← Quay lại trang sách

Chương 31 Tụ nghĩa

Lâm Hưởng khám xét khắp trong ngoài nhà họ Liêu, không phát hiện thấy điều gì đáng ngờ. Phòng ngủ ở giữa, đương nhiên là của lão Liêu cụt chân, trống trải, chỉ có giường, tủ và chiếc ghế gỗ là công cụ di chuyển. Căn phòng nhỏ mà đêm hôm đó Trác Dật Hồng mò vào, chắc là của Liêu Nhất Kiệt, cũng chỉ có vài đồ dùng giản dị. Nghĩ rằng Trác Dật Hồng giao du với các bổ khoái đơn thuần là việc riêng tư, Lâm Hưởng thất vọng, đành trở về quán trọ.

Trong phòng, Y Lạc và Ngải Ngải đều đã cải trang xong, soi gương cười thỏa mãn. Nhìn thấy Lâm Hưởng, Y Lạc mỉm cười, “Ngải Ngải đang sốt ruột đấy!”

Trước đó, cả ba phát hiện trên gờ tường căn phòng có một tờ thiếp, mời tất cả nhân sĩ võ lâm đang có mặt ở Giang Kinh tối nay đến trại Bàn Hổ, núi Huệ Sơn dự tiệc, để cùng bàn về đại sự “kho báu và linh kỳ”. Thiếp không ký tên, cũng không ghi đích danh khách mời, đoán rằng họ gửi cho tất cả khách trọ ở đây.

Lâm Hưởng thấy hào hứng, vốn chỉ là vô tình góp vui, nhưng rồi lại nhận ra đây là cơ hội thám thính quá tốt cho một sai dịch Đông Xưởng. Hai cô gái đồng hành còn phấn khích hơn, riêng Ngải Ngải tỏ ý nhất định phải đến dự, Y Lạc cũng ủng hộ. Lâm Hưởng chỉ còn cách chấp nhận, yêu cầu cả hai phải tuyệt đối nghe lời tay giang hồ lão luyện là mình, khiến Y Lạc phải bật cười.

Cải trang là đương nhiên. Nhưng thân hình Ngải Ngải quá mảnh khảnh khó mà che giấu, Y Lạc đành chi tiền mua một bộ trang phục “bà già” cho cô mặc, và độn bông vải cho phồng lên. Còn Y Lạc, sau khi hóa trang đã có dáng một phụ nữ đứng tuổi với dung mạo trung bình. Y Lạc khoác tay Lâm Hưởng, cả hai sẽ là “một cặp hiệp khách Giang Nam”. Ngải Ngải là mẫu thân của Lâm Hưởng, là Hồ Quảng Thần Ẩu [*] nổi danh giang hồ năm mươi năm qua. Ngải Ngải tay chống gậy, lưng hơi còng, chỉ nói mấy tiếng “Ừ... à...” Chờ mãi, giờ Thân một khắc đã đến, Ngải Ngải chỉ muốn lên đường ngay. Lâm Hưởng dặn dò một lượt, rồi tất cả lên ngựa đi về hướng Bắc tới núi Huệ Sơn.

(ct): * Bà già lừng danh Hồ Quảng.

