Chương 3 Dồn dập
Không khí lạnh tràn về, mưa liên tục ba ngày, cả bồn địa Đài Bắc như bị ngâm trong nước. Ngô Sĩ Thịnh ngồi trên chiếc xe chở thi thể đen bóng, phía sau là tủ đông cất giữ thi thể Quách Tương Oánh, bên trên có phủ vải lụa mỏng màu vàng kim.
Chỉ còn một tiếng nữa là đến giờ bắt đầu lễ viếng theo dự kiến, nhưng đoàn xe tang vẫn kẹt cứng giữa dòng xe đi làm trên đường trên cao Kiến Quốc. Ngô Sĩ Thịnh quay đầu, quan sát Ngô Thịnh Phàm qua kính chắn gió ở đằng sau xe. Chiếc NISSAN LIVINA màu đen mà em gã mượn bạn theo sát phía sau. Bố gã ngồi ở ghế lái phụ, qua tấm phim cách nhiệt sẫm màu vẫn có thể cảm nhận được ánh mắt sắc bén của ông.
Cuối cùng, Ngô Sĩ Thịnh vẫn không thể chấp nhận để Quách Tương Oánh bị mổ xẻ.
Căn cứ vào giấy khám nghiệm tử thi do Viện Kiểm sát quận Sĩ Lâm phê duyệt cấp cho, kiểm tra bên ngoài, đo nồng độ cồn, xét nghiệm máu và lấy mẫu tử thi đều không thấy có gì khác thường, nên loại trừ mối nghi bị giết. Ý kiến của bác sĩ pháp y là, rất khó để đưa ra kết luận về độ dẻo của cơ thể người, nếu gặp phải tình huống đặc biệt, dưới sự sợ hãi cực độ, con người có thể làm những động tác vượt quá phạm vi hoạt động của khớp xương, ví dụ như trật khớp vai để tránh nguy hiểm, hoặc là xoay đốt sống cổ sang trái phải hơn một trăm tám mươi độ.
Mặc dù Ngô Sĩ Thịnh nghe không hiểu lắm, nhưng từ giọng điệu của bác sĩ pháp y, gã cũng nghe ra được rằng trạng thái chết của Quách Tương Oánh hơi lạ lùng. Huống hồ, bác sĩ pháp y không hề biết nỗi “sợ hãi cực độ” mà Quách Tương Oánh gặp phải là gì. Đầu tiên là nhảy lầu từ một lỗ thủng trên cửa sổ sắt mà ngay cả cơ thể trẻ con cũng không lọt qua được, sau đó là tự làm mình chết ngạt bằng một cách vượt quá giới hạn thể chất. Chỉ có một cách giải thích cho hành vi bất thường của Quách Tương Oánh - đó chính là Minako. Nhưng bác sĩ pháp y hiển nhiên cho rằng, con người có thể bị chính ảo giác của mình dọa chết, tuy không nói rõ, nhưng ông ta tin, dù hồn ma có tồn tại thì cũng tuyệt đối không hại người.
Ngô Sĩ Thịnh biết mình không thể cầu cứu một cách mù quáng như Quách Tương Oánh làm lúc đầu, vấn đề là, gã cũng giống Quách Tương Oánh, không có bất kỳ bằng chứng nào có thể chứng minh sự tồn tại của Minako, chưa kể trước giờ gã không hề nghe thấy “giọng nói đó”.
Sau khi đi qua nhà thi đấu Đại học Quốc gia Đài Loan, từ nút giao cho đến đường Tân Hợi, xe cộ bắt đầu thưa, tốc độ đã nhanh hơn. Trong vòng năm phút, Ngô Sĩ Thịnh đã nhìn thấy hầm Tân Hợi nổi tiếng, và đã đến nhà tang lễ số hai của thành phố Đài Bắc.
Mưa càng lúc càng lớn, nhưng dòng người vẫn đông nghịt.
Xe dừng ở phòng tưởng niệm gần đai hỏa táng nhất để Ngô Sĩ Thịnh xuống xe, sau đó nhân viên nhận thi hài do công ty tang lễ cử đến sẽ giúp di chuyển quan tài. Ngô Sĩ Thịnh đứng ở lối vào, từ xa nhìn Ngô Thịnh Phàm và bố từ bãi đỗ xe cầm ô đi tới.
“Còn không mau đi kiểm tra linh đường.” Câu đầu tiên của bố gã đầy vẻ giận dữ.
Ngô Sĩ Thịnh bước vào phòng tưởng niệm, từ cái nhìn đầu tiên gã đã thấy một bức chân dung phóng to mười lăm inch, bao quanh là cả núi hoa tươi tạo hình theo kiểu Nhật. Khuôn mặt già nua gã đã nhìn suốt mấy chục năm, nay lại được treo ở một nơi xa xôi như thế. Vòng hoa, câu đối phúng viếng và cờ phướn nhà Phật được bày ở hai bên tường, khiến phòng tưởng niệm chỉ có thể chứa ba mươi người càng chật chội hơn trông thấy. Có điều, ban đầu công ty tang lễ đề xuất chọn phòng hạng tư nhỏ nhất, chính vì không gian cho ba mươi người như này là đủ rồi. Vợ chồng gã bình thường gần như không có bạn bè qua lại, bạn học thời phổ thông cũng đã mất liên lạc từ lâu, ngoài người nhà ra, e là chẳng có ai tới tham dự lễ viếng Quách Tương Oánh.
Vừa thấy Ngô Sĩ Thịnh bước vào, Quách Thần San lập tức lao tới, giao cho gã một đống áo tang đen.
“Thay đồ mau lên, sắp đến giờ rồi.”
Ngô Sĩ Thịnh nghe lời nhận lấy áo tang đen. Kể ra thì, những việc lặt vặt này đều do một tay Quách Thần San lo hết, chị ta bỏ tiền bỏ sức, thống nhất hình thức và thời gian với công ty tang lễ, thậm chí còn giúp đối phó với người của đơn vị phân công thuộc Công ty bách hóa, người của Công ty phái cử và người nhà nạn nhân, ngay cả khoản bồi thường cũng đã giải quyết xong - Công ty phái cử và trung tâm thương mại cùng nhau chịu một nửa, Quách Thần San sẽ trả toàn bộ nửa còn lại. Ngô Sĩ Thịnh chỉ cần phụ trách chi phí nằm viện của Quách Tương Oánh.
Ngô Sĩ Thịnh dặn bố và Ngô Thịnh Phàm mặc áo tang, rồi ra phía sau linh đường để chuẩn bị làm lễ nhập liệm.
Chuyên viên trang điểm tử thi đã trang điểm cho khuôn mặt của Quách Tương Oánh không còn vẻ sợ hãi nữa. Sau khi thỉnh bài vị, dời thi thể và ký tên xong, trưởng ban tang lễ chỉ đạo các thợ đặt quan tài, thợ nhập liệm và thợ đóng nắp quan tài đem thi thể Quách Tương Oánh đặt vào trong quan tài thân thiện môi trường với lớp quách bằng gỗ tử đàn bọc ở bên ngoài, rồi lại đặt quần áo bồi táng, vàng mã nhập liệm, vải liệm hoa sen, tiền âm phủ tùy thân vào trong. Thầy cúng bắt đầu tụng kinh, mọi người tùy theo tiếng tụng kinh mà cao giọng hô “có”, sau đó đặt tiền lộc [*] .
Các nghi lễ như gia viếng, tụng kinh, khách viếng do trưởng ban tang lễ chỉ đạo lần lượt kết thúc, Ngô Sĩ Thịnh ở bên cạnh xem nghi thức đóng quan tài, dập đầu ba lạy, đúng lúc đó gã thẫn thờ nhớ ra, đây là lần cuối cùng được nhìn Quách Tương Oánh.
Còn cô con gái vẫn không về.
Theo lời Quách Thần San, thông qua các mối quan hệ của mình, chị ta đã nhờ cảnh sát giúp đỡ nhưng vẫn không tìm thấy Ngô Tuệ Đình ở đâu cả, tất nhiên cũng không thể báo tin Quách Tương Oánh qua đời cho con bé. Ngô Sĩ Thịnh từng định loan tin tìm người thông qua các phương tiện truyền thông, nhưng bị Quách Thần San phản đối, lý do là “đừng vạch áo cho người xem lưng”. Ngô Sĩ Thịnh thầm nghĩ, đối với Quách Thần San thì mình cũng là cái “lưng” ấy. Nhìn em trai Quách Tương Oánh mặc com lê cao cấp, tay cầm búa vào làm lễ đóng đinh, cảm giác ấy lại càng mãnh liệt hơn.
