Chương 29 Hồ trăng
Sở Ca và Vân Lăng đi suốt ngày đêm đến Nhạc Dương, rồi đến thẳng Họa Mi Cư. Vài con ngựa đứng trong ngõ và tờ giấy “Tạm nghỉ sửa chữa” dán ở cổng quá đủ để nói lên điềm chẳng lành. Sở Ca không lên lầu, đi thẳng ra sân sau, đến ngôi nhà nhỏ Ngải Ngải ở. Cửa đóng im ỉm, Sở Ca gõ cửa, rồi phát giác cửa đã bị phá, bèn đẩy mạnh ra! Bên trong bề bộn tan hoang, tất nhiên không thấy bóng Ngải Ngải. Sở Ca quay ra, thấy một bà già giúp việc đang đi đến, sợ sệt nói, “Công tử à, tiểu thư đã...”
“Dẫn tôi đi gặp ma ma của bà.”
Bà già hơi do dự, “Cô chủ...”
“Dù đang tiếp khách cũng cứ dẫn tôi đến!” Sở Ca gắt to. Vân Lăng chưa bao giờ thấy Sở Ca hoang mang nhường này, vội nắm cánh tay y, khẽ gọi, “Sở huynh!”
Sở Ca gắng trấn tĩnh, dịu giọng, “Phiền bà dẫn đường giúp, tôi phải gặp ma ma của bà.”
“Cô chủ nói... không muốn gặp công tử.”
Sở Ca càng cảm thấy bất ổn, chắp hai tay, “Tôi nhất định phải gặp cô ấy. Cứ dẫn tôi đến, nếu bà bị mắng mỏ, tôi sẽ gánh chịu.”
Bà già do dự một hồi, mới nói, “Cô chủ ở ngay sân sau này, cứ đi theo tôi.”
Nhìn thấy Tiểu Kiều, Sở Ca lại mất bình tĩnh. Tiểu Kiều và y suýt soát tuổi nhau, đều ở đoạn chót tuổi thanh xuân, nhưng Tiểu Kiều khéo giữ gìn nhan sắc nên vẫn được coi là mỹ nhân ở Nhạc Dương, lại tinh thông cầm kỳ thư họa nên các tao nhân mặc khách lui tới Họa Mi Cư thật ra đều là để giao lưu với nàng. Tiếc thay, giờ đây mỹ nhân nằm trên giường, nửa khuôn mặt quấn băng, nửa mặt kia vết thương đang lành và thành sẹo. Sở Ca đưa tay định gỡ băng ra xem thì Tiểu Kiều ngoảnh mặt đi, khẽ ho húng hắng.
Lúc này Sở Ca mới chú ý đến một thầy lang đang ngồi bên cái bàn không xa, trên bàn bày kín các lọ thuốc và dụng cụ.
“Nếu tay ngươi chưa rửa sạch thì đừng đụng vào, kẻo vết thương sẽ càng chậm lành.” Thầy lang nói.
Sở Ca khẽ hỏi, “Phiền tiên sinh cho biết tình trạng cô ấy mai kia sẽ thế nào?”
Thầy lang đứng lên nói, “Chúng ta ra ngoài nói chuyện.”
“Không cần giấu! Tôi đã biết cả rồi.” Tiểu Kiều bỗng lên tiếng.
Bà già giúp việc đã cho Sở Ca biết, cách đây không lâu có một bọn võ lâm đang đêm xông vào Họa Mi Cư ép Tiểu Kiều phải giao nộp Ngải Ngải. Tiểu Kiều không chịu, liền bị một lão rậm râu mặc trang phục đạo sĩ rạch mặt. Cũng may, Ngải Ngải đã chạy thoát ngay đêm đó, là nhờ một hiệp sĩ trượng nghĩa giúp đỡ.
Thầy lang nói thật khẽ, “Kẻ cầm kiếm đã ra tay tàn độc, mắt trái của Tiểu Kiều phu nhân... e rằng không giữ nổi. Nửa mặt đang băng bó thì hứng vết thương rất sâu. Già đã khâu lại rồi, chỉ hiềm... không thể khôi phục dung nhan. Đêm hôm đó, kẻ ác còn đá vào chân Tiểu Kiều phu nhân, hỏng hết gân mạch, chỉ e... sẽ để lại di chứng tập tễnh.”
Sở Ca phải bám vào cái bàn thì mới không ngã khuỵu xuống, giờ đây trong đầu chỉ có một ý nghĩ, vì bảo vệ Ngải Ngải, nói khác đi là vì mối thâm tình với y Tiểu Kiều mới đến nông nỗi này? Phải báo đáp thế nào đây? Sở Ca bước đến bên giường nắm tay Tiểu Kiều, mắt rớm lệ. Thầy lang biết ý, nói, “Phu nhân cứ chịu khó nghỉ ngơi, mai lão phu lại đến.” Ông ta nhanh tay thu xếp đồ đạc ra về. Vân Lăng và bà già cũng ra ngoài, khép cửa lại.
Trong nhà, ánh nến đỏ lung lay, lòng người xốn xang, nhưng im ắng không một âm thanh. Một lúc lâu sau, Tiểu Kiều lên tiếng trước, “Thật ra huynh và muội không ai mắc nợ ai.”
Sở Ca kinh ngạc nhìn Tiểu Kiều, con mắt phải không băng bó của nàng đang trào lệ. Sở Ca ôn tồn nói, “Muội nói khiến lòng ta đau quá. Muội hiểu ta mà, ta đâu thể hành động như muội nghĩ.”
Tiểu Kiều gượng cười, “Vâng, muội hiểu. Nhưng không cần thiết đâu. Khi xưa, huynh cứu muội ra, còn đốt cái kỹ viện diêm dúa làm khổ đời bao thiếu nữ ấy. Nếu không, muội đã bị chà đạp không ra hình người và có lẽ đã chết từ lâu rồi. So với bất hạnh ngày đó, thì chút thương tích hiện nay có thấm vào đâu? Hồi đầu muội muốn trao thân cho huynh nhưng cũng biết huynh vẫn theo đuổi sự nghiệp chưa trọn, giang hồ thì đầy hiểm nguy, huynh sợ đời muội sẽ lỡ làng nên mới giữ khoảng cách coi muội như bạn, muội vẫn không biết nên báo đáp huynh thế nào mới phải. Nay có dịp đền ơn huynh cứu mạng, muội vui lắm. Từ nay chúng ta không mắc nợ nhau, không phải băn khoăn gì nữa, chẳng phải rất tốt hay sao?”
Sở Ca thầm nghĩ, tình nghĩa đâu phải thứ để giao dịch mà nói thôi mắc nợ này khác... chỉ là dối mình dối người. Nhưng y vẫn ngần ngừ không biết nên làm thế nào. Lòng muốn hứa hẹn nhưng lại không thể. Đời một kẻ phù vân bốn bể là nhà, không có tư cách hứa hẹn trọn đời trọn kiếp với một người đàn bà. Nhưng lòng cũng không nhẫn tâm được...
Đầu óc rối loạn, Sở Ca buột miệng, “Vụ này thành công, ta nhất định trở về tìm muội.”
Tìm xong rồi sao? Mai đây trở lại và đem đến cho Tiểu Kiều một tình cảm như thế nào, chính y cũng không rõ nữa.
Tiểu Kiều hơi cựa mình, hồi lâu sau mới nói, “Vâng, muội sẽ chờ huynh.”
Sở Ca cúi xuống khẽ hôn lên môi Tiểu Kiều. Hai người nắm tay nhau trò chuyện một lúc nữa, rồi Sở Ca đứng thẳng dậy cáo từ, “Nếu Ngải Ngải chạy thoát, nó sẽ đến Giang Kinh, ta phải khẩn trương đi tìm nó trở về.”
Tiểu Kiều chợt nhớ ra, “Hôm nọ huynh đi rồi, Ngải Ngải đã vẽ thêm tranh mới, nói là nhất định phải cho huynh xem.”
Trên tường đúng là có bức tranh Sở Ca chưa thấy bao giờ, cũng như các bức tranh chữ khác, may mà chưa bị đám võ lâm kia phá hủy. Tranh này thoạt nhìn kỳ lạ, vầng trăng soi trên mặt hồ sáng như gương, một con thuyền nhỏ đang lắc lư, một mỏm đá hình thù kỳ dị nhô trên mặt nước. Chỉ là bức tranh thủy mặc đơn giản, tả ý. Ở góc bức tranh đề bài từ Quá Động Đình theo điệu Niệm nô kiều của Trương Hiếu Tường thời Nam Tống. Lạc khoản viết tên tác giả, vẫn thêm ba chữ “Độc Cô Dã”. Trương Hiếu Tường là bậc trung nghĩa ái quốc, sau khi bị biếm chức, ông đến Nhạc Dương, cảm xúc dâng trào trước khung cảnh nơi đây và viết nên bài từ này để thổ lộ nỗi lòng.
Sở Ca ngạc nhiên nhìn bức tranh, rồi quay người đi ra, im lặng, cho đến tối vẫn không nói một câu.