Trên đường không thiếu nhân sĩ võ lâm đồng hành, ai cũng giắt theo binh khí, xem ra, người ta gửi thiếp mời để giăng lưới vét sạch các cao thủ võ lâm đến Giang Kinh thám hiểm kho báu. Lâm Hưởng hơi lo lắng, nhớ đến một công văn cơ mật của Đông Xưởng mà mình từng đọc. Tài liệu đó phân tích về giới võ lâm hiện nay, sau khi tập hợp thông tin từ các châu phủ, nói rằng đang khi thiên hạ đại loạn, nhiều kẻ hung hăng sinh sự, tin rằng thời thế tạo anh hùng, có người tự dựng cờ nổi dậy, có kẻ tìm đến bọn phỉ đồ đã có thực lực. Được biết, chỉ trong ba năm đã có cả ngàn người gia nhập phỉ quân của Lý Sấm và Trương Hiến Trung, dù ô hợp nhưng khi giao tranh vẫn sức một chọi mười. Ở miền Bắc Trực Lệ, giới võ lâm thấy lũ tóc đuôi sam Mãn Thanh kiêu dũng, càn rỡ xâm nhập biên ải cướp bóc, thế là họ ngầm thông đồng với quân Mông Cổ, thậm chí gia nhập đội ngũ của chúng, điều này thật đáng lo. Còn về phía quân Minh, sau nhiều lần bại trận, thiếu thốn lương thảo, sĩ khí chán nản, ý chí suy sụp, tác phong chẳng còn, khó mà thu hút người tòng quân, nhiều năm nay đều thế cả. Tài liệu đưa ra ý tưởng, Đông Xưởng dùng kế để ngăn chặn giới võ lâm các nơi đang đua nhau tìm đến bọn phỉ phản quốc, góp phần dẹp tai họa, giữ vững cơ nghiệp Đại Minh. Nhưng cớ sao Đông Xưởng không thừa cơ đông đảo nhân sĩ võ lâm tụ tập ở Giang Kinh mà bố trí vây ráp tất cả cho gọn? Có phải đống thiếp mời này là mưu kế của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ nhằm tiêu diệt họ?

Nhưng mối lo lắng nhanh chóng tan biến, vì vừa đặt chân đến Huệ Sơn, Lâm Hưởng liền nhận ra chủ nhân bữa tiệc tối hôm nay không phải Đông Xưởng hay Cẩm Y Vệ. Vào núi rồi, cứ cách nửa dặm lại có hai nam nhân vâm váp đứng chỉ đường cho khách. Họ ăn mặc giản dị, dáng vẻ kiên nghị, chứ không khệnh khạng vênh váo như các hiệu úy và sai dịch bị tiêm nhiễm ở kinh thành nhiều năm. Đi đến chỗ đám đông lao xao tụ tập, Lâm Hưởng mới biết trại Bàn Hổ vốn là sơn trại bỏ hoang lâu năm, không thấy lực lượng nào trấn giữ cũng không có dân đen cư trú, giữa lưng chừng núi là một bãi trống rộng trăm trượng, sau lưng là một số hang núi do sức người đào khoét. Cũng không có bàn ghế hay bệ đá bày rượu thịt và càng không có mỹ nữ múa ca. Một số nhân vật giang hồ nhận ra điều bất ổn, có người hô lên, “Thế này mà gọi là yến tiệc à? Không rượu ngon đã đành, ngay nước uống cũng không! Chúng ta đứng đây làm gì chứ?”

Những tiếng trách móc râm ran khắp chốn, nhưng đám người đứng chỉ đường không tỏ thái độ gì, chỉ nhe răng cười và bảo, “Các vị cứ chờ, ai nỡ để các vị đói bụng...”

Cứ thế đợi chờ, trời dần tối, đã có đến bốn năm trăm người tập hợp ở bãi đất trống, tiếng ồn ào khó chịu càng vang khắp. Bỗng một giọng chắc nịch vang lên, “Đa tạ các vị anh hùng đã chiếu cố, hẳn các vị đã đói bụng, xin mời nhìn hai bên, các huynh đệ đang bưng mâm ra đây.” Đám đông xôn xao, rồi có người hét to, “Là những thứ vớ vẩn gì thế?” “Cho bọn ta ăn thứ này à?”

Nhóm Lâm Hưởng cũng bước lại gần, nhìn một nam nhân đang bưng cái khay sắt đến, trên khay là một mảng vỏ cây to, một đám rễ tựa rơm rạ, một bát nước đục, một cái liềm hoen gỉ.

Người vừa nãy lại nói, “Chắc các vị đã nhìn cả rồi... đừng lo, đây không phải đồ ăn tối nay. Chúng tôi chỉ muốn các vị thấy rằng, đây là những thứ mà dân chúng Trung nguyên hằng ngày nuốt vào bụng để sinh tồn. Hôn quân bất lực cai quản đất nước, mấy năm qua hạn hán không ngớt, dân đói là thế mà chúng vẫn thẳng tay thu đủ các loại sưu thuế, tướng sĩ của Đại Minh chỉ chăm chăm diệt cường đạo, mặc kệ giặc phương Bắc xâm nhập biên giới cướp bóc, nhiều lần bị chúng đánh bại. Tiếp diễn mãi thì dân chúng sống sao đây? Ai trong các vị sẽ không bị liên đới?”