Cả đời này phải bị loại người này giẫm lên à?
Ngô Sĩ Thịnh cùng toàn bộ người nhà đi vòng quanh quan tài, sau ba vòng, nhân viên dời linh cữu chuyển quan tài đến vị trí đã định, rồi thầy tu dẫn mọi người hộ tống linh cữu đến đài hỏa táng, đưa Quách Tương Oánh đi nốt đoạn đường cuối cùng trong cuộc đời.
Thời gian hỏa táng mất chừng một tiếng rưỡi, trong khoảng thời gian này, mọi người có thể đi ăn trưa, nghỉ ngơi rồi quay lại lấy tro cốt sau. Nhưng Ngô Sĩ Thịnh nhìn thấy nhóm Quách Thần San đã tự bỏ đi, hoàn toàn không có ý định dùng bữa cùng nhau. Gã nghĩ lại, cảm thấy thế này cũng tốt, không cần phải nghe những lời lạnh lùng của họ, có thể ăn một bữa ngon lành.
“Anh Ngô!”
Trước khi lên xe, một giọng nói quen thuộc truyền đến. Hóa ra là ông Lâm, giám đốc nhân sự của công ty phái cử.
Ông ta có đến dâng hương à? Sao vừa nãy không nhìn thấy.
Ban nãy Ngô Sĩ Thịnh đã đặc biệt để ý xem có đồng nghiệp hoặc quản lý của Quách Tương Oánh đến dâng hương phúng viếng không, nhưng không có; cho dù là quản lý Quách của công ty bách hóa mà cô ấy thường nhắc đến, hay người của công ty phái cử, nên gã mới cảm thấy bực bội.
Có điều, khi Ngô Sĩ Thịnh quay đầu lại nhìn, mới phát hiện biểu cảm của em trai và bố trông chẳng có vẻ gì là bất ngờ cả, vậy thì nhất định gã đã lơ đãng trong lúc đón khách viếng rồi.
Ông Lâm xách một túi quà trái cây, mặc kệ Ngô Sĩ Thịnh phản đối, nhét ngay vào trong xe.
“Chút lòng thành ấy mà, anh đừng khách sáo.”
“Cảm ơn.”
“Vậy, khoản bồi thường không vấn đề chứ?”
Dưới cái nhìn chòng chọc của Ngô Thịnh Phàm, Ngô Sĩ Thịnh miễn cưỡng gật đầu. Vì “khoản bồi thường” mà ông Lâm nhắc đến, là sách nhiễu riêng của chồng bị hại. Không rõ đối phương biết được nội dung của biên bản khám nghiệm tử thi từ chỗ tay cớm nào mà lại nói rằng Quách Tương Oánh đã bị đánh trước khi chết, tuyến tụy có dấu vết bị vỡ, lấy đó uy hiếp Ngô Sĩ Thịnh. Vốn dĩ Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy đối phương cố ý bới bèo ra bọ, hôm đó bọn họ cậy người đông làm ầm ĩ, nhưng lại bị mình cự lại, nhất định là ôm hận trong lòng, muốn tìm cơ hội trả thù. Nhưng Ngô Thịnh Phàm cho rằng vì nhõn năm mươi nghìn mà lấy cứng chọi cứng thì có thể khiến cả hai cùng thiệt, thôi cứ bồi thường cho xong chuyện, đỡ phiền phức.
“Thật là ngại quá, vị ấy thực sự rất khó nói chuyện, khăng khăng đòi đích thân anh trả tiền.”
“Không sao.”
“Thật sự xin lỗi, hy vọng anh nén đau gắng sống.”
Ông Lâm cúi mình chào Ngô Sĩ Thịnh, rồi quay sang chào Ngô Thịnh Phàm và ông bố, sau đó cáo lui.
Lúc họ lái xe rời khỏi đài hỏa táng, Ngô Sĩ Thịnh ngẩng đầu nhìn qua cửa sổ xe, thấy ống khói của đài hòa táng đang nhả sương xám, làm gã liên tưởng rằng linh hồn của Quách Tương Oánh đã hóa thành bụi màu trắng bạc, từ từ bay đến tận chân trời.
Hy vọng em có thể sống tốt ở đó.
Giờ Ngô Sĩ Thịnh mới để ý thấy, cơn mưa tầm tã suốt ba ngày cuối cùng cũng đã tạnh rồi.
A Phần không thể xem nhẹ những cử chỉ quái dị của Tư Tư.
Nguyên nhân cái chết của Quách Tương Oánh giống như một cơn động đất, làm tất cả nhân viên y tế phục vụ trong phòng bệnh tâm thần chấn động, và dấy lên các cuộc tranh luận kịch liệt trong buổi họp sáng. Cuối cùng theo chủ trương của chủ nhiệm khoa, mọi người đi đến thống nhất phải phong tỏa tin tức triệt để, tránh báo đài làm to chuyện. Ngoại trừ người nhà có liên quan, bất kỳ ai tự xưng có quan hệ với người đã khuất đều phải giấu nhẹm. Còn nữa, bệnh nhân trong phòng bệnh tự tử bằng cách bất thường, đây quả là một sai sót tương đối nghiêm trọng, vì thế, chủ nhiệm khoa thậm chí còn được viện trưởng quan tâm sâu sắc, phải viết một bản báo cáo điều tra gửi lên viện kiểm sát địa phương để thẩm tra. May mà cánh phóng viên truyền thông không nhận ra tình trạng bất thường, nếu không hậu quả sẽ khó bề tưởng tượng.
Sau khi kiểm tra phòng xong, A Phần phát hiện tinh thần của Tư Tư khác với bình thường, trở nên trầm lặng ít nói, thỉnh thoảng còn kêu mấy tiếng kỳ quái, bác sĩ chủ trị thậm chí đã tăng liều thuốc, cho nên A Phần có lý khi nghi ngờ Tư Tư tâm thần bất an vì bạn cùng phòng chết.
Sau khi bị A Phần hỏi đi hỏi lại, cuối cùng Tư Tư cũng nói ra một câu có thể hiểu được.
“ Wun ... Tôi không cứu cô ấy... ni ... Cô ấy sắp tới tìm tôi rồi... damuning !”
Tư Tư lặp lại câu “cô ấy sắp tới tìm tôi rồi” với vẻ mặt méo mó, môi dưới sắp bị chính cổ cắn nát.
“Chuyện là thế nào? Cô nói rõ hơn một chút đi!”
“Tôi nghe thấy tiếng của cô ấy... Đáng sợ lắm!”
Tư Tư đột nhiên giật mạnh tóc mình.
“Tiếng của ai?”
Ban đầu A Phần cho rằng chắc chắn Tư Tư đã xuất hiện triệu chứng ảo giác thính giác, nên mới báo cáo với bác sĩ chủ trị, nhưng sau khi uống thuốc, triệu chứng của Tư Tư vẫn không thuyên giảm. A Phần càng khó hiểu hơn là, Tư Tư lại nói rằng mình nghe thấy tiếng của Quách Tương Oánh đã qua đời từ giường bệnh bên cạnh truyền đến.
“Cô nghe nhầm phải không? Sao cô ấy có thể...?”
“Là thật đấy... wun ... Oung-dung ... Cô ấy sắp tới rồi!”
Dù A Phần có vỗ về thế nào, Tư Tư cũng không bình tĩnh lại được, tiếng kêu gào kỳ quái của cô đã khiến các bệnh nhân khác bất an. Sau khi thảo luận tập thể, họ quyết định tạm thời dời Tư Tư đến phòng bảo hộ.
Phòng bảo hộ tức là “phòng giam lỏng”, cái tên phổ biến dưới sự bêu xấu của giới truyền thông. Nhưng thực ra, sở dĩ phòng bảo hộ có tên như vậy vì đây là nơi bảo hộ bệnh nhân theo chỉ đạo của bác sĩ, thực hiện trói hai tay và giám sát cách ly trong thời gian ngắn, để tránh hành vi bạo lực của bệnh nhân làm hại đến chính mình hoặc người khác, chứ không hề cực đoan như những gì báo đài hay phim ảnh sân khấu thổi phồng.
Có điều, việc chuyển Tư Tư khỏi phòng bệnh ở đã lâu lại khiến tâm trạng của cô càng thêm kích động. Cô không ngừng gào thét với nhân viên y tế bằng tiếng phổ thông bập bõm: “Đó là nhà của tôi! Các người dựa vào cái gì!” Giọng to đến mức cách hai lớp cửa vẫn nghe thấy. Về sau hết cách, đành phải tiêm một mũi an thần để Tư Tư ngủ.