Vân Lăng không biết Sở Ca và Tiểu Kiều nói chuyện gì trong phòng, chỉ biết kể từ lúc bước vào Họa Mi Cư, Sở Ca như biến thành người khác. Xem ra, Xích Nhiêm Công nói không sai, Sở Ca vẫn là người đa tình, Họa Mi Cư vẫn là chốn đa tình. Người đa tình vào chốn đa tình thì đương nhiên là rối bời. Nàng nên làm gì? Tất nhiên là nên tránh đi thật xa, nhưng... đâu có dễ? Vân Lăng dự định lúc ăn tối sẽ hỏi Sở Ca xem có định làm phi vụ này nữa không. Nhưng không thấy Sở Ca ra khỏi phòng để ăn tối. Nàng quyết định đợi qua đêm cho Sở Ca bình tĩnh lại. Dù y có thoát khỏi tâm trạng ủ rũ hay không, nàng vẫn sẽ xuống hồ tìm kho báu.
Nghĩ vậy, Vân Lăng ăn cơm rồi về phòng tự tập luyện. Ôn đến các màn liên thủ tập kích với Sở Ca thì lòng bỗng chán nản, bèn dừng lại. Nàng đứng ngây bên cửa sổ nhìn trời đêm, rồi quyết định thay quần áo thoáng rộng, ngồi thiền, sau đó sẽ đi ngủ. Tọa thiền cần loại bỏ tạp niệm, nhưng đầu óc nàng nhộn nhạo bao ý nghĩ, nhớ đến bức tranh Ngải Ngải để lại mà nàng đã vào xem, nhớ đến cuộc nói chuyện riêng giữa Sở Ca và Tiểu Kiều, rốt cuộc không sao tập trung được. Đang băn khoăn, nàng bỗng nghe thấy tiếng “cộc cộc” ngoài cửa sổ. Vân Lăng giật mình, vừa rút Kim Ngân Hoa ra thì tiếng Sở Ca vọng vào, “Đi thôi!”
Vân Lăng không hiểu, “Đi đâu?”
“Hồ Động Đình! Chúng ta đã nói rồi mà?”
“Nói rồi ư?” Nếu không phải đang đêm yên tĩnh thì Vân Lăng sẽ kêu lên, “Từ lúc ra khỏi Họa Mi Cư, huynh có nói gì đâu mà bảo là đã nói rồi?”
Sở Ca đáp, “Nói từ lúc ở kinh đô cơ mà? Rằng đến Nhạc Dương không phải để ngao du ngắm cảnh.”
“Nhưng...” Vân Lăng định nói, hôm nay huynh ủ rũ như thế thì còn làm ăn gì được? Nhưng lại sợ Sở Ca tổn thương, đành thôi.
Sở Ca nói, “Hai chúng ta không nên cứ nói chuyện qua cửa sổ thế này, hay là để ta vào, chúng ta cùng xem bản đồ?”
Vân Lăng định mở cửa sổ nhưng chợt nhớ ra mình chỉ mặc áo cộc, bèn nói, “Chờ đã!” Nàng nhanh chóng thay bộ quần áo lặn, rồi mới mở cửa sổ. Sở Ca nhảy vào, cũng mặc bộ đồ lặn, rồi y mở bản đồ ra, “Xem đi, xem kỹ đi! Đường đi lối lại thế nào trông cậy cả ở muội đấy.” Sở Ca tủm tỉm nhìn Vân Lăng, “Mà, muội không thoải mái à?”
Vân Lăng gần như kêu lên, “Nửa ngày trời không thấy mặt, huynh thật có biệt tài nói ngược, vu oan cho người khác!”
Sở Ca biết lỗi, mỉm cười, “Khi trước, đúng là ta thô lỗ, mặt nặng chình chịch chẳng ra sao, khiến muội khó chịu.”
Vân Lăng khẽ làu bàu, nhưng thôi, y đã biết nhận lỗi là được. “Huynh cần xem lại bản đồ thật à?” Nàng cầm cái túi gấm chứa Kim Ngân Hoa lên, lòng biết thừa Sở Ca chỉ viện cớ để vào xin lỗi.
Quả nhiên, Sở Ca đáp, “Thôi, không cần! Chúng ta cứ mang theo phòng bị là được.” Sở Ca nhảy ra cửa sổ, trên lưng là cái bị căng phồng.
Vân Lăng lấy làm lạ, “Sao huynh mang bị to thế? Định đi xa hay sao?”
Sở Ca ngoảnh lại cười, “Đi tìm kho báu, nhưng cứ mang thêm vài thứ biết đâu sẽ dùng đến.”
Dưới ánh trăng, Vân Lăng lướt theo Sở Ca, lát sau cả hai đã đến trước một tòa lầu hùng vĩ. Vân Lăng chưa lên chơi bao giờ nhưng nhìn quy mô này thì đoán chắc đây chính là lầu Nhạc Dương nổi tiếng bốn phương.
Sở Ca tung mình lên, lấy đà vài lần đã đến đỉnh lầu. Vân Lăng cũng nhảy theo, rồi đứng bên cạnh Sở Ca. Vầng trăng sáng treo cao ở hướng Đông Nam, ánh sáng mát trong chiếu xuống mặt hồ lấp lánh. Xa xa lờ mờ ẩn hiện dãy núi đang ngủ say, khung cảnh thực yên bình.
Vân Lăng chợt nghĩ, nếu khắp nơi đều tĩnh lặng êm đềm như thế này thì hay biết mấy! Từ nhỏ nàng đã nghe nói và chứng kiến các tộc người Nữ Chân không ngớt giao tranh, tộc Na Lạp bị Đức Thái Tổ thôn tính, sau đó các thế hệ ông cha trong quân đội Hậu Kim đã chinh phạt khắp nơi, chiến đấu gian nan là một phần của đời sống. Nàng lặn lội Trung nguyên cũng đã trải nhiều phen sóng gió chém giết tàn khốc, cuộc sống ẩn cư của Sở Ca trước đây rất đỗi xa lạ với nàng.
Nghĩ ngợi lan man, đồng thời cũng kinh ngạc trước cảnh sắc tuyệt vời này, Vân Lăng hỏi, “Đây là lầu Nhạc Dương hả? Sao huynh nói là chúng ta không đi để ngắm cảnh?”
Sở Ca mỉm cười, “Ai bảo ngắm cảnh?” Rồi tung mình nhảy xuống trong tiếng kêu kinh ngạc của Vân Lăng.
Hai mươi trượng dưới kia, Sở Ca đang khoanh tay ngước nhìn lên, y từng dẫn Ngải Ngải đến đây nhảy xuống nhiều lần, nhưng Ngải Ngải có tư chất khinh công, và từng được danh sư chỉ bảo. Còn với Vân Lăng, nhảy xuống chưa chắc đã an toàn. Nào ngờ cái đốm đen bé xíu ấy lại từ đỉnh lầu bay thẳng xuống! Sở Ca biết tính Vân Lăng cao ngạo, nhưng không ngờ nàng dám mạo hiểm tính mạng như thế, y hét lên.
Đúng là Vân Lăng đang mạo hiểm, nhưng không mù quáng làm bừa. Nàng sử dụng Minh xà công bấy lâu vẫn giấu kín, là công phu mà Thiên Sơn Huyết Mẫu truyền riêng cho nàng.
Loại công phu này không thuần túy là nội công hay khinh công, cũng không có chiêu thức nhất định, mà là một môn pháp lạ lùng chủ yếu dựa vào hít thở và dùng ý niệm điều tiết cơ thể. Luyện loại võ công này, không cần tư chất trời cho, cũng không thể dựa vào sự chuyên cần thức khuya dậy sớm khổ luyện, mà cần có sự giác ngộ độc đáo. Huyết Luyện Môn có hai mươi tám đệ tử lớn nhỏ, Thiên Sơn Huyết Mẫu đã chờ đợi ba chục năm mới thấy nữ nhân duy nhất có ngộ tính để hiểu được Minh xà công là Vân Lăng. Lúc này nàng bay trong không trung, tay tung cái túi gấm đựng Kim Ngân Hoa lên cao, uốn mình như rắn bám vào nó, cùng nó nhào lộn mấy vòng, làm giảm đáng kể tốc độ rơi, cuối cùng nhẹ nhàng tiếp đất, nhưng cũng hơi loạng choạng.
Sở Ca hô to, “Hay!” Rồi im lặng bước lên mấy bước, kêu lên, “Ha!”
Vân Lăng bật cười, “Huynh định nói gì thì cứ nói, sao lại hây ha thế?”
Sở Ca chỉ vào một mảng tường gạch bên dưới lầu Nhạc Dương, “Nhìn cái hốc tường lở lói kia, trong đó từng giấu một con thuyền nhỏ, chỉ có ta và Ngải Ngải biết. Phòng bị cũng không thừa, dùng để thoát thân.”
“Vậy là khi bị đám võ lâm giang hồ truy bắt, Ngải Ngải đã dùng nó rồi. Đây là tin tốt lành!”
“Ta mong là thế.”
