thuộc hạ thân tín của Tào Hóa Thuần đốc chủ Đông Xưởng.

Diêu công công và Nam công công có mối quan hệ rất tốt, nếu Lâm Hưởng thú thật bản thân là ai thì không có gì đáng ngại, nhưng gã chưa biết phải nói thế nào với Ngải Ngải. Bỗng dưng rơi vào thế bí, Lâm Hưởng nhất thời đứng đờ ra.

“Ném kiếm xuống!” Diêu công công rung rung thanh kiếm trong tay, “Nếu không nghe lời, ta chỉ còn cách tiễn con nhóc này đi gặp Diêm vương.”

Lâm Hưởng đành khẽ đặt thanh trường kiếm xuống đất.

“Họ tên?”

Lâm Hưởng im lặng, đầu óc trống rỗng.

“Câm à? Hoặc là gỡ miếng vải bịt mặt ra xem!”

Lâm Hưởng từng gặp Diêu công công hai lần, chẳng rõ ông ta có nhớ mặt gã không. Thân phận này mà bại lộ thì thế nào, Ngải Ngải sẽ phẫn nộ và đau xót lắm...

“Vẫn không nghe lời hả? Lưỡi kiếm của ta đang kề cổ tiếu muội ngươi, nếu ngươi vẫn chần chừ...”

Ngải Ngải bỗng hụp người xuống, tránh thoát khỏi lưỡi kiếm của Diêu công công, thanh đoản kiếm thình lình xuất hiện nơi tay cô bé thọc vào sườn ông ta. Lâm Hưởng lập tức nhặt trường kiếm và nhảy vọt đến, đâm thẳng vào ngực viên hoạn quan. Diêu công công cố vung kiếm phản kích, nhưng không còn đủ sức. Đến chiêu thứ chín thì trường kiếm của Lâm Hưởng phạt đứt cổ họng Diêu công công. Khi máu phun ra như suối thì Lâm Hưởng và Ngải Ngải nhảy tót lên đầu tường nha phủ, biến mất trong chớp mắt.

“Sao cô lại to gan, dám đi theo ta mà cũng không cho ta biết một câu? Nguy hiểm quá!” Trở về phòng trọ, Lâm Hưởng bực mình hỏi Ngải Ngải.

Y Lạc đã thức dậy, vừa mặc áo vừa hỏi, “Hai người đi đâu chơi à?”

Ngải Ngải tròn mắt nhìn Lâm Hưởng rồi làm động tác tay nói chuyện. Y Lạc cười, “Có gì mà to gan?”

“Mấy tên đó đều là nhân thủ Đông Xưởng, nếu để họ bắt thì sẽ bị tống vào đại lao đấy.” Lâm Hưởng nói thật khẽ vì sợ phòng bên nghe thấy, “May mà cô mặc nhuyễn giáp, nếu không đêm nay phiền hà to rồi.”

Diêu công công điểm huyệt, nhưng nhuyễn giáp hộ thân mặc bên trong đã cản được chín phần mười hiệu lực, nên chỉ một lúc Ngải Ngải đã hồi phục và phản kích được.

Lâm Hưởng lại nói, “Cô nên nhớ thân phận mình hơi đặc biệt, trên giang hồ người muốn bắt cô không chỉ có Đông Xưởng mà còn cả Bạch Liên Giáo nữa. Giang Kinh hiện là chốn đáng sợ đầy rắc rối. Chúng ta chẳng thiết gì kho báu Bá Nhan hoặc linh kỳ đại hãn, chi bằng tạm đi khỏi nơi này, tìm một nơi yên ổn để lánh mặt ít lâu.”

Ngải Ngải lắc đầu, rút tay ra, đi đến sau lưng Y Lạc viết nhanh lên lưng áo cô ta mấy chữ. Y Lạc nói, “Cô bé không muốn rời Giang Kinh, vì bản đồ kho báu đã xuất hiện, Sở Ca và Vân Lăng nghe tin nhất định sẽ đến. Cô bé muốn chờ Sở Ca.”

Lại Sở Ca! Lâm Hưởng hơi buồn. Sớm biết thế này thì ban đầu dẫn luôn về Đông Xưởng cho xong. Nhưng chợt có hai bàn tay thon nhỏ nắm lấy tay gã, rồi viết lên lòng bàn tay: Không bao giờ quên ơn huynh đã che chở bảo vệ.

Nỗi buồn bay biến đâu mất. Lâm Hưởng phấn khởi nghĩ, vì cô gái này mà mình đã biến thành một người khác, không còn là một tiểu sai dịch của Đông Xưởng chỉ mong lập công nữa, mà là một nam nhi chân thành bảo vệ nữ nhi. Thật tồi tệ khi nghĩ đến việc bán đứng cô bé.