Bệnh tình Tư Tư chuyển biến dữ dội đã dẫn đến cuộc thảo luận sôi nổi giữa các điều dưỡng, cũng làm kinh động đến điều dưỡng trưởng. Điều dưỡng trưởng nhẹ nhàng kéo A Phần qua một bên, hỏi han tình hình của Tư Tư:
“Sao đột nhiên cô ấy thành ra như vậy?”
“Cô ấy nói mình nghe thấy... tiếng của cô Quách”
“Cô Quách? Là người chết... Ờm... Là bệnh nhân đó?”
Điều dưỡng trưởng nói được một nửa, nhận ra mình không nên dùng cách nói trực tiếp như vậy, bèn đưa mắt về phía phòng bệnh của Tư Tư.
“Vâng.”
“Sao có thể như vậy được?”
“Cháu cũng cảm thấy rất kỳ lạ, nhưng cô ấy kiên định lắm.”
“Là vậy à... Có điều chuyện này dừng ở đây thôi đã, bất kể Tư Tư nói gì, cháu cũng không được tùy tiện kể cho người khác, đợi qua cơn sóng gió rồi hãy nói tiếp.”
A Phần khẽ gật đầu, mãi đến khi điều dưỡng trưởng quay lưng bước vào văn phòng phía trong phòng Điều dưỡng, cô mới dám thở hắt ra. Có điều, cô lại phát hiện cán bộ công tác xã hội Hồ Duệ Diệc có mặt trong cuộc họp sáng cứ đứng mãi ở hành lang của phòng Bảo hộ, mặt mày nghiêm trọng, dường như đang nghiêng tai lắng nghe tiếng kêu gào của Tư Tư. Cô bèn rời phòng Điều dưỡng, đi đến bên cạnh Hồ Duệ Diệc, thăm dò:
“Cô ấy đột nhiên thành ra thế này, thật là đau đầu.”
“Tôi nghe thấy cô ấy liên tục nói... hai từ masamuan và hanitu .”
“Ô? Cô nghe hiểu được tiếng của người bản địa ạ?”
“Chỉ nghe hiểu được tiếng Bố Nông thôi. Trước đây tôi từng ở quỹ phúc lợi Lệ Hinh, có hỗ trợ cho một cô gái người Bố Nông.”
“Lệ Hinh?”
Hồ Duệ Diệc để ý thấy vẻ mặt ngạc nhiên của A Phần, tiện thể giải thích luôn.
“Chính là cái cháu nghĩ đó. Cháu không biết trước đây Tư Tư từng là trẻ mại dâm à?”
A Phần kinh ngạc đến rớt cả hàm.
“Không, người tôi hỗ trợ không phải Tư Tư, chỉ là tôi biết rất nhiều trẻ mại dâm người bản địa cuối cùng phải vào hệ thống chăm sóc tinh thần, cho nên đặc biệt quan tâm đến tình trạng của Tư Tư.”
“Cháu nhớ trong hồ sơ bệnh án chỉ viết rằng, Tư Tư từng là lao động trẻ em và gái mại dâm, chứ không biết là trẻ mại dâm...”
“Tư Tư hồi mười hai tuổi bị cò lừa đến nhà thổ, làm việc ở đó hai mươi hai năm.”
A Phần nhẩm tính, Tư Tư năm nay ba mươi chín tuổi, rời nhà thổ lúc ba mươi tư tuổi, tức là cô đã sống quanh quẩn trong phòng bệnh tâm thần này gần năm năm rồi.
“Vậy còn bố mẹ của cô ấy...”
“Người bộ tộc đó đều rất đơn thuần, vả lại bọn cò biết những gia đình nào kinh tế khó khăn, ngon ngọt mấy lời là câu được họ rồi. Có nhà cả tám cô con gái đều bị bán vào nhà thổ.”
“Trời ơi...” A Phần cảm thấy không thể tin nổi.
“Những cô gái này vẫn cho đó là sự sắp đặt của bố mẹ, nên cứ mãi âm thầm chịu đựng. Bố mẹ họ cũng cảm thấy như thế quá lời, một năm có thể được cầm năm mươi nghìn, nên gia hạn liên tục, thậm chí còn vì thiếu tiền mà bán đứt con gái. Nhưng trên thực tế, tú bà hoàn toàn có thể kiếm lại số tiền này trong một tháng, vì có thể hét giá mua trinh trẻ mại dâm tới một trăm nghìn.”
“Ôi...”
“Cháu cảm thấy ghê tởm là bình thường, hồi đầu cô cũng thế. Có điều, cũng không phải tất cả các cô gái đều một lòng muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó, có một số người vì sinh tồn, bắt đầu có ý thức cạnh tranh, thậm chí còn thích nhà thổ, vì luật chơi ở bên trong tương đối đơn giản, chỉ cần làm đàn ông hài lòng thì chủ sẽ thưởng; trái lại, ở trong các gia đình bộ lạc, thái độ của bố mẹ khiến họ thường không biết phải làm thế nào mới đúng.”
“Nhưng mà... Cháu nghe nói làm công việc này, ngay cả khi đến tháng cũng phải tiếp khách...”
“Đúng vậy, nhét tampon, làm việc mười sáu tiếng như bình thường, tiếp một khách chỉ kiếm được mười đồng”
“Như thế mà vẫn không muốn trốn sao?”
“Có lẽ vì họ không cách nào hòa nhập với trường học và xã hội.”
Hồ Duệ Diệc nhớ đến cô gái người Bố Nông tên Buni năm đó. Năm Dân quốc thứ 66 (1977) chị thi đỗ vào khoa Xã hội học của Đại học Đông Ngô, vì đam mê nên đã điền tên vào tổ công tác xã hội. Sau khi tốt nghiệp chị đảm nhiệm công tác xã hội với hình thức không có tài trợ khu phố, làm trong tám năm. Cuối cùng chị quyết định chuyển công tác, vì tiếp xúc với tình nguyện viên của quỹ phúc lợi Lệ Hinh. Bị người nọ ra sức thuyết phục, qua một cuộc phỏng vấn việc làm, chị đã gia nhập quỹ phúc lợi Lệ Hinh mới thành lập chưa lâu, đảm nhiệm vị trí nhân viên hỗ trợ trẻ mại dâm, trong số hơn ba mươi hồ sơ được thu nhận một năm thì quá nửa là dân bản địa. Vì là dân ngoại tỉnh thế hệ thứ hai, không những không quen biết giới quyền chức mà còn bị xã hội bài xích kỳ thị, từng trải qua một giai đoạn thích nghi không tốt, nên chị rất đồng cảm với những cô gái gặp hoạn nạn này, luôn giúp đỡ họ hết lòng hết sức, thậm chí sẵn sàng đợi lệnh 24/24.
Có điều, thái độ phản kháng của Buni khiến chị bắt đầu hoài nghi bản thân.
Chị nhớ rất rõ, hôm đó là ngày mười bốn tháng Mười một năm 1982, Lệ Hinh phát động hoạt động “Mười nghìn người chạy bộ trên phố Hoa Tây phản đối nạn mại dâm trẻ em”, không ít người của công chúng và quan chức chính phủ hưởng ứng, tham dự, động viên mười lăm nghìn người chạy bộ trên đường phố. Nào ngờ, đáng lẽ đó là một bữa tiệc lớn tràn đầy hy vọng và năng lượng, nhưng lòng nhiệt tình của chị lại bị một câu nói của Buni dập tắt.
“ Taimangaz (một lũ ngu ngốc).”
Chị nhớ mãi vẻ mặt của Buni lúc đó - môi nhếch lên, ánh mắt lộ vẻ khinh thường, dường như đang nói với chị rằng: Thiện ý trong những việc chị làm toàn là tự cho mình là đúng, người chịu khổ vẫn là chúng tôi, các chị chỉ đang lợi dụng nỗi đau khổ của chúng tôi để trông mình có vẻ cao hơn người khác một bậc mà thôi.