“Nhưng không còn thuyền nữa thì chúng ta ra hồ bằng cách nào?”
Sở Ca đáp, “Tìm con thuyền khác.”
Cả hai đi dọc bờ nước theo hướng Nam, lát sau đến một chỗ um tùm lau sậy và lởm chởm đá nhọn, khó mà đặt chân được. Họ tung mình nhảy qua, rồi tiếp tục đi.
Sở Ca nói, “Ở đây!” Rồi sục tìm giữa đám cỏ cao lút đầu người, kéo ra một nửa con thuyền nhỏ.
Vân Lăng bật cười, “Muội đã từng luyện lướt ván, bây giờ chỉ cần tìm mái chèo là được.”
Sở Ca nói, “Đừng cười vội, cứ chờ!” Sở Ca lại tung mình xa hơn mười trượng vọt lên một cây đại thụ, lát sau nhảy xuống, vai vác một thứ khá to. Vân Lăng chờ xem, thì ra là một nửa con thuyền nhỏ. Nó còn có bốn cái vấu thò ra. Sở Ca bảo Vân Lăng vác nửa kia đến, họ vận sức ghép hai nửa lại, bốn cái vấu khớp nhau, gắn thành một con thuyền hoàn chỉnh.
“Chà chà! Tài quá!” Vân Lăng tấm tắc. Nàng thầm nghĩ, Đại Thanh mà thu phục được con người tài ba này thì có ích cho cơ đồ lắm.
Trong bãi cỏ dại còn giấu sẵn hai mái chèo, cả hai chèo thuyền ra giữa hồ.
Dẫu làm nhiệm vụ kiếm tìm kho báu nhưng Vân Lăng vẫn có cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm khi chèo thuyền trên hồ Động Đình dưới trăng, một lúc vui vẻ hiếm hoi trong đời. Nàng nhìn Sở Ca, Sở Ca cũng đang nhìn nàng, tiếc rằng ánh trăng không đủ sáng để nàng nhận ra ánh mắt y. Nhưng cũng may, vì y sẽ không nhìn thấy đôi má nàng bỗng ửng hồng. Lúc này ánh trăng hồn nhiên phủ trên đôi vai, hắt lên khuôn mặt sáng, mờ ảo nhưng khá rõ nét, Sở Ca cũng đang nhìn mê mải.
Sở Ca đã vài lần cùng Ngải Ngải bơi thuyền trên hồ vào ban đêm đều là vì chiều ý cô gái nhỏ, nhưng tâm tư lúc này thì khác. Trước mặt y là một giai nhân bí hiểm khó lường, cũng là một đồng đội nhạy bén hiểu nhau như tri kỉ. Ý nghĩ này lại khiến Sở Ca bất an, giống như bỗng phát hiện ra thành đồng vách sắt lại có một lỗ hổng ở lưng chừng. Độc lai độc vãng, báo ân báo oán rõ ràng, sao tự nhiên lại bận tâm đến tri kỉ?
Hai người hai tâm trạng, không nói không rằng nhưng đều vui vẻ thưởng ngoạn cảnh đêm êm đềm. Rào, rào... tiếng mái chèo khua nước, thuyền tiếp tục trôi đi. Sở Ca bỗng nói, “Gần đến rồi!” Y ngừng tay chèo, xúc động nhìn mỏm đá nhô lên mặt nước ở phía trước không xa. Cao hơn đầu người, lởm chởm mấp mô kỳ dị, hằn sâu vô số ký ức.
Vân Lăng cũng ngừng tay, “Giống như trong bản đồ à? Chỉ nghe nói hồ Động Đình có đảo Quân Sơn và đảo Xích Sơn ở gần cửa sông Nguyên, không ngờ còn có mỏm đá này nữa!” Nàng bỗng nhớ ra, “Ngải Ngải đã vẽ mỏm đá này! Hôm nọ lúc mới thấy bản đồ kho báu, huynh nói là hồ Động Đình chỉ mênh mông sóng nước, không có đá ghềnh gì hết kia mà?”
Sở Ca đáp, “Ta nói là ‘vốn dĩ không có đá ghềnh’. Cho nên, đây là ngoại lệ.”
“Sở huynh đúng là một cao thủ chữ nghĩa! Nhưng tại sao Ngải Ngải...”
“Mỏm đá này là của Ngải Ngải.”
“Nói thế là sao?”
“Hồi xưa Ngải Ngải chừng mười tuổi, cũng vào một đêm trăng thế này, nó cứ đòi ta đưa đi bơi thuyền trên hồ. Trước đây ta thường dẫn nó đi chơi, nhưng lần ấy nó lại khua tay chỉ trỏ chủ động yêu cầu. Ta cũng chiều ý, thế là nó dẫn ta đến đây và nhìn thấy mỏm đá này.” Sở Ca tung mình nhảy lên mỏm đá, rồi ngoảnh lại ném phi hổ trảo cố định chiếc thuyền, sau đó gọi Vân Lăng. Vân Lăng nhảy lên rồi, Sở Ca ngồi thụp xuống chỉ vào bề mặt đá, “Muội mang theo đèn, thắp lên đi, để nhìn cho rõ.”
Trên mỏm đá khắc hai chữ “Ngải Ngải”.
Sở Ca nói, “Năm xưa Ngải Ngải lên đây, không hiểu sao nó vui lắm, cứ nhảy cẫng lên. Ta đã vô số lần đi ngang qua mà không để ý đến mỏm đá kỳ dị này. Nó không sừng sững vút cao, thì ra vì bình thường đá chìm dưới mặt nước, vào mùa thu đông hoặc nếu thượng nguồn các con sông cạn nước, đá mới lộ ra. Lần đó vừa khéo là mùa đông, mấy năm qua lại hạn hán nghiêm trọng, nên mỏm đá mới xuất hiện.”
“Hai chữ này, có lẽ do đại sư Độc Cô Dã viết.” Vân Lăng cười nói.
Sở Ca bồi hồi nhớ lại đêm hôm ấy, “Lúc ấy ta nói muội tìm thấy mỏm đá này, thì nó là của muội. Rồi ta dùng ngón tay khía lên mặt đá hai chữ Ngải Ngải.”
“Tiện thể phô trương võ công luôn!” Vân Lăng nói đùa.
Sở Ca nói, “Không dám, không dám. Năm ấy dưới trướng Viên đốc sư có vô số cao thủ, đại sư Độc Cô Dã mới chỉ là bé gái chưa biết gì.” Y nghĩ ngợi, “Hồi đó ta không ngờ Ngải Ngải lại tìm thấy mỏm đá này. Không phải tình cờ, mà là có mục tiêu cụ thể, vì mỏm đá liên quan đến lăng mộ Thành Cát Tư Hãn.”
“Tiếc thật, lúc này Ngải Ngải không có mặt. Liệu đêm nay chúng ta có thể làm sáng tỏ điều bí ẩn không?”
Hai người cúi nhìn khối đá dưới chân, chưa biết nên làm thế nào. Bản đồ kho báu xăm trên người Phượng Trung Long, hai hồ chồng lên nhau, cũng có vài ghi chú về mỏm đá kỳ dị này. Vân Lăng sau nhiều lần quan sát tỉ mỉ hồ Chiêu Dương, đã giải mã được phương vị dưới nước gần đảo Hồ Tâm, ví dụ, “dưới đá Long Tu một trượng rưỡi, chếch tám về Nam”, “Tây Bắc đá Dạ Xoa ba, hai”, hoặc “đầu phượng đá Phượng Nghi chếch hai trượng chín”... nhưng không thấy ghi chú về mỏm đá này.
“Mỏm đá trông thật gớm ghiếc, liệu có phải đá Dạ Xoa?” Sở Ca hỏi.
Vân Lăng cười, “Đáy hồ Chiêu Dương còn có đá gớm ghiếc hơn nhiều, các cao thủ địa phương lặn xuống xem, đặt tên nó là đá Dạ Xoa.”
Sở Ca tiếp tục ngẫm nghĩ, “Ngải Ngải tìm ra mỏm đá này, rõ ràng là điều cơ mật của Viên đốc sư lúc sinh thời. Ông đã cho Ngải Ngải biết về mỏm đá, chắc ông cũng nói cho nó biết bí mật.”
Vân Lăng nói, “Ngải Ngải tài thật!”
Sở Ca nhìn Vân Lăng, tỏ ý không hiểu.
Vân Lăng nói, “Cô bé còn nhỏ tuổi mà giấu kín một bí mật khổng lồ, thật tài ba!”
“Con gái của Viên đốc sư đương nhiên là tài ba rồi!” Sở Ca nói chắc như đinh đóng cột, thậm chí giọng đầy tự hào.
“Càng tài tình hơn nữa ở chỗ, dẫu chịu ơn sâu nặng của huynh nhưng nó cũng chưa hấp tấp nói cho huynh biết, bởi vì, khi đã nói ra, dù huynh không có ý tham lam thì vẫn gây ra những chuyện thị phi rắc rối, Ngải Ngải là cô bé rất chín chắn.” Vân Lăng tấm tắc khen ngợi.