Một số người kêu lên, “Nói những điều này để làm gì?” “Nếu không thế, thì bọn ta đâu cần đi tìm kho báu Bá Nhan?” Những tiếng cười khành khạch vang lên khắp đó đây.

Lâm Hưởng nhìn thấy một nam nhân đứng trên bệ đá cao, người dong dỏng, gầy khô như que củi, đoán rằng đó là một thuộc hạ của Lý Sấm hoặc thuộc hạ của tên phản vương nào đó. Người ấy nói, “Mời các vị lại nhìn thứ này!” Ông ta giơ lên một khẩu hỏa đồng [*] .

(ct): * Súng Etpigon, thuộc nhóm súng sơ khai của con người.

Một người trong đám đông giễu cợt, “Đã nhìn thấy nhiều rồi, chỉ những kẻ vụng về mới dùng cái của nợ ấy!”

Một người khác cười nói, “Bắn một phát, hút một điếu thuốc, lại bắn phát nữa, rồi pha ấm trà!”

Bỗng “đoàng, đoàng, đoàng” ba tiếng nổ vang lên. Đám đông reo lên kinh ngạc. Một con chim ưng rơi từ trên không xuống.

Trong đám đông có người tỏ ra hiểu biết, “Bắn liền ba phát, đúng là chưa từng nghe nói!”

Tiếng “đoàng” dội đi dội lại khắp núi, đám đông bỗng im phăng phắc.

Người cầm khẩu súng thấy ba phát đạn đã chế ngự được đám đông, bèn gật đầu, “Tại hạ là Tô Vong Niên, vốn là đệ tử phái Võ Đang, bấy lâu đi theo Sấm vương, đêm nay mời các vị anh hùng đến để khuyên các vị cùng nhập bọn. Giả sử kho báu Bá Nhan và linh kỳ đại hãn có thật, liệu ai lấy được và có mấy người được chia phần? Chỉ có đi theo Sấm vương giành giang sơn thì các vị mới không uổng phí võ nghệ cao cường và không uổng phí một đời này!”

Có người lên tiếng, “Nghe nói Sấm vương thua trận liên tục, trốn vào núi Thương Lạc không dám ló mặt ra, đi theo ông ta để chịu đòn, có khi tính mạng cũng chẳng giữ được.”

Tô Vong Niên cười nhạt, “Sấm vương đã đánh đến Thiểm Nam, tiến vào Hồ Quảng. Lúc này chắc đã đến Ba Đông tập hợp với Trương Hiến Trung và La Nhữ Tài để cùng chống lại quan binh. Khí thế của nghĩa quân đang dâng cao không gì cản nổi. Và còn có thứ này nữa.” Tay ông ta vỗ vào khẩu súng trong tay, “Lẽ nào đây là thứ vụng về? Trên chiến trường đã có vô số kẻ ăn đạn, ai cũng phải dè chừng. Nếu nói nó vụng về, thì chẳng qua là sau khi bắn một phát thì phải nghỉ để nạp đạn tiếp, tốc độ sát thương hơi chậm. Nhưng gần đây tôi đã về kinh thành mời một đại sư ở xưởng thuốc nổ, rồi cải tiến súng này để bắn liền mấy phát đạn, uy lực tăng lên gấp bội. Đợi một thời gian nữa khi súng đạn của nghĩa quân mạnh hơn hẳn của triều đình, sẽ giá trị hơn kho báu Bá Nhan và linh kỳ mơ hồ kia gấp trăm lần, các vị nghĩ mà xem?”

Đám đông im lặng, ngẫm nghĩ về câu thuyết phục của Tô Vong Niên, mỗi người một dạ, tin hoặc chưa tin.