Kể từ đó, câu nói của Buni như một hạt giống được gieo vào lòng Hồ Duệ Diệc. Theo thời gian, hạt giống này phát triển thành cây lớn, cái chết của Buni đã trở thành chiếc rìu khổng lồ chặt đổ cây lớn đó. Chị bèn rời khỏi Lệ Hinh ngay trước khi bước vào hàng ngũ lãnh đạo, toàn tâm toàn ý gắng nâng cao kỹ năng chuyên môn, mong có thể cải thiện cuộc đời của các ca bệnh về mặt tinh thần. Thông qua sự giới thiệu của bạn bè, lại là con của cựu chiến binh, chị đã chọn bệnh viện Cựu chiến binh Đài Bắc làm trạm dừng chân tiếp theo trong cuộc đời công tác xã hội, tích cực tham gia các hội liên hiệp y tế địa phương và nhóm công tác, luôn cố gắng chủ động trong công việc, khai thác các nguồn lực cho bệnh nhân. Vì kinh tế đi lên, việc điều trị tâm thần dần được xã hội coi trọng, chị cũng đạt được cảm giác thành công mà trước đây chưa từng có trong công việc.
“Không có cách nào hòa nhập với xã hội ạ... Vì vậy sau này cô gái thích nhà thổ đó không bỏ đi sao?”
“Cô ấy đã chết trong trận bão Đào Chi.”
“Chết rồi ạ?”
“Tôi xem tin thấy ở núi Nam Đầu nước lũ dâng cao, những mảnh vật liệu nhà cửa và thi thể ngâm trong nước sống liền nhớ ngay đến cô ấy. Nhà cô ấy ở bộ lạc Đông Phố của xã Tín Nghĩa”
“Cô ấy về nhà đúng lúc đó sao?”
“Ừ, trạng thái tinh thần của cô ấy lúc đó đã không ổn lắm. Sau khi đường 21 được thông, tôi cùng người trong quỹ từ lòng sông đi tắt vào vùng thiên tai để hỗ trợ, thảm lắm, rất nhiều thi thể cảnh tượng cả đời tôi không thể nào quên.”
“Cô tìm thấy cô ấy không ạ?”
“Có, may mà tìm thấy xác. Lúc đó rất nhiều người bị đất đá vùi lấp, có thể tìm thấy đa là trong cái rủi có cái may rồi.”
Nghe Hồ Duệ Diệc nói vậy, A Phần vô thức nhìn về phía phòng bảo hộ.
“Cháu không sao tưởng tượng được đó là cuộc sống như thế nào.”
“Tôi từng nghe một câu rằng: “Những cô gái ấy không phải đang tìm đường ra, mà là đang tìm đường sống. Không tự mình trải qua thì rất khó có thể tưởng tượng suông được.”
“Vậy hai từ mà Tư Tư nói nghĩa là gì hả cô?”
“ Masamuan nghĩa là chốn chẳng lành, còn hanitu là tín ngưỡng linh hồn của tộc Bố Nông, theo cách nói của chúng ta thì chính là ma.”
Ngô Sĩ Thịnh nằm trên chiếc giường mà nay đã trở nên quá rộng, trằn trọc cả đêm.
Rõ ràng bận rộn cả ngày, sau khi ăn tối rồi về nhà, toàn thân gã như bị rút cạn sức lực, nằm liệt trên giường, nhắm mắt nhưng lại không ngủ được. Tấm ảnh mười lăm inch của Quách Tương Oánh đã in sâu vào võng mạc gã, nhắm mắt lại là có thể nhìn thấy. Vợ gã nhếch môi, ánh mắt tỏa ra nét cười, mái tóc còn được qua tay thẩm mỹ viện, trông rất bồng bềnh. Nó được chụp khi nào nhỉ? Ngô Sĩ Thịnh không sao nhớ nổi. Gã chẳng nhớ bất cứ khoảnh khắc vui vẻ nào của hai vợ chồng cả.
Bức ảnh ít nhất cũng phải từ hơn ba năm trước?
Nếu vẫn còn tâm trạng để đi chụp ảnh chân dung thì chắc chắn lúc đó kinh tế gia đình vẫn khá. Ngô Sĩ Thịnh còn tưởng rằng đã vứt sạch những thứ đó từ lâu rồi, vì chỉ cần nhìn thấy chúng là tâm trạng gã sẽ tệ không gì bằng. Những bức ảnh vui vẻ kiểu này dường như nhắc nhở gã rằng: Nhìn lại mình xem mày thảm hại thế nào. Lúc tìm thấy nó trong ngăn kéo của tủ trang điểm, Ngô Sĩ Thịnh thậm chí còn sững sờ mấy phút mới hoàn hồn, nhận ra bức ảnh chân dung này đại diện cho giai đoạn tuyệt vời nhất trong cuộc đời Quách Tương Oánh, cứ như thể chính Quách Tương Oánh đã để dành riêng nó cho đám ma vậy.
Đằng nào cũng không ngủ được, thôi thì cứ đến trạm nghỉ Kiến Quốc đợi cuốc cái đã.
Ngô Sĩ Thịnh đứng dậy, bỗng nhiên nhớ đến chiếc xe biển trắng đó. Dồn dập công việc lo tang lễ đã làm gã quên béng chuyện này. Gã chộp lấy chìa khóa xe, phóng về phía trung tâm thành phố trong ánh bình minh.
Gã mở bộ đàm trên xe, điều chỉnh tần số, chiếc micro được gắn cố định trên táp lô lập tức phát ra tạp âm rè rè xẹt xẹt, màn hình LCD nhấp nháy theo tiếng động, thường xen lẫn tiếng Đài và tiếng chửi bậy, thỉnh thoảng có giọng ồn à ỏn ẻn của các nàng “Tây Thi bán trầu” [*] , nhưng cơ bản vẫn là tiếng báo cáo tình hình giao thông, cũng giống như xe du lịch và xe tải. Nghiêm túc mà nói, chưa có giấy phép mà đã sử dụng bộ đàm trạm nghiệp dư là hành vi phạm pháp, nhưng để tiện cho công việc, ngành giao thông vận tải là trường hợp ngoại lệ. Sở dĩ chính phủ coi trọng các biện pháp quản lý đặc biệt đối với xe taxi, chủ yếu là để ngăn chặn cánh tài xế taxi tụ tập gây rối, có điều cùng với sự thay đổi của thời đại, một số tài xế bắt đầu dùng trực tiếp phần mềm trên điện thoại để thay cho bộ đàm.
“Đường trên cao Tân Sinh không nhiều xe.”
Ngô Sĩ Thịnh cầm lấy micro, sau khi trả lời qua loa, gã hỏi chuyện về chiếc xe biển trắng.
“Có ai biết chiếc xe biển trắng ở trong trạm nghỉ là của ai không?”
Sau vài phút nghe đủ các cuộc trò chuyện khác nhau, cuối cùng cũng có một giọng nói khàn khàn trả lời câu hỏi của Ngô Sĩ Thịnh.
“Không biết tên, nhưng tôi từng nhìn thấy hắn. Một gã ngoại tỉnh.”
“Anh biết hắn đang ở đâu không?”
“Sao tôi biết được.”
“Cũng phải.”
Ngô Sĩ Thịnh thầm nghĩ, tay tài xế biển trắng đó đến tám phần là độc lai độc vãng, người ngoại tỉnh hầu như đều có đặc tính tách biệt với xã hội. Nếu không có thông tin khác về chiếc xe đó, e là sẽ đứt manh mối đây.
Nghĩ vậy, gã liền rẽ vào trạm nghỉ taxi Kiến Quốc ở dưới cầu vượt, nhìn chằm chằm chiếc xe biển trắng đó.
May mắn thay, chỗ đỗ bên cạnh nó lại đang trống.
Ngô Sĩ Thịnh nhanh nhẹn lùi xe, đỗ vào chỗ trống bên cạnh chiếc xe biển trắng.
Nhìn qua lớp kính cửa sổ ô tô đây bụi, mọi thứ vẫn nguyên vị trí cũ, xem ra trong khoảng thời gian này tay ngoại tỉnh đó vẫn chưa quay lại. Ngô Sĩ Thịnh kéo cửa xe ngồi vào ghế lái, việc đầu tiên là kiểm tra xem có giấy phép hành nghề không. Không ngoài dự đoán của gã, quả nhiên không có. Thế là gã quyết định tìm kiếm ở không gian giữa vô lăng và bảng táp lô.
Phần lớn là những đồ dùng cá nhân lặt vặt như dây thun, tăm, tai nghe. Ngô Sĩ Thịnh lại mở ngăn kéo nhỏ của táp lô, bên trong có hóa đơn và biên lai đè lên một cuốn sổ nhỏ có kẹp bút bi. Nội dung trong đó không có gì đặc biệt, chắc chỉ là một cuốn sổ chi tiêu.