Sở Ca thở dài, “Tiếc rằng Viên đốc sư đôi khi hành động có phần nóng nảy, nếu không năm xưa ông đã không bị biếm chức, về sau cũng không bị hôn quân đố kỵ rồi phải bỏ mạng.”
Vân Lăng vừa trầm trồ vừa tiếc nuối. Nàng vui vì Sở Ca là người giàu tình cảm, trọng nghĩa khí, đã bao năm trôi qua mà vẫn không nguôi tưởng nhớ Viên Sùng Hoán. Và, buồn là vì con người này sẽ không bao giờ cam chịu phục vụ Đại Thanh của nàng.
“Ngải Ngải là người kín đáo cẩn trọng, sau khi hai chúng ta đi tôi, cô bé bỗng vẽ bức tranh mới, bố cục y hệt cảnh vật ở đây, là ngẫu nhiên hay sao?” Vân Lăng hỏi.
Thật ra Sở Ca cũng đã từng nghiền ngẫm nhưng đến giờ vẫn chưa hiểu ra. Nguyên mẫu tranh đang ở ngay trước mắt y, có điều, chỉ là hồ nước, con thuyền, trăng sáng và mỏm đá kỳ dị, chứ đâu có chỉ dẫn gì về kho báu hay lăng mộ đại hãn?
“À, bài từ!” Sở Ca khẽ kêu lên. Liệu những câu đề trên tranh có phải là gợi ý? Bài từ theo điệu Niệm nô kiều của Trương Hiếu Tường nức tiếng một thời, những người ít học cũng thuộc lòng, chưa kể Sở Ca và Vân Lăng đã từng duyệt qua bao nhiêu thi ca.
Vân Lăng ngâm lại một lượt.
“Bên bờ Động Đình, cỏ mượt xanh,
Gần đến Trung thu, gió lặng cành.
Hồ nước mênh mông ba vạn dặm, là thế giới của ngọc quý chăng?
Một con thuyền nhẹ trôi.
Ngân hà lấp lánh,
Ta muốn múc hết nước sông Tây Giang trong vắt,
Rót đầy chòm Bắc Đẩu trên trời.”
Rồi nàng hỏi, “Huynh có nhận ra điều gì không?”
Cả hai cùng lắc đầu. Ngôn từ và ý nghĩa đều nhẹ nhàng, nhưng không có một chữ nào nói về tảng đá xấu xí nhô lên mặt nước.
Sở Ca lẩm bẩm, “Giả sử linh kỳ vẽ vị trí lăng tẩm hoàng đế Mông Cổ giấu trong khối đá này, thì Ngải Ngải sẽ dùng những chữ gợi ý về phương hướng, ví dụ, linh kỳ nằm ở mặt nào của khối đá. À, hay là khi xưa Viên đốc sư đã dùng bài từ này để ngầm chỉ phương hướng? Trong bài từ này có từ nào chỉ phương hướng không?”
Vân Lăng ngờ ngợ, đã có chút manh mối, nàng mừng rỡ reo lên, “Tây Giang trong vắt, Bắc Đẩu trên trời! Là hai chữ Tây và Bắc!”
Sở Ca nhìn trăng để xác định hướng Tây Bắc, rồi ngồi xổm xuống mạn Tây Bắc của mỏm đá, gõ nghe hồi lâu, không thấy kết quả gì. Y bèn nhảy xuống nước xem xét kỹ xung quanh khối đá, vẫn không tìm thấy chỗ nào có khả năng cất giấu. Y tiếp tục lặn sâu xuống, lần mò, dù biết rằng càng ở sâu thì hi vọng càng mong manh. Khi lặn gần sát đáy hồ, Sở Ca bỗng thấy khác lạ, vì chân đã chạm vào đá chứ không phải bùn đất như chỗ khác, chứng tỏ mỏm đá này không tồn tại độc lập. Sở Ca ngoi lên mặt nước, nói, “Cho ta mượn dạ minh châu!”
Vân Lăng đáp, “Phát hiện ra điều gì chưa?”
Sở Ca nói, “Bề mặt tảng đá này bình thường nhưng dưới đáy nước thì hơi lạ, không phải bùn đất, mà là đá cứng.”
“Thấy huynh lặn xuống nước, trong lòng muội ngứa ngáy không chịu được, hay để muội cùng xuống với huynh.” Vân Lăng nói rồi nhảy ùm xuống nước.
Nước không sâu, cả hai nhanh chóng lặn xuống đáy hồ. Dạ minh châu chỉ sáng như đom đóm nhưng cũng đủ để nhìn đại thể cảnh vật ở đáy nước. Nền đá vuông vức, mỗi bề rộng chừng một trượng, xung quanh là vô số hòn đá to nhỏ cao thấp lộn xộn với đủ hình thù kỳ quái. Cả hai lần lượt quan sát đánh giá, chưa nhận ra điều gì lạ thì phổi đã hết không khí, đành ngoi lên mặt nước.
Vân Lăng đạp nước, hít thở mạnh một lát, rồi hỏi, “Ta nên dành công sức tìm kiếm ở hòn đá to, hay là tiếp tục khám phá đám đá nhỏ ấy?”
Sở Ca lặng lẽ suy nghĩ một lát, rồi nói, “Có lẽ tìm ở tảng đá to sẽ dễ hơn, nhưng ta xem xét kỹ ở hướng Tây Bắc và Đông Nam rồi, nếu lại xem nữa thì e tốn công. Còn đám đá nhỏ, nếu tìm kỹ từng hòn thì càng phiền hà, giá mà có chút gợi ý nên tìm hòn đá nhỏ nào thì tốt.”
Vân Lăng chợt nảy ra một ý, “Hay là hai chữ Tây và Bắc ngụ ý rằng phải tìm kiếm hòn đá nhỏ bên ngoài tảng đá lớn, theo hướng Tây Bắc?”
Sở Ca nói, “Có thể lắm! Hướng Tây Bắc có hơn hai chục hòn đá nhỏ, thăm dò cũng đỡ mệt hơn là tìm cả trăm hòn đá. Và nếu Tây Bắc đúng là phương hướng được gợi ý thì còn nhiều chỗ khác trong bài từ của Trương Hiếu Tường cũng có giá trị gợi mở.” Sở Ca nghĩ ngợi, “Chữ số! Trong bài thơ đó có chữ số gì không?”
“‘À, ba vạn dặm, một con thuyền...’ Có số ba, số một! Tây Bắc, ba, một!”
Cả hai nhìn nhau rồi cùng bổ nhào xuống nước. Lặn đến đáy, lấy khối đá quái dị làm mốc, đếm hòn đá thứ ba theo hướng Tây, hòn đá thứ nhất theo hướng Bắc. Cũng chính là hòn đá nằm ngoài cùng, đầu bên trái. Đá cao khoảng một trượng, chẳng ra hình thù gì.
Sở Ca thử đẩy, nó không nhúc nhích, tức là liền một khối với tảng đá lớn ở đáy hồ. Cả hai gõ đập nghe ngóng, Sở Ca vận nội lực đấm thủng một cái lỗ, tảng đá vẫn không có dấu hiệu gì lạ. Hai người lại thử tìm “hướng Tây một, hướng Bắc ba”, cũng không có kết quả. Lúc này lại phải ngoi lên mặt nước để thở.
“Không phải Tây Bắc ba một, thì là gì?” Vân Lăng làu bàu.
Sở Ca bỗng kêu lên, “Tây Bắc ba một... đá Dạ Xoa Tây Bắc ba hai! Muội có nhớ trên bản đồ chú thích rằng đá Dạ Xoa Tây Bắc ba hai không?”
“Nhưng đá Dạ Xoa là hòn đá ở đáy hồ Chiêu Dương kia mà?” Vân Lăng phản đối, “Huống chi, trong bài từ của Trương tiên sinh không có số ba, hai...?”
Nhưng Sở Ca đã nhào xuống nước.
Hòn đá thứ ba phía Tây thứ hai phía Bắc, cao bốn thước rưỡi, rộng hai thước, đầu nhỏ và nhọn, trông giống như máng đá trong động thạch nhũ. Sở Ca thử lay, nó vẫn bất động. Y lại gõ thử, nhè nhẹ. Cứ thế sờ nắn xem xét, rồi dùng cả hai tay xoay xem sao.
Vân Lăng trữ khí không nhiều, đang căng thẳng, tim đập nhanh, nhung vẫn cô giơ đèn soi. Sở Ca ra sức vặn xoay, rốt cuộc đã “nhổ” được hòn đá nhọn này, giơ lên. Là hòn đá rỗng, bên trong có một túi da căng phồng.
Vân Lăng không gượng nổi nữa, ngoi lên mặt hồ để hít thở. Lát sau Sở Ca cũng phải nổi lên.
“Trong túi da là cái gì?” Vân Lăng vừa đạp nước vừa hỏi.
Sở Ca nói, “Có vẻ là linh kỳ, ta đã nhét vào bị sau lưng rồi. Có thấy cái bị này được việc không?”