Trời rạng sáng, bình minh sắp đến, Lâm Hưởng vẫn chưa chợp mắt. Bước chân rầm rập trên mái ngói, nghe như thiên binh vạn mã đang kéo đến.

Thấy Y Lạc và Ngải Ngải choàng tỉnh. Lâm Hưởng ra hiệu cho họ cứ ở trong phòng, còn gã sẽ ra ngoài xem sao.

Dưới nhà có mấy người xô cửa chạy ra. Lâm Hưởng quay lại bên cửa sổ lắng nghe, thấy những tiếng bước chân đã xa dần, bèn nhảy lên nóc nhà quan sát, trong ánh bình minh mờ nhạt có nhiều bóng người trên các nóc nhà và cả trên đường phố, đều chạy về hướng Tây Nam, tức phía hồ Chiêu Dương. Gã liền chạy theo họ đến bên hồ, thấy có đến vài trăm người đang tụ tập, xôn xao bàn tán về một cao thủ võ lâm bị giết hại.

Mấy hôm nay đông đảo nhân sĩ võ lâm kéo đến thành Giang Kinh, trong đó có không ít kẻ chỉ thích gây chuyện thị phi, đánh nhau giết chóc là điều khó tránh khỏi, cũng không phải chuyện mới mẻ gì, cớ sao lại đông người xem thế này?

Bỗng đằng sau vang lên một giọng nói như sấm rền, “Tránh ra! Các vị tránh ra!” Chính là ông chủ Phàn Tương Ngọ của Kim Điển Môn. Ông ta tiên phong mở lối giữa đám đông, rồi quay lại gọi, “Mời Trác đại hiệp!”

Giới võ lâm đương nhiên chỉ có một Trác đại hiệp. Đám đông lao xao, chắc đều chung một ý nghĩ, Giang Nam đệ nhất hiệp nổi danh thiên hạ cũng nhúng chân vào vụ này thì mình còn có phần nữa không?

Trác Dật Hồng vừa bước lại vừa chắp tay chào những người đứng hai bên, đa tạ... thất lễ... khách khí, phong độ đủ khiến những ai đố kỵ với ông cũng phải thán phục.

Trác Dật Hồng và nhóm người Kim Điển Môn đi đến mép hồ nước, không khỏi rùng mình. Trước mặt là hai thi thể, đều mặc quần áo lặn, đầu đội mũ đạo sĩ, một màu vàng kim, một màu xám bạc. Cả hai đều ngoài năm mươi tuổi, xác bị ngâm trong nước nên đã trương phềnh. Ngực đều thủng một lỗ, cứ như đã bị hung thủ khoét thủng để moi tim.

Trác Dật Hồng ngạc nhiên, lẩm bẩm, “Là Kim Sa Tử và Ngân Lãng Tử, hai cao nhân Đạo gia!”

Kim Sa Tử và Ngân Lãng Tử sống ẩn dật ở đất Thục, đều tinh thông đạo học và võ học. Họ không bận tâm thế sự, đôi khi cũng ra tay nhưng phần lớn là để giúp kẻ nghèo khó. Trác Dật Hồng từng đến thăm hai người, cùng luận bàn về võ thuật. Tuy chỉ có vậy nhưng ông biết, nếu hai người này liên thủ thì trên đời khó có ai địch nổi. Cả hai đều tu hành trên vách đá cheo leo bên sông Giang Vân Lăng, ngoài đạo học và võ học ra, họ còn có chung sở thích nhảy xuống dòng sông cuồn cuộn để đùa giỡn với nước, vì thế, họ cũng có biệt tài bơi lặn. Thật không ngờ, hai cao nhân lánh đời lại xuất hiện trong xoáy nước điên cuồng săn tìm kho báu, và, cao thủ sông nước như họ mà phải chết thê thảm nhường này!

Một đệ tử Kim Điển Môn thì thầm với Phàn Tương Ngọ mấy câu. Ông ta biến sắc, khẽ nói với Trác Dật Hồng, “Trác đại hiệp! Có tin đồn hai vị đạo gia đây là người cuối cùng lấy được bản đồ kho báu.”

Đám đông lại xôn xao, Lâm Hưởng cũng nghe thấy.

Trác Dật Hồng cúi xuống nhìn kỹ hai cái xác, rồi nói, “Tình trạng của hai vị đạo trưởng hết sức khác thường, cần nhờ ngỗ tác kỳ cựu khám nghiệm... Xác ngâm dưới nước quá lâu, vết thương nhòe nhoẹt cả, khó mà phán đoán là do binh khí gì...” Ông ta lại hít sâu một hơi, “Không biết do quyền pháp chưởng pháp nào gây ra... hay hung thủ đã moi tim.”