Ngô Sĩ Thịnh lại mở hộp găng tay, lấy máy ghi âm cát xét ra trước, do dự một lúc lâu, cuối cùng quyết định sẽ chôm đi. Sau đó, gã lại lấy ra một xấp giấy và tài liệu dày từ trong hộp găng tay.
Bỏ qua giấy quảng cáo và tờ rơi nhà đất, chỉ còn lại một phong thư của công ty bảo hiểm tài sản Nam Sơn, bên trên có ghi tám chữ đỏ: “Tài liệu quan trọng, xin bóc đọc nhanh.” Ngô Sĩ Thịnh vốn định tìm xem có hóa đơn hay không, vì trên hóa đơn thường có địa chỉ, nào ngờ tìm được hợp đồng bảo hiểm làm gã hơi bất ngờ.
Gã lấy một xấp tài liệu từ trong phong thư ra, tờ trên cùng là biên lai thu phí bảo hiểm, ngoài địa chỉ, trên đó còn ghi rõ ngày ký phát, thời hạn bảo hiểm, người mua bảo hiểm, người được bảo hiểm và phí bảo hiểm. Xem thời hạn bảo hiểm thì đây đã là chuyện của gần nửa năm trước rồi, vả lại chỉ bảo hiểm từ 22/7/2016 - 30/7/2016, tổng cộng chín ngày, lẽ nào phải đi làm việc gì đó đặc biệt sao?
Tờ thứ hai đã cho gã biết nguyên nhân. Hóa ra đây là đơn bảo hiểm du lịch tổng hợp, có liệt kê các hạng mục được nhận bảo hiểm cùng số tiền tương ứng, tiền bảo hiểm tử vong và tàn tật là mười triệu.
Những giấy tờ còn lại là hợp đồng chi tiết và tờ khai thông tin cá nhân, Ngô Sĩ Thịnh lười xem, xé một trang giấy trắng từ cuốn sổ nhỏ, ghi lại họ tên, địa chỉ và số điện thoại trên đơn bảo hiểm, sau đó nhét giấy tờ vào phong thư, đặt trở lại hộp găng tay.
“Hóa ra hắn tên là Từ Hán Cường.”
Ngô Sĩ Thịnh vừa lẩm bẩm, vừa rút điện thoại trong túi ra. Gã bấm số, nhưng cuộc gọi đã chuyển tiếp sang hộp thư thoại.
Không mở máy sao? Gã bấm lại lần nữa, vẫn là hộp thư thoại.
Hết cách rồi, xem ra đành phải đi đến nhà hắn hỏi thăm một chuyến.
Ngô Sĩ Thịnh bước ra khỏi xe, đóng cửa lại, sau đó trở về xe của mình, mở thiết bị vệ tinh, châm một điếu thuốc, chuẩn bị chạy xe làm việc cả ngày.
Quách Thần San ngủ một mạch đến 11 giờ hơn mới bị ánh nắng chiếu vào đánh thức. Chị vươn vai, các khớp xương kêu lên “rắc rắc”. Bận rộn mấy tuần vì đám tang của em gái, cuối cùng đã có thể nghỉ ngơi cho khỏe. Chỉ là, dường như luôn có một làn khói mù vấn vít trong lòng chị, không xua đi được. Phân tích tâm lý của mình, chị cho rằng chắc hẳn bản thân không đón nhận nổi cái chết đột ngột của em gái, chứ chẳng phải vì đã không đáp ứng lời thỉnh cầu của Quách Tương Oánh trước khi chết.
Chị tự an ủi mình như vậy. Nhưng vẻ mặt thất vọng của em gái luôn hiện lên trong đầu mỗi lúc lơ đãng, khiến chị cảm thấy rất bứt rứt. Bỗng nhiên, Quách Thần San nhớ ra tối qua chồng không gọi điện thoại cho mình trước khi ngủ như thường lệ, bèn cầm điện thoại ở đầu giường lên kiểm tra.
Không có bất kỳ cuộc gọi nhỡ nào.
Quách Thần San vẫn ngồi ngây người trên giường, giọng chị giáo huấn Quách Tương Oánh mấy hôm trước vẫn còn văng vẳng bên tai. Chồng chị làm ăn ở Bắc Kinh, vài tháng mới về nhà một lần; con trai và con gái đều học Mỹ, rõ ràng tốn biết bao công sức mới nuôi nấng bồi dưỡng được chúng nên người, thế mà ngay cả điện thoại cũng không thèm gọi. Kết quả là, dù ngồi trong căn hộ cao cấp rộng vài trăm mét ở khu nhà giàu Thất Kỳ như mong muốn, nhưng chị chẳng thấy thoải mái chút nào, mà cứ như đang sống trong ngôi mộ. Như vậy thì bản thân chị có chỗ nào tốt hơn em gái chứ? Chị càng nghĩ càng nghi ngờ không biết mình có quyết định sai không, ban đầu nếu tiếp tục làm ngân hàng thì giờ sẽ giữ chức vị gì? Nếu tự thân chị nỗ lực làm việc thì cuộc sống bây giờ sẽ thế nào?
Chị thở dài, lại rơi vào tình trạng tự tra khảo bản thân với những câu hỏi “ban đầu như nào, bây giờ ra sao” vô tận.
Quách Thần San nhìn vào màn hình điện thoại, lướt Facebook vu vơ không mục đích, nhưng những nội dung rỗng tuếch và nhàm chán khiến tâm trạng chị càng thêm bực bội. Sau một hồi đắn đo, cuối cùng chị cũng mở Wechat, chủ động gọi video cho chồng.
Tiếng “tút tút tút tút” vang lên, mãi không có ai trả lời.
Đang bận sao?
Chị nhìn đồng hồ, định bỏ điện thoại xuống thì chồng chị gọi lại. Chỉ có điều, không phải là gọi video.
“A lô! Anh đang bận à?”
“Phải, giờ anh đang họp. Lát nữa gọi lại cho em sau.”
Hóa ra là vậy. Đã là họp thì đương nhiên có thể.
Quách Thần San đang định trả lời thì cổ họng như bị bóp nghẹt, không phát ra được tiếng nào.
Chị nghe thấy một tiếng “cách” rất nhỏ.
Đó là tiếng đậy nắp son môi.
“Sao thế? A lô!”
“Vâng.”
Quách Thần San dùng hết sức mới thốt nổi một từ này, rồi ngắt cuộc gọi ngay lập tức.
Chị mất một lúc lâu không thở bình thường được. Chức năng của toàn bộ cơ thể ngừng lại, đầu óc hỗn loạn như hồ dán, hàng trăm ngàn ý nghĩ đồng thời hiện lên, đập vào nhau trong não.
Không đâu, chắc chỉ là một nhân viên nữ đang trang điểm trong cuộc họp mà thôi...
Tuy Quách Thần San tự nhủ như vậy, nhưng chị không có cách nào gạt bỏ những ý nghĩ khủng khiếp đó ra khỏi đầu. Cách. Cách. Cách. Cách. Cách. Cách. Cách. Nụ cười nham hiểm của phụ nữ dần dần hiện ra trong bóng tối, chị liên tục nghe thấy tiếng đậy nắp son môi, màng nhĩ bắt đầu rung lên với tần số cao, phát ra tiếng rên rĩ như ve kêu.
Đây không phải là lần đầu tiên chị nghi ngờ chồng có bồ bên ngoài, chỉ là trước kia chưa bao giờ xuất hiện chứng cứ rõ ràng như lần này, hơn nữa, qua giọng chồng, chị có thể nghe ra đó là giọng nói sau khi ân ái mãnh liệt, mang theo mùi nhớp nháp uể oải và kiệt sức.
Vì vậy ban nãy mới không nghe máy sao? Vì sắp “ra” sao?
Quách Thần San có thể suy ra cảnh tượng chồng mình đang cài cúc áo sơ mi và một người phụ nữ đang trang điểm bên cạnh. Chị cảm nhận rõ các cơ quan trong cơ thể đã sụp đổ, quá trình trao đổi chất dừng lại, phát ra mùi chua thối rữa. Kim giây vẫn đang chạy, nhưng kể từ bây giờ, mùi của không khí hít vào phổi đã không còn như trước nữa.
Hồ Duệ Diệc không nói ra, nhưng chị cảm thấy khó bề tưởng tượng nhất, không phải là hai từ tiếng Bố Nông đó.
Wusabihe.