Vân Lăng ngạc nhiên, “Hay là có hai lá linh kỳ, một ở hồ Chiêu Dương, một ở hồ này. Bá Nhan đã cất giấu ở hai nơi.”
“Nếu truyền thuyết là có thật, Viên đốc sư năm xưa đã biết được một phần nhỏ, đem giấu ở hồ này, rồi truyền lại bí mật đó cho Ngải Ngải!” Sở Ca có cảm giác sự thật đang dần sáng tỏ.
Vân Lăng mỉm cười, “Nếu đúng thế thì hay quá! Đây cũng là một di vật của Viên đốc sư, huynh được kế thừa, âu cũng là ý trời. Chúng ta trở về, hâm bình rượu ăn mừng...” Bỗng thấy Sở Ca biến sắc, Vân Lăng nhìn theo ánh mắt y, thì ra có bảy tám con thuyền nhỏ đang lướt đến, đằng sau còn có hai thuyền lớn, cũng di chuyển khá nhanh.
Sở Ca hét, “Mau lên thuyền!”
Cả hai vội lên thuyền, Sở Ca gỡ dây xích phi hổ trảo khỏi hòn đá, hai người ra sức chèo.
Có tiếng gọi, “Dừng lại! Chớ chạy nữa, dù sao các ngươi cũng không thể thoát khỏi tầm tay của giáo chủ nương nương đâu!”
Sở Ca biết Vân Lăng thuộc làu các môn phái lớn trên giang hồ, bèn hỏi, “Có mấy giáo chủ nương nương?”
“Vẫn chỉ có một, nhưng huynh nên nhớ huynh đã thả giáo chủ nương nương tiền nhiệm ra khỏi địa lao Đông Xưởng. Thế tức là có hai!”
Lúc này dù là Sư Linh Quyên hay tân giáo chủ cũng đều bất lợi cho họ cả. Thuyền đã áp sát bờ hồ, cả hai nhảy vọt lên. Nhưng vừa đáp đất thì bỗng bị một tấm lưới to từ trên cao chụp xuống. Nhuyễn kiếm và Kim Ngân Hoa lập tức nắm trong tay, họ vừa lăn tròn trên mặt đất vừa chém lưới, rồi vùng dậy đứng bên nhau, sẵn sàng liên thủ đối phó.
Tám người mặc đồ trắng xông đến, chỉ tích tắc đã có sáu tên máu nhuộm bờ cát. Hai tên cuối thấy đối thủ phối hợp quá lợi hại, tự dưng sợ hãi, tay cầm đao côn mà lúng túng không biết nên làm gì.
“Đồ rác rưởi, rác rưởi! Chúng bay không nhận ra dù có lòng can đảm của Bạch Liên Giáo, được Phật tổ phù hộ thì vẫn bỏ mạng dưới bàn tay hai tên ác ma này à? Tránh ra, tránh ra!” Một giọng sang sảng vang dội. Người nói là một lão già cao kều gầy khô, chính là Vệ Hạo Nhiên, một hộ pháp của Bạch Liên Giáo. Lão mặc áo bào trắng tinh, chầm chậm bước ra từ bóng tối.
“Sau mấy ngày lại được trùng phùng! Võ công của hai vị đã tiến bộ hơn nhiều. Đáng mừng, đáng mừng!” Vệ Hạo Nhiên nói.
Vân Lăng mỉa mai, “Các vị trùng phùng mới là đáng mừng chứ? Tôi cho rằng ông mừng quá nên quên cả tạ ơn hai chúng tôi? Hay là ông cho rằng tấm lưới rách và tám gã rác rưởi này là quà tạ ơn? Nếu thế thì chưa đúng với quy tắc giang hồ.”
“Mồm miệng của cô nương... chà chà!” Vệ Hạo Nhiên lắc đầu.
Vân Lăng sờ ria mép, “Cô nương nào nhỉ? Ông già cả, lú lẫn rồi...”
“Lần này ngươi che giấu khá kỹ đấy, lần trước ở Đông Xưởng cũng tạm được, nhưng ngươi hãy nhớ lại xem Thiên Sơn Huyết Mẫu có thu nhận nam đệ tử không?” Vệ Hạo Nhiên cười nhạt. Các đệ tử Huyết Luyện Môn hành tẩu giang hồ đều không bao giờ tiết lộ mình đã học võ từ ai, vì thế Thiên Sơn Huyết Mẫu gần như là một truyền thuyết. Hôm đó lão già này nói về huyền thiết châu, đủ thấy lão biết rõ Thiên Sơn Huyết Mẫu.
Vân Lăng vội đánh trống lảng, “Tiên sinh là hộ pháp, lẽ ra nên mặc ngân bào chứ không nên mặc đồ trắng như các đệ tử.”
“Sau khi giáo chủ nương nương trở lại vị trí, cách tân đại sự, nay gặp thời buổi gian nan nhiễu nhương, không nên xa hoa làm gì, vì thế, thuộc hạ của nương nương đều mặc đồ trắng cả.” Giọng Vệ Hạo Nhiên chắc nịch, tỏ ra kính phục các động thái mới của giáo chủ nương nương.
Sở Ca cười ầm lên, “Ở nơi hoang vắng đêm hôm khuya khoắt, đâu phải lúc nói chuyện lan man cũ mèm, để hôm khác! Đi thôi!” Rồi cùng Vân Lăng tung mình lên, nhưng Vệ Hạo Nhiên còn nhanh hơn, thân hình gầy còm dang rộng hai tay, chẳng khác gì bức tường trên không trung chân ngang lối đi của hai thủy tặc, họ đành hạ xuống đất. Sở Ca phóng kiếm đâm thẳng vào Vệ Hạo Nhiên, ông ta bình thản chỉ tay, kình phong từ ngón tay bắn vào nhuyễn kiếm, khiến thanh kiếm rung bần bật.
Vân Lăng búng mình lên. Vệ Hạo Nhiên biết Vân Lăng lại định tháo chạy, bèn hứ một tiếng rồi bay theo, giơ chân đạp nhuyễn kiếm của Sở Ca, đồng thời vận khí ngón trỏ đâm thẳng vào Vân Lăng. Vân Lăng đặt chân lên vai Sở Ca lấy đà khẽ nhún, người bật cao mấy trượng trên đầu Vệ Hạo Nhiên, sau khi lộn vài vòng, nàng đáp xuống một cành đại thụ, thoát khỏi vòng chiến. Vệ Hạo Nhiên không khỏi kinh ngạc.
Sở Ca đáp xuống đất rồi, cười nói, “Bây giờ ông nhẹ mình mà đối phó với tôi thôi!”
Vệ Hạo Nhiên cười nhạt, “Chưa chắc đâu!”
Đúng thế, phía xa vọng lại tiếng thét của Vân Lăng. Tiếp đó là hai bóng người lao đến, người đi đầu là Vân Lăng, người còn lại truy kích, là một hòa thượng có bộ râu quai nón rậm rì, mặc đồ trắng, tay cầm thiết trượng, chính là Thù Mộc Thượng Nhân.
Vân Lăng bị dồn trở lại bên Sở Ca. Sở Ca gượng cười, “Đã lâu mới gặp lại, hiền đệ vẫn khỏe chứ?” Đoạn y khẽ gật đầu ra hiệu. Cả hai lại đứng thế liên kết.
“Chỉ vì hai thủy tặc bé nhỏ chúng tôi mà phải làm phiền các hộ pháp xuất chinh, hân hạnh quá đi!” Vân Lăng gằn giọng.
Vệ Hạo Nhiên đáp, “Cũng tại chúng ta đều là vịt nhà nuôi trên cạn. Hai vị tuy chỉ là thủy tặc bé nhỏ nhưng thứ đã lấy được dưới nước thì không hề nhỏ! Nên chia sẻ với chúng ta thì hơn, may ra sẽ được giáo chủ nương nương khai ân, cho hai vị cơ hội gia nhập Bạch Liên Giáo!”
Vân Lăng giả bộ ngạc nhiên, “Thứ gì lấy được dưới nước?”
Phía sau vang lên một giọng nữ già nua, “Đêm hôm hai vị lặn xuống đáy hồ Động Đình, chắc không phải là đi chơi?”
Hai thủy tặc ngoảnh lại, thấy mấy con thuyền truy đuổi ban nãy đã cập bờ, hơn hai chục người láo nháo nhảy xuống, đa số mặc đồ trắng, tay xách đèn. Đi đầu là một bà già tóc bạc, chính là Sư Linh Quyên.
“Đến Nhạc Dương, thăm hồ Động Đình, chính là du ngoạn sơn thủy.” Vân Lăng cười nói.
Một đạo sĩ râu dài đi sau Sư Linh Quyên, lớn tiếng, “Ha ha... cứ tưởng là ai, thì ra là hai kẻ từng đại bại dưới tay ta!” Là chưởng môn Tất Liên Sinh phái Điểm Thương.