Tô Vong Niên lại nói, “Đúng là năm nọ Sấm vương bị mưu hại, chỉ mang theo ba mươi sáu binh sĩ chạy vào núi Thương Lạc. Nhưng ngày nay Sấm vương lại hùng mạnh, đang cần các anh hùng hảo hán trợ giúp làm lên đại nghiệp. Nếu lúc này các vị gia nhập thì sẽ là bậc nguyên lão, chứ chờ đến khi năm mươi vạn nghĩa quân đánh khắp Giang Bắc Giang Nam mới xuất hiện để lập công thì chỉ làm tốt đỏ tốt đen, hối không kịp nữa!”

Đám đông hơi xôn xao, có người hỏi “Cách nhập bọn là như thế nào?” hoặc “Có phải nộp đầu danh trạng [*] không...”

(ct): * Đăng ký gia nhập bằng một hành vi chứng tỏ bản thân kiểu liều lĩnh như giết chóc, cướp phá.

Tô Vong Niên cười vang, “Trong đám đông này có mật thám của Đông Xưởng, tại hạ biết, và cũng muốn các vị lôi chúng ra. Nhưng nghĩa quân Sấm vương không phải là thổ phỉ cường đạo cướp bóc. Chỉ cần các vị có tâm thôi. Ai có tâm thì xin mời đứng lên phía trước, chúng ta cùng uống chén rượu thề từ nay là huynh đệ với nhau trong nghĩa quân. Các vị khác không có ý đó thì cũng xin chờ một lát, chúng tôi sẽ mời dùng bữa, chứ không để các vị phải đói bụng.”

Chốc lát, đã có gần trăm người bước đến trước mặt Tô Vong Niên. Y Lạc khẽ nói với Lâm Hưởng, “Phu quân có định làm khai quốc công thần của Sấm vương không?”

Lâm Hưởng nói, “Xin kiếu. Ta chưa đi chinh chiến bao giờ, đang có ý từ bỏ tất cả để về quê an hưởng tuổi già đây.” Miệng đáp, bụng thầm ghi nhớ các sự kiện đêm nay để còn báo về cho Đông Xưởng. Người của Đông Xưởng ở ngay nha môn, sao họ còn chưa hành động? Gã sực nhớ đến Diêu công công đã mất mạng dưới tay mình, tự dưng sống lưng ớn lạnh. Hiếm có chuyện gì trên đời lọt khỏi tầm mắt Đông Xưởng, hiếm có vụ án nào Đông Xưởng không phá nổi, nhất là với cái chết của hoạn quan địa vị cao như Diêu công công. Từ vũ khí, kiếm pháp đến khinh công... mật thám cao siêu của Đông Xưởng sẽ nhận ra. Rồi đây, gã sẽ thế nào?

Mỗi lúc một đông nhân sĩ giang hồ bước đến chỗ Tô Vong Niên, đám thuộc hạ của Lý Sấm tỏ ra vui mừng. Bỗng có tiếng kêu thảm thiết vọng lại, âm thanh lấn át tiếng ồn của đám đông. Các thuộc hạ Lý Sấm đều biến sắc, lập tức giơ binh khí lên. Đám đông xôn xao, rồi xúm lại vây quanh một nam nhân bị thương nằm gục dưới đất.

Tô Vong Niên từ đằng xa tung mình nhảy đến nơi, giẫm lên vai mấy người rồi hạ xuống đất bên cạnh người bị thương, trầm giọng hỏi, “Ngươi... bị ai tấn công thế?”

Người ấy tay ôm ngực, thở hổn hển, “Các vị làm chứng cho... tại hạ là Dư Minh Chi... bị Lý Thi Cốc... phái Thanh Thành đánh...” Máu vẫn tuôn xối xả.

Tô Vong Niên kinh ngạc, “Dư Minh Chi cũng thuộc phái Thanh Thành, sao Lý Thi Cốc lại tấn công đồng môn của mình?” Ông nhìn vết thương, kiếm đâm xuyên ngực, hết đường cứu chữa.

“Trước đó... ở ven hồ, chúng tôi đã... phát hiện ra bản đồ kho báu và linh kỳ... thỏa thuận rằng để tôi tạm giữ...” Dư Minh Chi thều thào nhỏ dần, rồi bỗng ho mạnh, hộc máu tươi, tắt thở.