Đúng lúc chị đứng ngoài cửa phòng bảo hộ lắng nghe, Tư Tư không ngừng rít lên: “ Wusabibe! ”
Sở dĩ Hồ Duệ Diệc có ấn tượng đặc biệt sâu sắc với từ này là vì hồi đang công tác ở Lệ Hinh, nhằm hiểu thêm về văn hóa xã hội của người bản địa, chị đã tiếp xúc với rất nhiều nghiên cứu về dân tộc bản địa. Chị đã dành cả một tháng để đọc cuốn Con đường “Văn minh” của Hoàng Ưng Quý, cũng đọc hết các tác phẩm và dịch phẩm của Dương Nam Quận, trong số đó có cuốn Núi, mây và thổ dân của Tadao Kano. Cuốn sách ghi lại những điều tai nghe mắt thấy của tác giả khi leo các khối núi Ngọc Sơn, Tú Cô Loan Sơn, Mã Bác Lạp Tư Sơn, Trác Xã Đại Sơn.
Nếu Hồ Duệ Diệc nhớ không lầm, vào ngày mùng một tháng Chín năm Chiêu Hòa thứ 6 (1931), Tadao Kano và thổ dân ở xã Quận Đại xuất phát từ đồn cảnh sát địa phương, leo dọc theo rìa phía Tây của Đông Quận Đại Sơn. Lúc nghỉ ngơi, họ nhìn qua sông Quận Đại trông thấy rặng núi Ngọc Sơn ở phía Tây Nam, một thanh niên người Bố Nông biết nói tiếng Nhật đã hưng phấn hét lớn: “ Wusabihe (Ngọc Sơn)!”
Hồ Duệ Diệc cũng hỏi cụ thể Buni điều này, nhưng Buni nói với chị, Ngọc Sơn trong tiếng Bố Nông phải là “Saviah” hoặc “Usaviah” , cô ta chưa nghe thấy cách gọi “Wasabihe” bao giờ, hoặc có thể là từ cổ của tộc Bố Nông. Về sau nghĩ kỹ lại, Hồ Duệ Diệc cho rằng, chắc là cách phát âm tiếng Nhật đã dẫn đến sự khác biệt đó, “Usaviah” và “Wasabihe” thực ra là cùng một từ. Tin ngài Dương Nam Quận qua đời vào tháng Tám năm nay lại gợi lên trong đầu chị đoạn ký ức này.
Nhưng, tại sao Tư Tư đột nhiên nhắc đến Ngọc Sơn, ngọn núi thánh của tộc Bố Nông?
Còn cả “hanitu” và những cử chỉ khác thường kia...
Chưa bàn đến mấy từ kỳ lạ là “masamuan” , “hanitu” và “Wasabihe” , riêng việc cô ấy đột nhiên nói tiếng mẹ đẻ đã đủ khó tin. Theo chị được biết, sau khi Tư Tư rời bộ lạc năm mười hai tuổi, cô chưa về lại lần nào. Trong năm năm qua, cô đã nhập viện điều trị đến mấy chục lần vì trạng thái tinh thần chuyển biến xấu cấp tính, nhưng cũng chưa một lần nói tiếng Bố Nông.
Hồ Duệ Diệc không khỏi suy nghĩ lung tung, nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng liên tưởng đến lời đồn cổ xưa: Ma thần tử [*] .
Theo Hồ Duệ Diệc thấy, trạng thái của Quách Tương Oánh trước khi chết rất giống sắp bị Ma thần tử bắt, nội tâm chứa đầy hối tiếc và thù hận, không ngừng nói có ai đó sắp tới giết mình. Chị từng nghe có người giải thích rằng: “Suy nghĩ tiêu cực sinh ra năng lượng đen tối, năng lượng đen tối kích hoạt tần số không tốt, tần số không tốt sẽ cộng hưởng với Ma thần tử.” Quách Tương Oánh đã nuôi dưỡng ma quỷ trong lòng mình một thời gian dài, cuối cùng bị ma quỷ do mình nuôi lớn nuốt chửng, cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên. Chỉ có điều, Hồ Duệ Diệc nghĩ mãi không hiểu, tại sao Tư Tư đột nhiên nảy sinh năng lượng đen tối, và tại sao lại đột nhiên nhắc đến Ngọc Sơn.
Hồ Duệ Diệc mang theo mối nghi ngờ này ra khỏi bệnh viện, men theo đường Thạch Bài đến ga tàu điện. Chị để ý mấy hôm nay luôn có xe SNG [*] của các kênh tin tức đỗ ở khu vực này, không khỏi nghi ngờ tin tức mà bệnh viện cố phong tỏa đã lan truyền ra ngoài. Việc nhảy lầu và cái chết của Quách Tương Oánh đã thành đề tài để dư luận xã hội bàn tán về bất bình đẳng trong lao động. Khi xem các chương trình tạp kỹ vào buổi tối, Hồ Duệ Diệc cũng nhận thấy không ít các chuyên mục talkshow đã lấy đây làm chủ đề, mời những người có tiếng nói trên truyền hình phân tích nguồn gốc vấn đề và phương án giải quyết.
Hồ Duệ Diệc bước vào ga tàu điện ngầm Thạch Bài, lên tàu đến ga Đài Bắc. Chị và chồng hẹn nhau ăn tối ở nhà hàng Trung Quốc gần nhà. Họ gọi ba món một canh, lúc dùng bữa, Hồ Duệ Diệc không kìm được mà nói ra nghi ngờ trong lòng mình.
“Ma thần tử á? Không phải mấy tháng trước còn có tin liên quan sao? Một ông già đã mất tích năm ngày trong vùng núi Tân Điếm ấy.”
“Nhưng Tư Tư không ở trong núi mà.”
“Anh chỉ ví dụ thôi. À, anh nhớ ra rồi, trước đây từng xảy ra một vụ rất kỳ lạ.”
“Vụ gì?”
Chồng chị húp hết chỗ canh còn trong bát, suy nghĩ kỹ rồi mới nói:
“Em biết nhà máy Mộc Sách trực thuộc bên tàu điện ngầm không?”
“Nhà máy gì cơ?”
“Bỏ đi, không quan trọng. Tóm lại là có một người đàn ông đi thăm bạn, không biết tại sao ông ta lại lấy trộm một chiếc xe máy, chạy xe đến nhà máy Mộc Sách, nhảy từ tầng hai xuống, cổ bị rạch, chảy rất nhiều máu, phải đưa đến bệnh viện cấp cứu mới may mắn sống sót. Sau đó cảnh sát hỏi ông ta, ông ta nói mình bị thứ không giống người đuổi giết, nên mới nhảy lầu.”
“Có thể là ông ta nói linh tinh vậy để trốn tội thôi.”
Chồng Hồ Duệ Diệc nhìn chị với ánh mắt nửa cười nửa không.
“Em cho rằng người ta có nhảy lầu để thoát tội trộm xe không?”
“Gần đây bệnh viện chúng em có một bệnh nhân mới chết, lúc cô ấy đến cũng liên tục nói rằng có người muốn giết mình, nhưng sau khi đánh giá, bác sĩ cho rằng cô ấy bị tâm thần phân liệt rất nghiêm trọng. Nghe nói đến tối tình trạng của cô ấy trở nên rất tệ, thuốc thang hoàn toàn không có tác dụng, kết quả là nhân lúc đêm khuya cô ấy đã dùng gối làm mình chết ngạt.”
“Những gì bác sĩ nói có chắc đúng không?”
“Em không bảo là chắc chắn đúng, chỉ là vừa hay y học có thể giải thích vấn đề về phương diện này thôi.”
“Thật sao? Vậy em giải thích thế nào về tình trạng của Tư Tư?”
“Có thể cô ấy bị kích động vì cái chết của bạn cùng phòng.”
“Nhưng em vẫn còn nghi ngờ.”
“Đó là vì cô ấy không ngừng nhắc đến Ngọc Sơn, còn cả ma nữa, trước đây cô ấy không phát bệnh như thế này.”
“Cho nên em mới nghĩ đến Ma thần tử, không phải sao?”
“Em sẽ cố không nghĩ theo hướng đó.”
“Anh không muốn tranh cãi với em, có điều trên đời này vẫn còn rất nhiều chuyện khoa học không sao giải thích nổi đâu.”
“Anh nghỉ hưu ở nhà rảnh quá, nên mới nghĩ đến những thứ viển vông đó thì có.”
Tuy mồm Hồ Duệ Diệc nói vậy, nhưng lòng chị lại dao động.
Giả sử có Ma thần tử thật thì sao?