Sở Ca đã nghe bà giúp việc của Họa Mi Cư kể, kẻ khơi mào gây sự, giết bà Lý, đâm bị thương Tiểu Kiều là một đạo sĩ rậm râu, nên đã đoán ra là Tất Liên Sinh. Sở Ca tay nắm chặt nhuyễn kiếm, hận rằng chưa thể lập tức xuất thủ, vì biết lúc này đối phương đông đảo, thận trọng bình tĩnh chờ thời cơ là hơn hết.
Vân Lăng không bỏ qua cơ hội đấu khẩu, bèn cười nhạt, “Đại bại? Chúng tôi là hai thủy tặc nhỏ bé, các vị là ba môn phái lớn xúm lại đánh, chúng tôi không chỉ thoát thân mà còn cho các vị được tắm mát, vậy thì ai mới là đại bại?”
“Bậy nào!” Tất Liên Sinh hét lên, định lý sự tiếp thì Sư Linh Quyên cắt ngang, “Ở đây cần Tất chưởng môn phát ngôn hay sao?”
Vân Lăng tủm tỉm cười, trầm trồ, “Giáo chủ nương nương hồi trẻ xinh đẹp như tiên. Thảo nào chủ nhân một kiếm phái lớn là Tất chưởng môn cũng thèm rỏ dãi nên mới sán lại. Huống chi Vệ tiên sinh và Thù Mộc tiên sinh trung thành hết mực, nằm địa lao Đông Xưởng mười tám năm... các vị, hai nam một nữ, thế thì...”
“Cô nương giỏi tưởng tượng thật!” Sư Linh Quyên trầm giọng nói, rồi chuyển sang ôn hòa, bà ta bước lên mấy bước, “Cô nương thử nói xem, dưới đáy hồ có thứ gì?”
Vân Lăng ngạc nhiên. Bà già này hiền hậu quá, mình khỏi cần giấu giếm nữa. Nhưng nghĩ sao vẫn có phần không thỏa đáng, tốt nhất là im lặng, nên nhỏ nhẹ đáp, “Không... không tiện nói...”
“Kìa, thì ra là có báu vật thật à?” Sư Linh Quyên lại bước lên một bước, giọng vẫn hết sức ôn tồn, “Không nói cũng được, ta sẽ không gặng hỏi. Hay là, ta nói vậy? Nếu đúng thì cô nương gật đầu, sai thì lắc đầu, được chứ?”
Sở Ca nhận ra bất lợi, liền nghiêm giọng, “Hiền đ... muội! Đầu đất à? Cẩn thận!”
Vân Lăng nghe hai chữ “đầu đất” quen quen, trước đây mình từng nói thì phải? Nói với ai? Với bà già này à? Mình làm sao thế nhỉ?
Sư Linh Quyên lại nói, “Hai người xuống đáy hồ tìm thấy kho báu, linh kỳ hoặc bản đồ... bản đồ lăng mộ Thành Cát Tư Hãn, có phải thế không?”
“Vân Lăng!” Sở Ca hét lên nhưng vô ích. Tà lực của giáo chủ Bạch Liên Giáo quả là đáng sợ. Lớn tiếng gọi chẳng ăn thua, Sở Ca bất lực nhìn Vân Lăng gật đầu.
Thật không sao hiểu nổi, chuyến đi của hai người cực kỳ bí mật, dọc đường không bị ai theo dõi, người trên giang hồ nghe đồn đại đều biết kho báu Bá Nhan nằm dưới đáy hồ Chiêu Dương ở Giang Kinh, riêng Bạch Liên Giáo lại mò đến hồ Động Đình, tại sao?
Sở Ca nhìn đám đông phía sau Sư Linh Quyên, có một nam nhân thấp đậm, chính là gã ác ôn đã đánh lén Vân Lăng khi ở địa lao Đông Xưởng, nghe nói tên này còn thọc tay vào bụng Phượng Trung Long. Có phải gã đã biết bản đồ kho báu nằm ở thân thể Phượng Trung Long, rồi báo cho Bạch Liên Giáo?
Nụ cười trên khuôn mặt Sư Linh Quyên càng thêm ôn hòa thân thiện, “Bị đeo lưng của hai vị căng phồng, trong đó đựng linh kỳ, đúng không?”
Sở Ca cuống lên, vội chĩa nhuyễn kiếm vào Sư Linh Quyên, nhưng bà ta không hề nao núng, miệng vẫn mỉm cười. Hai người phía sau bà ta nhảy ra, là một ông già tuổi chừng sáu chục và một thanh niên ngoài hai mươi tuổi, đều cầm phất trần. Một người tạt vào mặt, người kia đấm thẳng vào bụng Sở Ca.
Ước chừng giao đấu là vô ích, Sở Ca bèn tung mình lên cao, xoay tít một vòng và phóng hai mũi Phá Lãng Thoa vào Sư Linh Quyên, nhưng cả hai mũi đang bay bỗng rơi xuống đất, Vệ Hạo Nhiên rút hai tay về, hẳn là vừa bắn nội công từ ngón tay chặn đứng ám khí. Sở Ca lại bất chấp, vẩy nhuyễn kiếm đâm Sư Linh Quyên. Bà ta liền giơ tay ra nắm lấy thân nhuyễn kiếm của Sở Ca, chẳng hề bận tâm lưỡi kiếm sắc nhọn ra sao. Sở Ca giật lại không xong, thở dài thườn thượt.
Thình lình đám đông kêu ầm lên, vì thấy nhuyễn kiếm bỗng mọc dài ra một thước vươn thẳng đến cổ họng Sư Linh Quyên. Lần này đến lượt bà ta kinh ngạc, thầm nghĩ còn may, vì mũi kiếm chỉ cần dài thêm một ngón tay, bà ta đang mải dỗ dành Vân Lăng hẳn sẽ không tránh kịp.
Sở Ca mỉm cười, “Giáo chủ nương nương cho rằng mình may mắn thật à? Nhuyễn kiếm của tôi vươn dài được tám thước cơ, có cần tôi trình diễn để bà xem không? Chẳng qua tôi e đám đệ tử kia sẽ băm tôi nát như tương thôi.”
Nhờ màn trao qua đổi lại đó, những lời đường mật tạm ngưng. Vân Lăng bừng tỉnh, lập tức vung Kim Ngân Hoa đánh Sư Linh Quyên. Thấy dị thuật của mình đã bị phá, bà ta cười khẩy, buông nhuyễn kiếm của Sở Ca, đoạn giật phất trần của Ngô trưởng lão và Hoa trưởng lão, tung mình lên không, áo bào thướt tha, bủa vây Vân Lăng.
Sở Ca và Vân Lăng lập tức liên thủ. Mũi nhuyễn kiếm bám vào đầu đinh ba của Kim Ngân Hoa, cùng lướt về phía trước, vươn dài một thước buộc Sư Linh Quyên phải biến chiêu phất trần. Mười tám năm trước bà ta trúng mai phục của đốc chủ Đông Xưởng thời đó là Ngụy Trung Hiền. Mười tám năm trong đại lao, bà ta tĩnh tọa luyện tập, võ công càng cao siêu, nội lực thăng hoa, kiến thức võ học có bước tiến đột phá, người giao đấu với Sư Linh Quyên mà trụ được mười chiêu chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nhưng qua mười chiêu, Sở Ca Vân Lăng vẫn sung sức xuất kích, đồng thời liên tục hò hét các tín hiệu phối hợp.
Vì tôn trọng giáo chủ, không một thuộc hạ nào dám xông vào trợ giúp. Sau hơn ba mươi chiêu, Sư Linh Quyên bỗng hét lên, đảo ngược phất trần, tay nắm tua lông đuôi ngao mềm mại, dùng cán như kiếm lại như bút điểm huyệt hai người.
Vân Lăng và Sở Ca vốn đã chống đỡ vất vả, lúc này càng lúng túng vì giáo chủ nương nương biến chiêu. Sau những cú điểm cán phất trần liên tiếp, cả hai gục ngã và bị bắt sống.
Bị xích sắt trói gô, Vân Lăng ngán ngẩm nói, “Trước khi quen huynh, muội chưa bị ai trói bao giờ, thế mà mới ít hôm đã bị trói đến hai lần. Huynh thật giỏi tự hành xác và hành xác người khác!”
Sở Ca đang nghĩ cách thoát thân, chỉ đáp bừa, “Thế mới gọi là huynh đệ hoạn nạn có nhau!”
Không muốn bị đụng vào người, Vân Lăng gọi to, “Báu vật ở trong người Sở Ca! Các vị chớ đụng vào người tôi.” Cũng may, khi thấy thuyền Bạch Liên Giáo lướt đến, Vân Lăng đã nhanh tay xé bản đồ thành mấy mảnh rồi vứt xuống hồ.
Không cần Vân Lăng gợi ý, Ngô trưởng lão đã bước đến chỗ Sở Ca gỡ cái túi đeo lưng xuống, lấy được một lá cờ chỉ huy, là linh kỳ Mông Cổ, đỉnh gắn mũi mâu nhọn, tua cờ làm bằng lông bờm ngựa. Ông ta không dám tự ý xem xét, cung kính dâng lá cờ đến trước mặt Sư Linh Quyên.