Phàn Tương Ngọ nghe mà điếng người, tay bất giác ôm ngực, “Trác đại hiệp thông kim bác cổ, chắc phải biết võ công của môn phái nào moi tim?”

Trác Dật Hồng trầm ngâm, “Kể cũng khó nói... Tại hạ cho rằng vấn đề ở chỗ người thi triển chiêu thức chứ không phải là chiêu thức của môn phái nào. Dù là chiêu thông thường, chỉ cần vận công cực mạnh cũng có thể đánh thủng ngực rồi moi tim ra. Và, đó phải là kẻ điên cuồng bệnh hoạn.”

“Nhưng, kẻ có bản lĩnh sát hại hai cao thủ bơi lặn, e rằng quá hiếm trong giới võ lâm.” Phàn Tương Ngọ thăm dò.

Lâm Hưởng nghe rõ cả, lúc này gã mới hiểu Phàn Tương Ngọ mời Trác Dật Hồng đến khám nghiệm tử thi với mục đích gì. Trác Dật Hồng võ công cao siêu hiếm ai địch nổi, hung thủ sát hại được Kim Sa Tử và Ngân Lãng Tử phải là kẻ ngang tài với ông ta, rất dễ đoán ra đó là ai. Và, tìm ra hung thủ tức là tìm ra bản đồ kho báu và linh kỳ đại hãn.

Trác Dật Hồng cau mày nghĩ ngợi, rồi lắc đầu, “Mấy cao thủ tại hạ nghĩ đến, thì hoặc không thạo sông nước, hoặc đức độ phẩm hạnh, không bao giờ tàn độc như thế này.”

Mọi người nghe xong, phần lớn không phục, bụng bảo dạ, ông được coi là có đức độ phẩm hạnh, hai người chết này là cao nhân không màng danh lợi, thế mà cả ba cũng hau háu chạy đến tìm kho báu đấy thôi?

Như đọc được ý nghĩ của họ, Trác Dật Hồng thở dài, phất ống tay áo rời khỏi. Lát sau, khi hai bổ khoái phủ Giang Kinh đến, đám đông đã tản đi quá nửa. Lúc này Lâm Hưởng bước lại bên bờ nước quan sát hai thi thể.

Vào làm việc ở Đông Xưởng thì buộc phải học kỹ thuật khám nghiệm tử thi, dù không chuyên sâu. Đúng như Trác Dật Hồng nói, tình trạng tử thi rất đáng sợ. Các ngỗ tác kỳ cựu giảng bài hồi đó từng nói, đa số nạn nhân chết dưới nước sẽ nổi lên sau hai ngày hoặc lâu hơn, nhất là về mùa đông giá lạnh. Cũng tức là hai đạo sĩ này đã chết ít nhất hai ngày. Các bổ khoái Giang Kinh lúc khám nghiệm, tay vừa đụng vào xác chết thì cơ thịt lở ra, chứng tỏ nạn nhân đã chết vài ngày rồi. Bốn ngày trước, mấy tay gia tướng miền Dự Tây nắm giữ bản đồ linh kỳ rồi bị giết, hung thủ chính là hai vị cao nhân lánh đời này, sau khi cướp được bản đồ, họ lập tức xuống nước thì lại bị giết luôn. Xảy ra một vụ án lớn, người của Đông Xưởng đang có mặt ở Giang Kinh sao lại có vẻ chẳng hề bận tâm?

Về đến quán trọ, Lâm Hưởng kể lại rành rọt mọi tình hình bên hồ. Y Lạc nói, “Xem ra, Ngải Ngải lo lắng là phải. Giang Kinh đang sặc mùi giết chóc tanh tưởi, ngay cao thủ tuyệt đỉnh như Kim Sa Tử và Ngân Lãng Tử còn phải chết thảm, nếu Sở Ca và Vân Lăng can dự vào thì sẽ lành ít dữ nhiều.”

Cả ba người xuống lầu, chủ quán đang bày bữa sáng, người ngồi quanh các bàn, dù thao thao bất tuyệt hay khe khẽ thì thầm cũng đều nói về chuyện xác chết bên hồ Chiêu Dương sớm nay. Ba người ăn sáng xong trở lên phòng trọ, vừa mở cửa ra đã thấy chuyện bất ổn.

“Ng... ng...” Ngải Ngải kêu lên.

Lâm Hưởng và Y Lạc rút phắt kiếm ra, nhìn chằm chằm vào bức tường trắng đối diện cửa ra vào.