Đầu tiên là Quách Tương Oánh, sau đó là Tư Tư. Chị từng nghe một quan niệm: Những oan hồn chết uổng biến thành Ma thần tử, để đầu thai chuyển kiếp lần nữa thì phải tìm một người chết thay, thường được gọi là “tìm thế thân”. Nếu đúng như vậy thì rốt cuộc Quách Tương Oánh đã chọc phải ác quỷ gì đây?
Sau khi về nhà tắm rửa xong, chị rút cuốn Núi, mây và thổ dân từ trên giá sách xuống.
Trong quá trình đọc, lại một lần nữa chị cảm nhận được những câu chữ chân thành, nhiệt huyết của Tadao Kano, nhưng cũng có thể nhìn ra mâu thuẫn trong nội tâm của tác giả, từng câu từng chữ không ngừng dao động giữa bá quyền của đế quốc Nhật Bản và người dân bản địa vùng rừng núi Đài Loan. Nhất là vào năm Chiêu Hòa thứ 3 xảy ra “sự kiện thổ dân xã Quận Đại tẩu thoát”, do cảnh sát bị dân bản địa tập kích, cục Cảnh sát đã hạ lệnh những người không liên quan không được phép vào “núi Tân Cao (Ngọc Sơn)”, hoạt động leo núi của Tadao Kano cũng bị ảnh hưởng theo.
Nhưng Tadao Kano không cam tâm từ bỏ. Trong cuốn Leo núi Trác Xã Đại Sơn , ông ấy có nhắc đến việc mình tới thăm ông trưởng huyện Kotou và cảnh sát trưởng Itoi, sau một cuộc trò chuyện dài, đối phương rất cuộc đồng ý phê duyệt và cấp cho ông “giấy phép vào đất thổ dân”, nhưng bắt phải tăng cường cảnh giác, phái mười lăm vệ binh cầm súng cùng lên núi.
Núi Tân Cao bị phong tỏa đến tận mùa hè năm sau mới mở cửa. Trong quãng thời gian bị phong tỏa này, đã có bốn đồn cảnh sát được lập mới - đồn cảnh sát Tân Cao, đồn cảnh sát Banaiko (Ba Nại Y Khắc), đồn cảnh sát núi Tsutsuji (Trịch Trục), đồn cảnh sát phía Nam. Có điều chú thích của Dương Nam Quận lại chỉ rõ rằng, hai đồn cảnh sát cuối cùng được lập mới vì “sự kiện thổ dân xã Quận Đại tẩu thoát” là đồn cảnh sát Tân Cao và Ba Nại Y Khắc. Đến nay quá nửa di chỉ của những đồn cảnh sát này đã được cải tạo thành trại leo núi, trong đó có đồn Ba Nại Y Khắc là đặc biệt hơn cả, sở Lâm nghiệp đã xây dựng một lán leo núi trên nền đồn cảnh sát cũ, để cho những người leo núi có thể lánh nạn lúc khẩn cấp.
Hồ Duệ Diệc nhìn chằm chằm vào bức ảnh trong sách, chìm đắm trong suy nghĩ.
Đó là bức ảnh chụp chung giữa cảnh sát Nhật ở đồn Ba Nại Y Khắc và một gia đình người Bố Nông, từ khuôn mặt của phụ nữ và trẻ em người Bố Nông, thể nhìn ra vẻ cảnh giác và bất an. Hồ Duệ Diệc cũng từng nhìn thấy biểu cảm này trên gương mặt Buni và Tư Tư, chúng bắt nguồn từ những cuộc xâm lược của thế giới bên ngoài, khiến họ từ tận đáy lòng không tin vào xã hội, sợ hãi mọi người ngoại lai.
Hồ Duệ Diệc tìm được truyền thuyết của người Bố Nông trong chương cuối cùng của cuốn sách. Trên đó viết rằng, thời xưa có một tộc người lùn tên là “Saluso (Sa Lỗ Sách)” sống ở bờ Đông của sông Quận Đại, bọn họ thường bắn tên vào thổ dân đi qua đó, thổ dân nổi giận tính bắc cầu qua sông, nhân lúc người lùn đi qua chặt đứt cây cầu, vì thế mà toàn bộ tộc người lùn bị chết đuối.
Về Ma thần tử, có người cho rằng đó là sự nối dài của truyền thuyết về tộc người lùn bản địa, nhưng sở dĩ truyền thuyết về người lùn dần biến thành ác ma trong tín ngưỡng có lẽ là vì những người gây tội ác thấy hổ thẹn và hận thù chăng: Hồ Duệ Diệc gập sách lại, cất lên giá sách.
“Đúng rồi.”
Chồng chị vừa cầm khăn lau tóc, vừa bước ra khỏi phòng tắm.
"Hå?”
“Anh chợt nhớ ra, tháng trước lúc đi biểu tình có nghe được một câu chuyện liên quan đến Ma thần tử.”
“Anh nói cuộc biểu tình mùng ba tháng Chín à? Câu chuyện gì thế?”
“Đó là một bác già, chắc phải ngoài tám mươi. Lúc đội thứ ba của bọn anh báo cáo chỉnh đốn hàng ngũ ở quảng trường Tự Do, mọi người vừa phàn nàn về việc cải cách lương hưu, vừa nói chuyện phiếm. Có một bác già lớn giọng tuyên bố, hai tuần trước đồng đội của bác ta bị Ma thần tử bắt đến vùng núi Tân Điếm, còn lên cả thời sự. Sau đó ông bác vẫn tiếp tục chủ đề này, nói là trước đây ông ấy sống ở vùng Đông Bắc, từng gặp một vụ việc rất ly kỳ.”
“Sao lại liên quan đến vùng Đông Bắc?”
“Em đừng sốt ruột. Ông bác ấy kể rằng, bố mình có quan hệ rất tốt với một người Nhật Bản, nên hồi ông bốn tuổi, bố ông dẫn cả nhà theo người Nhật Bản đó đến vùng Đông Bắc để phát triển. Trong khoảng thời gian này gia đình họ từng có lần theo Tạ Giới Thạch [*] về lại Đài Loan. Ấy, em có biết Tạ Giới Thạch không?”
“Anh nói vào trọng điểm đi.”
“Trong lần về lại quê hương đó, ông ấy đã gặp một Ma thần tử.”
Hồ Duệ Diệc cau mày: “Rồi sao?”
“Tối hôm đó, ông ấy và người nhà ngủ nhờ nhà bạn, sáng hôm sau, tra mỗ nhàn của nhà người bạn mất tích.”
“Tra mỗ nhàn?”
“Đó là con dâu nuôi từ nhỏ, thường vì tiền sính lễ quá cao nên mới mua dâu về trước, nhưng cũng có người coi tra mỗ nhàn như người hầu, thậm chí còn coi họ là đồ chơi gán cho chủ nợ mua vui mỗi khi thua bạc.”
Từ lâu Hồ Duệ Diệc đã quen với những chuyện kiểu này nên không thấy lạ, chị sốt ruột giục chồng kể tiếp.
“Sau này khi về đến vùng Đông Bắc, bọn họ cũng không tiện truy hỏi chuyện này. Vả lại ông ấy nói, nhìn phản ứng thì hình như người bạn đó chỉ coi vụ mất tích này như lạc mất một con chó.”
“Thế thôi à?”
“Đương nhiên vẫn chưa kết thúc. Sau đó, một người bạn khác sống ở Đài Bắc viết thư kể cho ông ấy nghe một vụ chết người kỳ lạ, nói rằng có một đứa bé chết chìm trong giếng Hổ ở mé Tây, nhưng lúc phát hiện ra thi thể thì nắp gỗ đậy miệng giếng đã được đậy lại, mọi người đều cho rằng lại là Ma thần tử làm.
“Cho nên ông ấy liền viết thư hồi âm hỏi bạn mình, Ma thần tử đó là ai?
“Bạn ông ấy đương nhiên không thể biết đó là ai, chỉ nói là có rất nhiều người bị hại chết, phần lớn đều là phụ nữ và trẻ em, hơn nữa ngoài Bành Hồ, năm châu hai sảnh còn lại đều có những tin tương tự. Sau đó ông ấy lại viết thư hỏi, tại sao lại nói là cùng một Ma thần tử. Hóa ra vì những án mạng này đều có những yếu tố không thể tưởng tượng nổi, với lại nghe nói trước khi chết những người này đều bảo họ nghe thấy giọng nói kỳ lạ, dường như có người đang nói chuyện với họ từ một nơi rất xa.”
Nghe đến câu này, Hồ Duệ Diệc lập tức cảm thấy dựng tóc gáy.