Đèn đuốc mang đến, Sư Linh Quyên lật đám tua rồi mở ra. Trong ruột ống tròn bên dưới mũi mâu giấu một tấm bản đồ đồng bằng bao la, ghi những ký tự lạ hoắc. Ở cuối một con đường, vẽ một tòa nhà kiểu cung điện với dòng chữ “Vân Lăng Tẩm Thái Tổ Thánh Võ Hoàng Đế Thăng Thiên”. Sư Linh Quyên gật đầu ra hiệu. Thù Mộc Thượng Nhân và Vệ Hạo Nhiên cũng bước lại xem. Vệ Hạo Nhiên kinh ngạc kêu lên, “Thánh Võ Hoàng Đế là thụy hiệu của Thành Cát Tư Hãn sau khi qua đời! Bản đồ lăng mộ ông ta, rốt cuộc đã được thấy ánh mặt trời rồi!”
Vân Lăng nói, “Trời chưa sáng đâu!”
Vệ Hạo Nhiên lừ mắt lườm Vân Lăng, rồi ngoảnh sang bên, cúi rạp vái Sư Linh Quyên, “Giáo chủ nương nương sáng suốt! Có được Thiên thư đại hãn thì là phúc lớn muôn đời của giáo phái chúng ta!”
Sư Linh Quyên cuộn linh kỳ lại.
Ngô trưởng lão hỏi, “Xin giáo chủ ra lệnh nên xử lý hai tặc tử này ra sao?”
Vân Lăng nói, “Nói năng sao khó nghe quá! Mọi người cướp đi cướp lại của nhau thôi, ai mà chẳng là tặc tử?”
Vệ Hạo Nhiên nói, “Cắt lưỡi con ranh này trước đã!”
Sư Linh Quyên nghĩ ngợi rồi nói, “Tạm để cho họ sống. Đưa lên thuyền đem đi. Chờ tin chính xác từ Giang Kinh, nếu đúng như Hộ Am Quân nói, rằng linh kỳ ở kho báu dưới hồ Chiêu Dương chỉ là trò lừa bịp, thì linh kỳ ở đây mới là đồ thật. Lúc đó giết hai kẻ này cũng chưa muộn.”
Đám tín đồ Bạch Liên Giáo đang có mặt đồng thanh hô vang, “Bạch liên hoa nở, quang minh vạn trượng, Vô Sinh Lão Mẫu, hương đượm thế gian!” Sau đó lục tục khởi hành.
Sở Ca và Vân Lăng bị điệu lên một con thuyền khá lớn, rồi bị ấn xuống khoang đáy sặc mùi tanh. Hẳn là thuyền đánh cá do Bạch Liên Giáo thuê về. Ván nóc sập xuống, tối đen như mực.
Sở Ca khẽ hỏi, “Hộ Am Quân nghe như tên người Oa nhỉ?”
“Chắc là một gã người Oa lọt lưới từ thuyền ma. Nên mới phát sinh lắm chuyện rắc rối.” Nghĩ đến bọn người Oa là nguyên nhân tai họa, khiến Phượng Trung Long phải chết, Vân Lăng chỉ hận lúc trước ở địa lao mình chưa xử lý đến nơi.
“Huyệt đạo đã phục hồi chưa?” Sở Ca lại hỏi.
Vân Lăng đáp, “Sắp ổn. Muội đang vận nội lực mà huynh cứ cắt ngang...”
“Thôi được rồi! Ta biết chẳng thể nói lại muội.”
Lát sau, Vân Lăng nói, “Ổn rồi. Đã dùng khí giới bí mật của huynh được chưa?”
“Ta dùng rồi. Nhưng lần này họ trói bằng xích sắt, chốt chặt, chứ không như mấy cái lẫy lần trước khớp lại. Dụng cụ ta mang theo không ăn nhằm gì, tạm thời chưa tháo được.”
“Thế thì...”
“Chờ chết vậy!” Sở Ca thở dài.
Vân Lăng gần như kêu lên, “Linh tinh! Nếu huynh sớm biết là phải chết, sao còn ra hiệu để cho giáo chủ nương nương thắng chúng ta một chiêu, muội tưởng huynh đã có diệu kế rồi?”
Sở Ca nói, “Lúc đó tiếp tục giao chiến thì chúng ta phải dốc hết sức lực, chỉ e sẽ chết ngay tại trận.”
“Mùi tôm ươn cá thối khiến muội nhức đầu chóng mặt quá, huynh nói thẳng đi, nghĩa là sao?”
Sở Ca đáp, “Muội nghĩ mà xem, giáo chủ nương nương sau mười tám năm ngồi tù trở lại cầm quyền Bạch Liên Giáo với một triệu tín đồ, tất phải tạo dựng uy phong. Với võ công siêu hạng của mình, giáo chủ nương nương chỉ cần vài chiêu là đánh gục hai chúng ta rất dễ, nhưng chúng ta lại chống đỡ được hơn ba mươi chiêu, là điều quá bất ngờ. Nếu cứ giao đấu giằng co, bọn đệ tử sẽ cho rằng võ công của bà ta không thần thông siêu hạng, bà ta mất mặt rồi nổi điên, ra tay tàn độc thì sẽ giết luôn chúng ta. Hai ta đằng nào cũng bại, thế thì cứ giả vờ sơ hở để cho bà ta thắng, còn hơn là cố chống cự đến lúc chết. Chúng ta thua, nhưng khả năng bảo toàn tính mạng sẽ lớn hơn.”
“Còn sống là còn cơ hội ngửi mùi cá tanh. Hiểu rồi!”
Sở Ca nói, “Lý lẽ thì là thế. Nhưng không ngờ họ lại trói chúng ta có nghề như thế này. Giáo phái lớn có khác.”
Vân Lăng giả vờ cười nhạt, “Hừ! Sở Ca mà cũng có lúc hết cách ư?” Lại nói, “Chờ đã, để muội thử nghĩ xem có diệu kế gì không.” Vân Lăng khẽ đung đưa theo con thuyền bập bềnh, nhắm mắt, tập trung thần trí vận Minh xà công. Những vòng xích sắt đang quấn quanh thân thể hiện lên rõ mồn một trong óc. Thân hình Vân Lăng vặn vẹo theo hướng đi của dây xích, bả vai dần thu hẹp lại, các khớp xương lỏng ra, cơ thể mềm mại như người không xương, Vân Lăng như một con cá tạm cư trú ở khoang đáy thuyền tối om. Dần dần... cánh tay trái nàng trườn ra ngoài các vòng xích sắt, tiếp đó là cánh tay phải.
Tháo chốt xích, cũng khá tốn công lực. Phải làm cho các ngón tay cứng như sắt nhưng vẫn linh hoạt như rắn. Trong bóng tối, trong tiếng nước, Sở Ca chi nghe thấy âm thanh sột soạt, không thể ngờ Vân Lăng đã vận dụng một thứ công phu hiếm có trong giới võ lâm và thoát khỏi đám xích sắt chằng chịt. Sở Ca cảm thấy bên tai là lạ, thì ra là hơi thở ngan ngát của Vân Lăng, rồi giọng nàng thì thầm, “Ngồi im. Muội sẽ cởi trói cho!”
Sở Ca hết sức kinh ngạc, thấy đám xích sắt dần lỏng ra, rồi tuột hẳn. “Muội đã...”
Vân Lăng đặt ngón tay lên môi, “Khỏi cần dài dòng, thoát thân trước đã.”
Sở Ca hỏi, “Muội... Kim Ngân Hoa, huyền thiết châu...”
“Là tính mệnh của muội!”
“Kể cả khi chạy trốn, muội cũng đem theo?” Sở Ca lần mò rồi mở hé tấm ván nóc của khoang đáy. Bên trên, ngoài tiếng nước chảy và tiếng người rì rầm không có âm thanh nào khác. Tạ ơn màn đêm che chở. Sở Ca thò bàn tay sờ soạng xung quanh, không đụng phải thứ gì, bèn đứng dậy thò cả cánh tay lên. May sao, bọn Bạch Liên Giáo bắt cả hai nhốt dưới khoang đáy, rồi ném túi gấm và nhuyễn kiếm trên này. Sở Ca sờ thấy rồi thận trọng kéo xuống, xong xuôi lại đóng tấm ván khít lại như cũ, sau đó vận lực phá thủng một lỗ ở đáy thuyền. Họ cùng lặn xuống, rồi Sở Ca cố bịt lỗ thủng lại. Nước vẫn lọt vào đáy thuyền nhưng không nhiều, chỉ đọng ít nước như các thuyền cá bình thường.
Trên thuyền, Ngô trưởng lão và các tín đồ Bạch Liên Giáo không cảm thấy gì lạ, họ không thể ngờ hai thủy tặc đã lặn xuống nước và đang cố bơi đi. Lát sau, con thuyền đã ra khỏi tầm mắt Sở Ca và Vân Lăng.
Cả hai ngoi lên mặt hồ.
“Bây giờ chúng ta đi đâu?”
Sở Ca cười, “Không ở kinh đô là tốt rồi, mục đích chuyến đi...”