Tô Vong Niên thở dài, biết rằng một đợt chém giết mới lại bắt đầu, nhưng có khác với đợt trước. Trong vòng hai ngày, Giang Kinh đã xuất hiện nhiều tấm bản đồ kho báu linh kỳ, trông giống hệt nhau, lại có được rất dễ dàng.

Những ai vớ được bản đồ cách đây hai hôm, nếu không biết lặn thì đành vuốt ngực thở dài đứng đợi bên hồ nước, xem ai mò được châu báu thì sẽ tấn công để cướp lại. Một số người biết lặn, nhào xuống nước, khi nổi lên thì đã thành xác chết. Một số người khôn ngoan hơn, kết thành nhóm cùng lặn xuống, kết cục cũng chẳng khác gì.

Các công sai phủ Giang Kinh điều tra không xuể, vì riêng việc vớt xác xử lý cũng đủ mệt rồi. Lâm Hưởng vốn trầm tĩnh chín chắn, chưa từng có hứng thám sát kho báu, chưa kể vụ tìm kho báu rõ ràng là tự tìm đến cái chết, tuyệt đối không thể dính vào, dù thế gã vẫn cảm thấy bất an. Trong thành có đủ mặt cao thủ Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ, sao họ không ra giữ gìn trị an? Chẳng lẽ không phải chức trách của họ?

Từ lúc đến Giang Kinh, ngày nào Ngải Ngải cũng nài nỉ Lâm Hưởng và Y Lạc đưa cô đi tìm Sở Ca. Định bụng gặp được y rồi, cô sẽ lập tức giã biệt cái chốn thị phi này. Nhưng không thấy bóng dáng Sở Ca đâu cả. Cơ hội giáp mặt nhau, hoặc đã lỡ mất hoặc là chưa đến.

Lại một ngày nữa trôi qua. Cả quán trọ bỗng ồn ào, tin tức bay đến, Xuyên Sơn Bang ở đất Thục vốn lành nghề đục hang khoét núi, mấy hôm nay đang âm thầm đào một địa đạo ở mép đảo Hồ Tâm. Họ đào xuống tận đáy hồ Chiêu Dương, thông đến vị trí kho báu mà bản đồ chỉ dẫn.

Lâm Hưởng theo đám đông lên một thuyền đánh cá chở thuê, đến đảo Hồ Tâm xem sao. Mạn Đông Bắc hòn đảo có một cái hốc to, tảng đá lớn bám đầy dây leo dùng làm bình phong đã bị dịch sang bên, đất đào đường ngầm được xúc lên, chất đống ngay gần đó. Nhiều kẻ giang hồ cầm cuốc xẻng búa... lần lượt chui xuống dưới cái hốc để “trợ giúp”. Người của Xuyên Sơn Bang rất khó chịu nhưng cũng không biết làm thế nào, vì đối phương quá đông, mà cũng không dám lý sự “địa đạo này là do bọn ta đào”, đành tỏ vẻ thân thiện chào đón các “hiền sĩ”, những mong đào cho nhanh để tìm ra kho báu rồi chia phần cho xong chuyện. Lâm Hưởng không có ý trợ giúp bọn họ, gã chỉ nhận ra tình hình Giang Kinh ngày càng quái dị.

Lên thuyền trở về thành, nhìn mặt hồ mênh mông, bờ cách đây không xa, Lâm Hưởng không biết nên hành động thế nào nữa? Tiếp tục làm sai dịch Đông Xưởng, hay là khuyên Ngải Ngải rời Giang Kinh xong, gã sẽ bỏ đi biệt tích? Một con cò đang vỗ cánh chấp chới trên mặt hồ, Lâm Hưởng hoa mắt, cảm thấy như con cáo bạc vẫn gặp trong mơ đang dẫn mình chạy theo.

Đang mải nghĩ ngợi, Lâm Hưởng không để ý thấy bờ hồ bên kia có hai người trẻ tuổi đang đứng trong gió lạnh, cau mày nhìn thuyền bè lớn nhỏ ngược xuôi qua lại trên mặt hồ. Một người lông mày lưỡi mác, mắt sâu, nước da nâu bóng, vóc dáng cao lớn. Người còn lại khuôn mặt sáng sủa, vóc dáng mảnh khảnh, lưng đeo túi gấm dài.