“Bệnh nhân chết trong bệnh viện của bọn em... Ừm... Cũng từng nói những lời tương tự.”
“Thế à, chưa biết chừng là cùng một Ma thần tử đấy, ha ha.”
Người chồng tự cho rằng câu đùa của mình rất buồn cười, nhưng nhận ra sắc mặt của Hồ Duệ Diệc trắng bệch, biểu cảm cứng đờ không có nét cười nào, anh liền ngưng cười.
“Sau đó thì sao? Anh lòng vòng mãi mà vẫn chưa nói tung tích của cô tra mỗ nhàn đó.”
“Anh đang định nói đây. Ông bác đó sợ đến đần cả người, vì tối hôm ông ấy ở lại, vừa khéo nhìn thấy cô tra mỗ nhàn đó đi dạo ở sân trong một mình, tự lẩm bẩm nói chuyện. Ông ấy có đề cập đến việc này trong thư, nhưng phải đợi mất mấy tháng thì bạn ông mới hồi âm.
“Sao phải đợi mấy tháng liền?”
“Em chắc chắn mình muốn nghe chứ?”
Chồng chị thu lại vẻ tươi cười, gương mặt thoáng vẻ âm u.
“Muốn nghe chứ, anh sắp kể xong rồi mà.”
“Bạn ông ấy nói trong thư rằng: Chuyện này dừng đây thôi, chúng ta đừng bàn tiếp nữa.”
“Này, anh đùa em đấy à!”
“Đương nhiên không phải. Ông ấy gửi thư hỏi tiếp, nhấn mạnh rằng mình nhất định phải biết. Kết quả là lại phải đợi thêm mấy tháng người bạn mới hồi đáp, hóa ra cô tra mỗ nhân đó chết trong bếp lò, mà lúc đun củi mới phát hiện ra.”
Hồ Duệ Diệc không kìm được tưởng tượng đến cảnh: xác chết cuộn tròn trong lò, ánh lửa từ củi khô bập bùng hắt lên khuôn mặt trắng bệch, người phụ trách việc quạt gió nhất định sẽ bị dọa cho hồn bay phách tán, e là cả đời này không dám vào nhà bếp nữa.
“Tự em nói muốn nghe đấy nhé, gặp ác mộng thì cũng không liên quan đến anh.”
“Lẽ nào xác chết không bốc mùi sao?”
“Đó không phải điểm ly kỳ nhất. Ly kỳ nhất là, cửa bếp lò đó rất nhỏ, người bình thường vốn không thể bò vào được.”
“Liệu có phải vào từ phía miệng để nồi...”
“Chắc em không biết rồi, ngoài một cái kiềng tròn để cố định nồi, bên dưới còn có phần bụng lò dạng bát, đều được trát bằng xi măng, nói tóm lại là không thể. Nghe nói trong số những vụ án chưa có lời giải này, chỉ có vài vụ được đăng lên Nhật nhật tân báo với tiêu đề là ‘ma giấu’, phần lớn chúng đều bị phong tỏa tin tức vì quá kinh dị, bởi vậy bạn của ông ấy có lẽ cũng lo bức thư bị điều tra đến...”
Hồ Duệ Diệc rối như tơ vò, dần dần không nghe thấy giọng nói của chồng nữa. Chị nghĩ, có thể hay không đã không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là những vụ án chưa có lời giải trong thời kỳ Nhật trị đó có liên quan đến cái chết của Quách Tương Oánh, và cả những hành vi bất thường của Tư Tư không. Nếu là có, vậy thì chị tuyệt đối không thể thờ ơ ngồi nhìn. Chị đã tận mắt nhìn thấy Tư Tư bị xã hội này chèn ép đến phát điên giống như Buni, không thể tiếp tục nhìn Tư Tư bước lên con đường chết mà Quách Tương Oánh đã đi.
Nơi ở của Từ Hán Cường không hề khó tìm, nằm gần ga Phục Hưng Cương. Ban đầu lúc mới nhìn địa chỉ, Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy có vẻ hơi xa, nhưng khi lái xe qua thì lại gần đến không ngờ. Lái xe về phía Bắc dọc theo tuyến tàu điện ngầm, đến phân cục cảnh sát Bắc Đầu thì rẽ sang đường Bắc Trung Ương, xuyên qua khu tinh hoa của Bắc Đầu, sau đó rẽ phải vào khu phố gần trung tâm của ga Phục Hưng Cương. Sau khi leo dốc một đoạn ngắn, cuối cùng gã cũng tìm được nhà của Từ Hán Cường trong một ngõ nhỏ, tạm thời đỗ xe ở cửa.
Gã bấm chuông cửa mấy lần, không có ai trả lời. Ngồi trên xe đợi tới đợi lui khoảng mười mấy phút, Ngô Sĩ Thịnh cảm thấy không thể cứ ngồi đợi mãi. Gã để ý hòm thư bằng sắt màu đen treo cạnh cổng bị nhét kín tờ rơi và thư đến tràn cả ra, có một số bưu phẩm thậm chí còn rơi trên mặt đất, không rõ là do bưu tá vứt hay do đầy tràn. Gã nhặt những bưu phẩm đó lên, nhìn trên phong bì thì có thể thấy chúng là mấy thứ không quan trọng.
Gã do dự mất năm phút, cuối cùng vẫn quyết định tự tiện rút lấy những bức thư và tờ rơi bị tràn ra ngoài khe hòm thư.
Ngô Sĩ Thịnh ôm một xấp giấy, lủi về xe tức tốc lục tìm, nhưng kết quả vẫn vậy, toàn là những thứ vô dụng.
Tuy nhiên, đúng vào lúc chuẩn bị nhét đống thư từ và tờ rơi vô dụng này trở lại hòm thư, gã nhìn thấy một tấm giấy màu trắng qua ô cửa kính mờ trên cánh cửa hòm thư.
Gã đặt những bức thư đã kiểm tra lên trên ghế lái phụ, sau đó dùng móng tay khều nhẹ của hòm thư.
Hơi lỏng.
Hòm thư đã hoen gỉ, trông có vẻ không khóa. Tuy vậy, Ngô Sĩ Thịnh khều lấy khều để mà cánh cửa vẫn không hề động đậy. Gã suy nghĩ một lát, cuối cùng quyết định cố nhét chìa của mình vào lỗ khóa, dùng phương pháp đòn bẩy để cạy cửa.
Cuối cùng, cánh cửa hòm thư mở bung, một tấm bưu thiếp in phong cảnh A Lý Sơn rơi ra ngoài.
Ngô Sĩ Thịnh nhặt tấm bưu thiếp lên, lật sang mặt sau, không khỏi thở hắt ra một hơi.
Đây là tấm bưu thiếp Từ Hán Cường tự viết.
Bố:
Năm nghìn đồng bố cho con con không dùng. Vẫn để ở trên bàn.
Giọng nói đó sẽ giết chết con. ©*#%@ Con phải vào trong núi tiêu diệt cô ta. Sau một tuần con không về thì tức là đã chết. Không cần tìm xác con. Dù sao chắc bố cũng thoải mái #%@©*
Bố cũng không cần đến thăm con nữa. Mỗi tháng cho con một ít tiền thì chết đấy, cũng không cần chi tiền tang ma đâu.
Ở giữa có mấy chữ bị nhòe vì nước mưa. Nhưng từ vài câu ngắn ngủi đọc được đó, Ngô Sĩ Thịnh cảm nhận rõ nỗi hận trong lòng Từ Hán Cường. Chẳng rõ tại sao gã không cảm thấy kỳ lạ hay không chấp nhận được, mà lại như thể đã biết trước nội dung tấm bưu thiếp này vậy.
Không sai, giọng nói đó sẽ giết người, và mình cũng phải tìm ra nguồn gốc, tiêu diệt nó.
Tuy nhiên, điều Ngô Sĩ Thịnh không hiểu là Từ Hán Cường dựa vào manh mối gì để nhận định nguồn gốc của giọng nói đó nằm ở trong núi, với lại, rốt cuộc đó là ngọn ở núi nào?
Từ Hán Cường không chỉ quên ký tên vào cuối thư, mà còn quên ghi chú ngày tháng viết thư, có lẽ đã tính đến việc quầy bưu cục sẽ giúp mình đóng dấu của bưu cục A Lý Sơn, nhưng từ nét chữ nguệch ngoạc, Ngô Sĩ Thịnh phán đoán rằng tâm trí Từ Hán Cường lúc đó không thể chú ý đến những tiểu tiết này.
Cho dù thế nào, dấu bưu điệ