“Là du ngoạn sơn thủy, chui vào khoang cá... muội biết. Còn bây giờ đi đâu?”
Sở Ca nói, “Muội để ta nói hết đã. Mục đích, đương nhiên là đi lấy bản đồ lăng mộ Thành Cát Tư Hãn.”
Vân Lăng cốc vào đầu Sở Ca, “Muội không rõ huynh điên hay muội điên? Bản đồ đã nằm trong tay giáo chủ Bạch Liên Giáo, thì còn đi lấy cái gì nữa? Lấy bà già ấy về à?”
Sở Ca cười hề hề, “Đi theo ta!” Y cắm đầu xuống nước.
Lát sau, cả hai đã bơi đến chỗ lúc trước bị truy đuổi suýt chết, rồi vội vã lên bờ. Trên bờ đầy sỏi đá, con thuyền nhỏ của họ vẫn nằm đây. Sở Ca mỉm cười, “Nhìn đi, chúng ta đã có thuyền để đi về thành.”
Vân Lăng lắc đầu, “Huynh muốn ngao du với muội cho vui chắc? Chỉ cần thêm chút sức lực là bơi đến thành Nhạc Dương.”
“Không về Nhạc Dương được nữa. Muội không thấy thuyền của Bạch Liên Giáo đều nhằm về hướng Đông Bắc à? Ta đoán, họ sẽ không dừng ở Nhạc Dương mà sẽ đến Quân Sơn. Hai chúng ta nên đi về hướng Nguyên Giang thì mới tránh chạm trán giáo chủ.” Rồi Sở Ca nhìn bốn bề, vỗ tay reo lên, “Tuyệt vời làm sao, ngay mái chèo cũng đã có!”
Đúng thế, không xa trước mặt là hai mái chèo họ từng dùng, một chiếc bị mẻ một góc.
Vân Lăng thở dài, cảm giác thất vọng lại kéo đến. Linh kỳ đại hãn đã rơi vào tay Bạch Liên Giáo sức mạnh vô song. Ăn nói ra sao với Duệ thân vương Đa Nhĩ Cổn và cả hoàng thượng nữa đây? Vân Lăng trừng mắt nhìn Sở Ca, “Linh kỳ nằm trong tay chưa được bao lâu đã dâng cho người khác, mà huynh vẫn còn cười được!”
Sở Ca im lặng, nhặt mái chèo rồi đi đến bên con thuyền nhỏ, ngồi thụp xuống, khều một mảnh ván ở đáy, để lộ ra đáy thứ hai, và moi lấy một thứ! Là một nửa lá linh kỳ.
“Muội vui lòng nhận cho!” Sở Ca đưa đến trước mặt Vân Lăng.
Vân Lăng không dám tin ngay, sợ ràng đây chỉ là một ảo ảnh, nàng do dự đứng nguyên tại chỗ, lời lẽ bỗng lắp bắp, “Đây... sao... nó đã bị...”
Sở Ca cười lắc đầu, “Có vô số người thèm khát linh kỳ chứ không chỉ ta và muội, ai mà chẳng sợ bị kẻ khác rình rập? Cho nên, khi ở quán trọ thành Nhạc Dương, ta đã làm một lá linh kỳ giả. Đề phòng bất trắc cũng không thừa. Thấy chưa, đêm nay nó đã được việc! Ta bảo muội cùng ngắm cảnh sơn thủy, không phải là tại ta buồn bực!”
Vân Lăng vui mừng khôn xiết, nhào lại ôm chầm Sở Ca, “Tuyệt vời, tuyệt vời! Danh hiệu tặc tử đệ nhất thiên hạ chỉ thuộc về huynh!”
Sở Ca cười ngại ngùng, “Trước khi vui mừng, có lẽ ta nên xem lá linh kỳ giấu dưới đáy hồ này có phải là thật không. Thế sự suy đồi, các nhân vật làm ăn không đứng đắn như ta, đâu chỉ có một hai người.”
Vân Lăng lấy cây đèn nhỏ ra, thắp sáng. Cả hai xúm lại nhìn kỹ. Bên trong dải tua màu xám là một miếng da, có những nét khắc vạch màu đen vẽ đường đi, ghi chú nhiều địa danh, nhưng là chữ gì thì không biết. Nếu bản đồ này đúng là làm từ thời Nguyên Mông, thì đây là chữ Mông Cổ. Năm xưa Sở Ca hoạt động ở biên thùy Quan Ninh, trong quân đội của Viên Sùng Hoán có không ít võ sĩ Mông Cổ căm hận quân Hậu Kim, vì thế Sở Ca biết được một vài chữ Mông Cổ, nhìn thì thấy khác xa những chữ kỳ quái trên hình vẽ này. Tuy nhiên, chữ càng khó hiểu thì bản đồ càng có vẻ là thật. Chắc hẳn người vẽ bản đồ năm xưa đã mang tâm trạng phức tạp, muốn ghi lại vị trí lăng mộ đại hãn cực kỳ quan trọng này, nhưng lại sợ bản đồ lọt vào tay kẻ xấu, chúng sẽ giày xéo lăng mộ... Cho nên người ấy mới dùng thứ văn tự kỳ quái hiếm thấy để ghi chú.
Cả hai không nhận ra điều gì cụ thể bèn nhất trí tạm cất nó vào túi gấm của Vân Lăng. Đợi lấy được nửa còn lại của linh kỳ ở đáy hồ Chiêu Dương thì sẽ bàn tiếp.
Vân Lăng cười, “Bây giờ trong túi gấm của muội đã có báu vật quan trọng, huynh chớ bày kế trá hàng nữa nghe chưa?”
Sở Ca cũng bật cười, “Được! Ta sẽ kiềm chế.”
Hai người khiêng con thuyền nhỏ xuống nước, khua mái chèo đi về hướng Nam. Đã có linh kỳ trong tay, tâm trạng cả hai đều bồi hồi. Vầng trăng chấp chới trên đầu hắt bóng hai người xuống mặt hồ dập dờn mờ ảo. Rào, rào, rào... họ chèo ăn ý, chỉ hiềm, mỗi khi mái chèo khỏa xuống nước thì bóng hai người lại như vỡ vụn thành trăm mảnh.
Cứ thế lẳng lặng chèo một hồi lâu, Vân Lăng đã gắng im lặng nhưng rồi lại là người lên tiếng trước, “Chỗ này khá gần sào huyệt cũ của huynh thì phải? Mỗi lần nhớ đến, muội lại thấy áy náy.”
Sau một thoáng lặng im, Sở Ca hờ hững nói, “Không sao. Muội và ta đều là người giang hồ, bốn biển là nhà. Ta rửa tay gác kiếm quá sớm, chưa trải nghiệm đủ kiếp số của mình. Dù muội không đến tìm ta thì sớm muộn ta cũng buộc phải ra đi. Họa Mi Cư hỗn loạn như thế, ta cứ ngồi mà nhìn sao được?”
Vân Lăng nói, “Còn nhớ đêm hôm đó bỏ chạy, cũng lặng lẽ chèo thuyền như thế này, không hiểu sao muội cảm thấy như mới xảy ra hôm qua mà cũng như từ lâu lắm rồi.”
Quả vậy, kể từ khi Vân Lăng đặt chân vào lều cá, sóng gió lại nổi lên trong đời Sở Ca. Từ một ngư dân ẩn cư nhàn nhã trở về cuộc đời của dân giang hồ, mấy người thân thiết như Ngải Ngải và Tiểu Kiều cũng sống bấp bênh với bao gian khó. Những chuyện này là tại Vân Lăng hay sao? Sở Ca chưa từng tin ở cơ duyên hay tình cờ nên mới dốc sức tính toán mọi đường đi nước bước, y hiểu rằng những sự kiện gần đây phát sinh là điều tất yếu, có liên quan đến quá khứ của mình, thân phận của Ngải Ngải, rồi bí mật mà Viên đốc sư để lại. Và, mối tình dai dẳng của Tiểu Kiều. Cuộc sống bấy lâu có vẻ phẳng lặng, nhưng cũng là những ngày nặng nề. Mấy hôm nay trở lại giang hồ vào sinh ra tử, hiểm nguy luôn rình rập, nhưng lại là những ngày vui sướng nhất trong vài năm qua của y. Ít nhiều y thấy bầu trời rộng mở hơn, giống như năm nào chiến đấu ở biên ải loáng ánh gươm đao, sinh tử chẳng màng, nhưng hào khí lại dâng cao. Có lẽ đều nhờ Vân Lăng.
Nhưng Vân Lăng vẫn là một câu hỏi lớn. Nàng quan tâm đến y, hiểu suy nghĩ của y và hành động rất ăn ý, nàng rơi lệ bên thi thể anh trai, đều là thật. Nhưng vẫn còn nhiều điều y chưa biết. Vân Lăng tìm đến hồ Động Đình như thế nào? Làm sao nàng và Xích Nhiêm Công biết về quá khứ của y? Làm sao nàng có được tai mắt nhạy bén ở kinh thành? Võ công của Vân Lăng v?